Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát đặc điểm gây mê hồi sức trong phẫu thuật u não trên lều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.86 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM GÂY MÊ HỒI SỨC  
TRONG PHẪU THUẬT U NÃO TRÊN LỀU 
Nguyễn Thị Thanh**, Huỳnh Văn Bình* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: hai yếu tố quan trọng trong gây mê hồi sức mổ u não trên lều là áp lực tưới máu não và áp lực 
nội sọ cần phải được kiểm soát. 
Mục  tiêu:  khảo  sát  đặc  điểm  gây  mê  hồi  sức  trong  phẫu  thuật  u  não  trên  lều  chương  trình  tại  khoa 
PTGMHS, từ 01/01/2011 đến 30/06/2011. 
Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiến cứu loạt ca, tất cả những bệnh nhân có phẫu thuật u não trên lều 
chương trình. Tất cả các trường được gây mê toàn thân với thuốc mê tĩnh mạch là propofol 1%. Xử lý số liệu 
bằng phần mềm thống kê SPSS 15,0. 
Kết quả:  chúng tôi đã khảo sát 22 TH có 10 nam và 12 nữ, tuổi trung bình 43 ± 13 năm. Cavernoma là 6 
ca (27,3%), astrocytoma 5 ca (22,7%), meningioma 5 ca (22,7%), hemangioblastoma 2 ca (9,1%), ependynoma 2 
ca (9,1%), oligodenroglioma 1 ca (4,5%) và u não di căn 1 ca (4,5%). Thời gian phẫu thuật trung bình 189 ± 34 
phút.  Nhức  đầu  63,6%,  buồn  nôn  hoặc  nôn  18,2%,  liệt  nửa  người  22,7%  và  động  kinh  36,4%.  Điều  trị 
corticoide trước mổ 36,4%. ASA 2/3 là 68,2%/31,8%, mallampati I (31,8%), II (54,5%) và III (13,6%). Thuốc 
mê: isoflurane 59,1% và sevoflurane 40,9%, có 18,2% dùng fentanyl và sulfentanil là 81,8%. Có sự giảm HATB 
sau khởi mê và tăng nhẹ lúc rạch da (p = 0,008). Không có sự khác biệt về nhịp tim, huyết áp và tỷ lệ dùng 
manitol 20% trong mổ giữa sevoflurane, isoflurane, fentanyl, sulfentanil và corticoide trước mổ. Sau mổ: thở 
máy kiểm soát 22,7%, không thở máy 77,3% (thời gian tỉnh mê 53 phút, không có sự khác biệt về thời gian tỉnh 
mê giữa sevoflurane và isoflurane), thời gian nằm hồi sức < 24 giờ (77,3%), 24 – 48 giờ (9,1%) và > 48 giờ 
(13,6%); thời gian nằm viện 23,2 ± 12,6 ngày, biến chứng sau mổ và tử vong là 0%. 
Kết luận: không có sự khác biệt về huyết động, mức độ phù não giữa các thuốc mê hô hấp (sevoflurane và 
isolurane). Phương pháp gây mê nồng độ đích với propofol kết hợp duy trì remifentanil có thể giúp cải thiện tình 
trạng phù não trong lúc mổ và cần phải được nghiên cứu. 
Từ khóa: u não, u não trên lều,gây mê hồi sức mổ thần kinh, phù não, isoflurane, sevoflurane, propofol. 



ABSTRACT 
INVESTIGATED THE CHARACTERISTICS OF ANESTHESIA  
FOR SUPRATENTORIAL CEREBRAL TUMORS SURGERY 
Nguyen Thi Thanh, Huynh Van Binh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 219 ‐ 224 
Background: the important two factors in anesthesia for neurosurgery were cerebral perfusion pressure and 
intracranial pressure must be cotrolled. 
Objectives:  investigated  the  characteristics  of  anesthesia  for  supratentorial  cerebral  tuomors  surgery  at 
Surgical – anesthesia – intensive care department in Gia Đinh people’s hospital from 01//2010 to 06/2011. 
Methods: the study was cohorts, descriptive, prospective all the patients, who was surgical supratentorial 
cerebral tumors. General anesthesia witn propofol 1% was choiced for all of cases. Data analysised by SPSS 15.0. 
Results: there were 22 cases: male 10 cases and female 12 cases, mean ages 43 ± 13 y.o. Cavernoma was 6 
cases  (27.3%),  astrocytoma  5  cases  (22.7%),  meningioma  5  cases  (22.7%),  hemangioblastoma  2  cases  (9.1%), 


Khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định,    
Tác giả liên lạc:    TS.BS.Nguyễn Thị Thanh             ĐT: 0918578857     Email: 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

219


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 

ependynoma 2 cases (9.1%), oligodenroglioma 1 case (4.5%) and metastatic brain tumors 1 case (4.5%). Mean 
operating time was 189 ± 34 minutes. Headache was 63.6%, nause or vomiting 18.2%, hemiplegia 22.7% and 
seizures  36.4%.  The  preoperative  corticosteroid  therpy  was  36.4%.  Risk  factors  of  anesthesia:  ASA‐2/3  was 

68.2%/31.8%, mallampati I 31.8%, II (54.5%) and III (13.6%). Anesthetics: isoflurane 59.1% and sevoflurane 
40.9%; fentanyl was 18.2% and sulfentanil 81.8%. Mean arterial pressure (MAP) decresed after aneshesia and 
incision (p = 0.008). The different not significant heart rate, MAP and incidence using intraoperative manitol 
20%  between  sevoflurane,  isoflurane,  fentanyl,  sulfentanil  and  operative  corticosteroid  therapy.  In  operative: 
mechanical ventilation was 22.7%, without MV was 77.3%  (extubation  time    was  53  minutes,  no  differences 
betweens sevoflurane and isoflurane), lenght of stay SICU < 24 hours was 77.3%, 24 – 48 hours  (9.1%) and > 
48 hours (13.6%); duration of treatment was 23.2 ± 12.6 days, postoperative complications and motarlity  were 
0%. 
Conclusions:  no  differences  in  hemodynamics  and  the  level  of  cerebral  edema  betweens  inhalation 
anesthetics, anesthesia controlled target concetration with  propofol combine remifentanil should be studied. 
Key  words:  supratentorial  cerebral  tumors,  anesthesia  in  neurosurgery,  sevoflurane,  isoflurane,  cerebral 
edema. 
của Nguyễn Văn Chừng và Nguyễn Ngọc Anh 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
tại bệnh viện Nhân dân 115, khảo sát 64 TH mổ 
Trong gây mê hồi sức phẫu thuật u não, hai 
u màng não, kết quả cho thấy ba yếu tố nguy cơ 
yếu tố quan trọng cần phải được kiểm soát là áp 
trong mổ là: hô hấp (tăng áp lực đường thở, gập, 
lực  tưới  máu  não  (ALTMN)  và  áp  lực  nội  sọ 
tắc hoặc tụt ống nội khí quản), tuần hoàn (chậm 
(ALNS). Người bác sĩ gây mê cần phải lựa chọn 
nhịp tim, tụt huyết áp) và thần kinh (phù não)(8). 
thuốc  mê  ít  tác  động  đến  tuần  hoàn  máu  não, 
Tại  bệnh  viện  Nhân  dân  Gia  Định,  phẫu 
giảm chuyển hóa não và giảm áp lực nội sọ. 
thuật  thần  kinh  chuyên  sâu  đang  ngày  càng 
Gây  mê  toàn  thân  là  phương  pháp  vô  cảm 
phát  triển,  trong  đó  phẫu  thuật  u  não  và  vi 
thường  được  lựa  chọn  trong  phẫu  thuật  u  não 

phẫu đang được chú trọng. Do đó, gây mê hồi 
trên lều. Hiện nay các nước phát triển đang ngày 
sức  cũng  cần  phải  phát  triển  và  có  phương 
càng lựa chọn phẫu thuật ít xâm lấn, phẫu thuật 
pháp  gây  mê  hồi  sức  phù  hợp,  cần  có  những 
định  vị,  mở  sọ  hở  bệnh  nhân  tỉnh,  cần  bệnh 
nghiên  cứu  về  hiệu  quả  và  tác  động  của  gây 
nhân  tỉnh  sớm  và  êm  dịu  giúp  đánh  giá  tình 
mê  đối  với  phẫu  thuật,  chúng  tôi  thức  hiện 
trạng  thần  kinh  sau  mổ(6).  Mặt  khác,  giai  đoạn 
nghiên cứu này với mục tiêu:  
tỉnh mê não chịu đựng đã kích rất lớn: huyết áp 
‐ Khảo sát đặc điểm chung của phẫu thuật u 
tăng, phù não, tăng vận tốc dòng chảy máu não, 
não trên lều. 
đặc  biệt  là  thời  điểm  30  phút  sau  rút  nội  khí 
‐ Khảo sát sự thay đổi huyết động (nhịp tim, 
quản(2,3) nên việc chọn thuốc mê giúp bệnh nhân 
huyết áp) trong mổ. 
hồi  phục  tri  giác  sớm,  êm  dịu,  ít  tác  động  đến 
‐ Khảo sát tỷ lệ biến chứng và tử vong sau 
tuần  hoàn  não  là  rất  cần  thiết.  Vì  vậy,  phương 
mổ. 
pháp gây mê hồi sức và lựa chọn thuốc mê cũng 
có nhiều thay đổi. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tại  Việt  Nam,  phẫu  thuật  thần  kinh  đang 
ngày càng phát triển(9,11), tuy nhiên phương pháp 
gây mê được lựa chọn vẫn là gây mê toàn thân 
duy  trì  thuốc  mê  hô  hấp  isoflurane  hoặc 

sevoflurane,  chưa  có  nhiều  công  trình  nghiên 
cứu về vấn đề này. Năm 2005, một nghiên cứu 

220

Nghiên cứu mô tả loạt ca, tiến cứu. 
Tiêu  chuẩn  chọn  mẫu:  tất  cả  những  bệnh 
nhân phẫu thuật chương trình u não trên lều tại 
khoa PTGMHS từ tháng 01/2010 đến 06/2011. 
Tất  cả  các  số  liệu  cần  thu  thập  sẽ  được  thu 
thập  vào  một  bảng  thu  thập  số  liệu  được  soạn 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 

Nghiên cứu Y học

sẵn, mỗi TH một phiếu. 
Tất  cả  các  số  liệu  được  thu  thập  sẽ  được 
thống  kê  và  xử  lý  bằng  phần  mềm  thống  kê 
SPSS 15.0. 

cavernoma 177,5 ± 26,2, astrocytoma 194 ± 50,7, 
meningioma 185 ± 27,8, hemangioblastoma 200 ± 
56,6,  ependynoma  215  ±  35,4,  oligodenroglioma 
175 phút, u não di căn 195 phút. 

Các  biến  số  định  tính  được  trình  bày  bằng 

tần số và tỷ lệ % là bệnh lý đi kèm, triệu chứng 
lâm  sàng,  đặc  điểm  khối  u,  loại  thuốc  gây  mê 
được sử dụng, biến chứng sau mổ. 
Các số liệu định lượng được trình bày bằng 
số  trung  bình  ±  độ  lệch  chuẩn,  giá  trị  lớn  nhất, 
giá  trị  nhỏ  nhất  là  thời  gian  phẫu  thuật,  đặc 
điểm huyết động (nhịp tim, huyết áp), thời gian 
tỉnh mê, thời gian nằm viện. 

Đặc điểm về gây mê hồi sức. 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Khảo sát 22  TH  phẫu  thuật  u  não  trên  lều 
có 10 nam (45,5%) và 12 nữ (54,5%), tỷ lệ nam : 
nữ là 1 : 1,2; tuổi trung bình 43 ± 13 (năm), nhỏ 
nhất là 19 và lớn nhất 66 năm; chiều cao trung 
bình là 1,6 ± 0,1 m và cân nặng trung bình là 58 
± 9 kg, chỉ số khối cơ thể ‐ BMI trung bình 22 ± 
1 (kg/m2). 
Bệnh  lý  đi  kèm:  lao  phổi  cũ  có  3  TH 
(13,6%),  cao  huyết  áp  và  đái  tháo  đường  có  1 
TH  (4,5%),  hở  van  3  lá  có  1  TH  (4,5%),  cường 
giáp  đang  điều  trị  có  1  TH  (4,5%),  viêm  gan 
siêu B có 1 TH (4,5%). 
Đặc  điểm  lâm  sàng:  nhức  đầu  có  14  TH  
(63,8%), buồn nôn có 4 TH (18,2%), động kinh có 
8  TH  (36,4%),  liệt  nửa  người  có  5  TH  (22,7%), 
Natri máu < 135 mmol/l có 4 TH (18,3%), điều trị 
corticoide trước mổ có 8 TH (36,4%). 


Đặc điểm phẫu thuật 
Loại  u:  cavernoma  có  6  TH  (27,3%), 
astrocytoma  có  5  TH  (22,7%),  meningioma  có  5 
TH  (22,7%),  hemangioblastoma  có  2  TH  (9,1%), 
ependynoma  có  2  TH  (9,1%),  oligodenroglioma 
có 1 TH (4,5%), u não di căn có 1 TH (4,5%). 
Vị trí u: thái dương có 7 TH (31,8%), trán có 
6  TH  (27,3%),  chẩm  có  5  TH  (22,7%),  đỉnh  có  3 
TH (13,6%), não thất có 1 TH (4,5%). 

ASA  2  là  15  TH  (68,2%)  và  ASA  3  là  7  TH 
(31,8%). Mallampati mức độ I/II/III là 7/12/3 TH. 
Tấc  cả  các  TH  NC  được  khởi  mê  midazolam  2 
mg  và  propofol  1%,  dãn  cơ  duy  trì  là 
rocuronium. 

Thuốc gây mê được lựa chọn. 
Dãn  cơ  đặt  NKQ:  Succinycholin  có  3  TH 
(13,6%), rocuronium có 19 TH (86,4%), thuốc mê 
hô hấp: isoflurane có 13 TH (59,1%), sevoflurane 
có 9 TH (40,9%), thuốc phiện:  fentanyl  có  4  TH 
(18,2%), sulfentanil có 18 TH (81,8%). 
Có  2  TH  dùng  epherine  trong  mổ:  1  TH 
dùng 3mg và 1 TH dùng 6 mg; có 11 TH dùng 
manitol  20%,  lượng  dịch  truyền  trung  bình  là 
1745 ml, ít nhất là 900 ml và nhiều nhất là 4000 
ml; lượng máu mất trong mổ trung bình là 256 
ml,  ít  nhất  là  100  ml  và  nhiều  nhất  là  500ml, 
không có TH nào truyền máu. 


Đặc điểm về huyết động. 
Bảng 1: Đặc điểm về huyết động. 
T0

T1

T2

T3

T4

Nhịp tim
82 ± 12
(lần/phút)

83 ± 13

82 ± 14 79 ± 11 78 ± 10

HATB
(mmHg)

88 ± 12

78 ± 11 79 ± 10

93 ± 13

83 ± 7


HATTh
(mmHg)

130 ± 20 121 ± 17 107 ± 16 108 ± 15 116 ± 14

HATTr
(mmHg)

74 ± 11

71 ± 12

63 ± 9

65 ± 9

66 ± 7

HATB: huyết áp trung bình; HATTh: huyết áp tâm thu; 
HATTr: huyết áp tâm trương 

Thời gian phẫu thuật 
Trung bình là 189 ± 34 phút, dài nhất là 280 
phút;  và  ngắn  nhất  là  145  phút.  Trong  đó: 

 
Biểu đồ 1: Sự thay đổi nhịp tim và huyết áp trung 
bình (HATB). *Chú thích: T0 (ban dầu); T1 (sau gây 


Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

221


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
mê); T2 (sau dặt NKQ); T3 (sau rạch da); T4 (tỉnh mê). 

Nhận  xét:  HATB  giảm  sau  khi  gây  mê  và 
tăng nhẹ lúc rạch da (p = 0,008 và cuối cuộc mổ), 
nhịp tim tăng nhẹ sau khi khởi mê và giảm sau 
khi đặt NKQ và rạch da. 

Đặc điểm sau mổ. 
Trong 22 TH phẫu thuật u não trên lều, có 17 
TH tự thở sau mổ và có 5 TH thở máy sau mổ, 
trong đó: 
Bảng 2: Loại bệnh lý có thở máy sau mổ 
Nguyên nhân Tần số Thời gian thở máy (giờ)
U màng não
3
6, 8, 36*
Hô hấp kém do
1
2
lao phỗi cũ
1
4

Cao huyết áp

*: 1 ca thở máy 6 giờ, 1 ca thở máy 8 giờ và 1 ca thở máy 
36 giờ. 

Tất cả đều cai máy và rút nội khí quản thành 
công, không có ca nào có biến chứng sau mổ, tử 
vong là 0%. 
Có 17 TH nằm hồi sức < 24 giờ (77,3%), 2 TH 
từ 24‐48 giờ (9%) và 3 TH > 36 giờ (13,6%), trong 
đó:  5  TH  nằm  hồi  sức  >  24  giờ  là  5  TH  có  thở 
máy sau mổ. 

Kết quả điều trị  

Có 16 TH điều trị corticoid, tuy nhiên không 
có sự khác biệt về mức độ phù não thể hiện qua 
tỷ  lệ  sử  dụng  manitol  20%  trong  mổ  (p  >  0,3). 
Theo  Bewavy  và  cộng  sự  (2012),  việc  sử  dụng 
corticoide chu phẫu có thể giúp giảm đau, buồn 
nôn sau mổ, nhưng cũng có nhiều tác dụng phụ 
như tăng đường huyết, giảm miễn  dịch  và  khả 
năng lành vết thương giảm, cần có nhiều nghiên 
cứu đủ mạnh để đánh giá hiệu quả và tác dụng 
phụ của corticoide đối với u não. 

53 ± 27

90


15

10 ± 5

19

1

14 ± 11

59

5

Đặc điểm về gây mê hồi sức 

Trung bình ±
Lớn nhất Nhỏ nhất
ĐLC

Có 1 TH phẫu thuật u màng não trên lều có 
thời gian điều trị trước mổ 14 ngày và sau mổ là 
59 ngày, không ghi nhận được nguyên nhân. 

BÀN LUẬN 
Đặc điểm phẫu thuật 
Trong  NC  này,  có  cavernoma  (27,3%), 
astrocytoma và meningioma (22,7%) là 3 loại u 
thường gặp nhất, khác với phân bố tỷ lệ bệnh 
trong  kết  quả  của  Trương  Văn  Việt  (2002), 


222

Có 14 ca nhức đầu (63,8%), 8 ca buồn nôn  
hoặc  nôn  (18,2%).  Nghiên  cứu  của  Nguyễn 
Văn  Chừng  và  Nguyễn  Ngọc  Anh  (2005):  hội 
chứng  tăng  ALNS  85,9%,  dấu  thần  kinh  khu 
trú  43,8%  cao  hơn  kết  quả  của  chúng  tôi.  Tổn 
thương  u  não  gây  ra  chèn  ép,  ba  hội  chứng 
thường  gặp  là:  tăng  áp  lực  nội  sọ  (nhức  đầu, 
buồn  nôn  hoặc  nôn),  dấu  thần  kinh  khu  trú 
(tùy theo vị trí tổn thương) và động kinh, mức 
độ xảy ra tùy loại tổn thương và tùy vị trí tổn 
thương.  Ngoài  ra,  việc  giảm  nồng  độ  Natri 
máu  cũng  gây  nên  tình  trạng  phù  não  và 
ALNS, có 4 TH Na máu < 135 mmol/l. 

Đa số thời gian phẫu thuật trên 3 giờ, trung 
bình  189  ±  34  phút,  có  75%  TH  dưới  210  phút, 
trong đó: ependynoma và hemangioblastoma là 
hai phẫu thuật có thời gian dài nhất, tuy  nhiên 
sự  khác  biệt  không  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p  > 
0,05). 

Bảng 3: Kết quả điều trị 
Thời gian tỉnh mê
(phút)
Thời gian nằm viện
trước mổ (ngày)
Thời gian nằm viện

sau mổ (ngày)

nguyên  nhân  có  thể  do  mẫu  NC  của  chúng  
tôi nhỏ. 

Về đánh giá nguy cơ gây mê theo ASA: độ 
2  là  68,2%  và  độ  3  là  31,8%  vì  u  não  là  một 
bệnh  toàn  thân,  tác  động  nhiều  hệ  cơ  quan, 
mặt  khác  trong  NC  này  có  đến  31,8%  TH  có 
bệnh nội khoa mãn tính đi kèm (3 lao phỗi cũ, 
1 hở van 3 lá trung bình, 1 cao huyết áp và đái 
tháo  đường,  1  viêm  gan  siêu  vi  B  và  1  cường 
giáp đang điều trị). 
Trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  chỉ  ghi 
nhận đặc điểm về mallampati, các dấu hiệu khác 
như  cổ  ngắn,  cằm  lẹm,  răng  hô,  khoảng  cách 
giáp  cằm  đã  không  được  ghi  nhận.  Tỷ  lệ 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
mallampati  độ  III  là  13,6%  (3  TH),  nguy  cơ  đặt 
NKQ rất khó nên chúng tôi sử dụng dãn cơ khử 
cực succinylcholin để đặt NKQ. 
Chúng  tôi  đã  duy  trì  mê  bằng  isoflurane  là 
59,1% và sevoflurane là 40,9%. Giảm đau nhóm 
á  phiện  chích  từng  liều  ngắt  quãng:  fentanyl  là 
18,2% và sulfentanil 81,8%, sự khác biệt về huyết 
động  (nhịp  tim  và  huyết  áp  trung  bình)  không 

có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) giữa isoflurane với 
sevflurane,  giữa  fentanyl  với  sulfentanil,  tương 
tự như kết quả của Tsai HJ(10). 
Chúng tôi ghi nhận có sự giảm HATB sau 
khởi mê (p = 0,008), tuy nhiên không có trường 
hợp  nào  HATB  <  65  mmHg,  chỉ  có  2  trường 
hợp  dùng  ephirine  (1  trường  hợp  dùng  3  mg 
và  1  trường  hợp  dùng  6  mg).  Nhịp  tim  cũng 
giảm sau khởi mê  và tăng nhẹ sau rạch da, sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Nguyên  nhân  của  sự  giảm  huyết  áp  là  do 
phương pháp khởi mê như hiện nay có nhiều 
hạn  chế:  thứ  nhất  do  cách  tính  liều  propofol 
hiện nay dựa theo khuyến cáo chung về dược 
động và dược lực của propofol, thường là  1,5 
– 2,5 mg/kg, đôi khi sẽ gây quá liều trong một 
số trường hợp, thứ hai là cách chích tĩnh mạch 
liều  nạp  tốc  độ  khó  kiểm  soát  làm  tăng  khả 
năng  tụt  huyết  áp;  thứ  ba  không  có  phương 
tiện  theo  dõi  độ  sâu  gây  mê  (ví  dụ  như  BIS) 
nên không thể biết chính xác độ mê, việc duy 
trì thuốc mê dựa chủ yếu vào các khuyến cáo 
và kinh nghiệm lâm sàng. Mặt khác, việc thực 
thuốc  mê  như  fentanyl  hay  sulfentanil,  thuốc 
dãn  cơ  chủ  yếu  theo  cách  tiêm  từng  liều  ngắt 
quãng do thiếu máy bơm tiêm điện, cách tiêm 
này cũng là nguyên nhân làm độ mê không ổn 
định.  Dấu  hiệu  huyết  áp  trung  bình  giảm  có 
thể  do  độ  mê  quá  sâu  nhưng  cũng  có  thể  do 
tình  trạng  dãn  mạch  của  thuốc  mê  hoặc  thiếu 

thể tích tuần hoàn do bệnh nhân phẫu thuật u 
não có thể được điều trị lợi tiểu trước đó…nên 
rất khó cho bác sĩ gây mê đánh giá rõ ràng và 
xử  trí  chính  xác.  Bên  cạnh  đó,  chỉ  số  ETCO2 
không  được  theo  dõi  thường  xuyên  vì  phòng 
mổ chưa được trang bị đầy đủ, không theo dõi 

Nghiên cứu Y học
được  ssự  thay  đổi  thán  đồ  trong  mổ  để  có 
hướng điều chỉnh hợp lý. 
Mức  độ  phù  não  được  đánh  giá  qua  tỷ  lệ 
dùng manitol 20%, có 50% trường hợp sử dụng 
manitol 20% trước khi mở màng cứng. Hiện nay, 
chúng  tôi  đánh  giá  mức  độ  phù  não  chủ  yếu 
dựa vào kinh nghiệm của phẫu thuật viên, dựa 
vào độ căng của não dưới màng cứng, có nghĩa 
là  chúng  ta  chỉ  đánh  giá  được  tình  trạng  tăng 
ALNS sau khi đã mở sọ và thấy não căng phù, 
gây khó khăn cho thao tác của phẫu thuật viên 
và  tăng  nguy  cơ  tổn  thương  não.  Việc  theo  dõi 
ALNS  phải  được  thực  hiện  ngay  sau  khi  hoàn 
thành công tác vô cảm, tiến hành đặt một thiết bị 
theo  dõi  ALNS  liên  tục,  có  như  vậy  chúng  ta 
mới phát hiện được sớm tình trạng tăng ALNS 
và xử trí kịp thời. 

Đặc điểm sau mổ và kết quả điều trị 
Sau  mổ  có  22,7%  (5  TH)  thở  máy:  3  TH  do 
phẫu  thuật  u  màng  não  (trong  đó  có  1  TH  thở 
máy 36 giờ vì tri giác không ổn định, 01 thở máy 

6  giờ  và  01  thở  máy  8  giờ),  01  do  bệnh  nhân 
bệnh lao phổi cũ thở máy 2 giờ vì hô hấp kém, 
01 bệnh nhân có cao huyết áp và đái tháo đường 
thở máy 4 giờ. Tất cả các TH đều cai máy thành 
công. 
Thời gian hồi phục tri giác và rút nội khí quả 
của bệnh nhân không thở máy sau mổ: 53 ± 27 
phút,  nhỏ  nhất  là  15  phút,  lớn  nhất  là  90  phút, 
không  có  sự  khác  biệt  giữa  isoflurane, 
sevoflurane,  fentanyl  và  sulfentanil  (p  =  0,6), 
tương  tự  kết  quả  nghiên  cứu  của  Djian  MC 
(2006)(5). Nhiều nghiên cứu  đã  chứng  minh  giai 
đoạn tỉnh mê kéo dài sẽ gây ra nhiều đã kích đối 
với não, việc tỉnh mê sớm giúp não giảm tổn hại, 
giúp cho việc đánh giá tình trạng thần kinh sau 
mổ kịp thời, có hướng xử trí hợp lý(2,3,4,6). 
Những  TH  nằm  hồi  sức  >  24  giờ  (5  TH)  là 
những TH có thở máy sau mổ, tất cả các TH đều 
được hồi phục và chuyển trại. Thời gian điều trị 
tại bệnh viện trước mổ 10 ± 5 ngày và sau mổ là 
13 ± 11 ngày, có 1 TH có thời gian điều trị trước 
mổ  là  14  ngày  và  sau  mổ  là  59  ngày,  nhưng 
không ghi nhận được nguyên nhân. 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

223


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013


Nghiên cứu Y học 
Trong  NC  này,  tỷ  lệ  biến  chứng  sau  mổ  và 
tử vong là 0%, thấp hơn kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn  Văn  Chừng  (tử  vong  3/64  TH)(8)  và 
Hoàng  Xuân  Lý  (1  TH  tụ  máu  nội  sọ  do  chảy 
máu sau mổ, 1 TH ngưng thở sau mổ, không có 
TH nào tử vong)(7). 

KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 22 TH u não trên lều, chúng 
tôi tiến hành gây mê  toàn thân cân bằng đã giữ 
ổn  định  được  huyết  động  và  độ  mê  trong  mổ, 
không  xảy  ra  biến  chứng  sau  mổ.  Tuy  nhiên, 
phòng mổ cần trang bị thêm thiết bị theo ETCO2 
và theo dõi độ mê (BIS) và phương tiện theo dỏi 
áp  lực  nội  sọ  giúp  công  tác  gây  mê  hồi  sức  an 
toàn và chất lượng hơn. 
Gây  mê  nồng  độ  đích  với  propofol  có  kết 
hợp với remifentanil là một phương pháp được 
khuyến cáo và cần nghiên cứu. 

TÀI  LIỆU  THAM  KHẢO  
1.

2.

3.

Bebawy  JF  (2002).  Perioperative  Steroids  for  Peritumoral 

Intracranial  Edema:  A  Review  of  Mechanisms,  Efficacy,  and 
Side Effects. J.Neurosurgical Anesthesiology; 24 (3): p 173–177. 
Bruder  N, Stordeur  JM  (1999).  Metabolic  and  hemodynamic 
changes  during  recovery  and  tracheal  extubation  in 
neurosurgical  patients:  immediate  versus  delayed  recovery. 
Anesth Analg; 89(3):674‐8. 
Bruder  N,  Pellissier  D,  Cerebral  Hyperemia  During  Recovery 
 

224

from  General  Anesthesia  in  Neurosurgical  Patients.  Anesth 
Analg; 94:650 –4. 
4. Bruder  N, Ravussin  P  (1999).  Recovery  from  anesthesia  and 
postoperative  extubation  of  neurosurgical  patients:  a  review.  J 
Neurosurg Anesthesiol;11(4):282‐93. 
5. Djian  MC, Blanchet  B  (2006).  Comparison  of  the  time  to 
extubation after use of remifentanil or sufentanil in combination 
with  propofol  as  anesthesia  in  adults  undergoing 
nonemergency intracranial surgery:  a  prospective,  randomized, 
double‐blind trial. Clin Ther;28(4):560‐8. 
6. Fàbregas  N, Bruder  N  (2007).  Recovery  and  neurological 
evaluation. Best Pract Res Clin Anaesthesiol;21(4):431‐47. 
7. Hoàng  Xuân  Lý,  Nguyễn  Văn  Chừng  (2005).  Nghiên  cứu  tác 
dụng lâm sàng sevoflurane để gây mê trong phẫu thuật u não. 
Tạp chí y học TpHCM; 9 (1): 83‐88. 
8. Nguyễn Văn Chừng, Nguyễn Ngọc Anh (2005). Nghiên cứu các 
yếu tố nguy cơ và biện pháp xử trí trong gây mê hồi sức phẫu 
thuật u màng não. Tạp chí y học TpHCM; 9 (1): 89‐95. 
9. Trương  Văn  Việt,  Nguyễn  Phong  (2002).  Tình  hình  điều  trị  u 

não  tại  bệnh  viện  Chợ  Rẫy  (7/1996  –  12/2000).  Tạp  chí  y  học 
TpHCM; 6 (1): 25‐29. 
10. Tsai  HJ, Tsou  KF  (2003).  Comparison  of  the  recovery  from 
isoflurane  anesthesia  with  or  without  fentanyl  infusion  in 
patients  undergoing  elective  supratentorial  craniotomy.  Acta 
Anaesthesiol Sin;41(4):179‐85. 
11. Võ Tấn Sơn, Trần Huy Hoàn Bảo (2004). Lâm sàng, chẩn đoán 
hình  ảnh  và  một  số  yếu  tố  liên  quan  đến  phẫu  thuật  u  màng 
não vùng bán cầu đại não. Tạp chí y học TpHCM; 8 (1): 80‐82. 
 

Ngày nhận bài báo: 15/8/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2012 
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2013 
 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  



×