Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khảo sát việc sử dụng fentanyl trong giảm đau ở bệnh nhân khoa chăm sóc giảm nhẹ bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.25 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG FENTANYL TRONG GIẢM ĐAU
Ở BỆNH NHÂN KHOA CHĂM SÓC GIẢM NHẸ BỆNH VIỆN UNG BƯỚU
TP. HỒ CHÍ MINH
Phạm Hoài Thanh Vân*, Nguyễn Tuấn Dũng*

TÓM TẮT
Mục tiêu: khảo sát việc sử dụng miếng dán fentanyl giảm đau trong thời gian ngắn trên đối tượng bệnh
nhân điều trị tại khoa Chăm sóc giảm nhẹ - Bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh từ tháng 6/2011 đến tháng
6/2012.
Phương pháp: đây là nghiên cứu mô tả, tiến cứu, thực hiện trên bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối (không
còn được điều trị đặc hiệu), được bắt đầu điều trị đau bằng miếng dán fentanyl tại khoa CSGN. Số liệu được thu
thập thông qua phỏng vấn bệnh nhân hoặc người trực tiếp chăm sóc bệnh nhân sau từng khoảng thời gian 3
ngày, 10 ngày, 20 ngày và 30 ngày. Các yếu tố đánh giá gồm liều sử dụng, hiệu quả giảm đau, thuốc cứu hộ, tác
dụng phụ của thuốc và mức độ hài lòng của bệnh nhân. Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 với các phép
kiểm thống kê phù hợp.
Kết quả: khoảng liều fentanyl sử dụng dao động từ 25-150 mg/giờ, trong đó phần lớn bệnh nhân dùng
fentanyl ở liều 25-50 mg/giờ; sự tăng liều sau 10 ngày, 20 ngày và 30 ngày so với ban đầu có ý nghĩa thống kê (p
< 0,05). Mức độ đau của bệnh nhân (theo thang NPRS) sau khi dùng fentanyl so với ban đầu giảm có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05); 62,5-81% bệnh nhân kiểm soát đau với mức < 4/10 (không đau đến đau nhẹ). Morphin phóng
thích tức thời (đường uống) được chỉ định làm thuốc cứu hộ trong phần lớn trường hợp (hơn 73%), khoảng 6080% bệnh nhân không dùng quá 2 lần liều cứu hộ/ngày. Buồn ngủ, khô miệng, đổ mồ hôi là những tác dụng phụ
thường gặp nhất; buồn nôn, nôn thường xảy ra trong giai đoạn đầu (sau 3 ngày) và giảm dần/biến mất sau đó;
không có tác dụng phụ nào nghiêm trọng khiến bệnh nhân ngừng thuốc. Hơn 96% bệnh nhân trả lời có hài lòng
về việc dùng miếng dán fentanyl.
Kết luận: việc sử dụng miếng dán fentanyl trong thời gian ngắn (3 ngày đến 30 ngày) để giảm đau cho bệnh
nhân ung thư giai đoạn cuối không còn được điều trị đặc hiệu là khả thi, hiệu quả và tương đối an toàn.
Từ khóa: fentanyl dán, chăm sóc giảm nhẹ, hiệu quả, an toàn


ABSTRACT
EVALUATING THE USAGE OF FENTANYL PATCH IN PAIN MANAGEMENT FOR PATIENTS AT
PALLIATIVE CARE DEPARTMENT, HO CHI MINH CITY ONCOLOGY HOSPITALS
Pham Hoai Thanh Van, Nguyen Tuan Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 4 - 2013: 88 - 94
Objective: evaluate the usage of transdermal fentanyl for short-term pain management in patients admitted
to Palliative Care Department, HCMC Oncology Hospital (from June 2011 to June 2012).
Methods: this was an observed, prospective study in advanced-stage cancer patients (not responsive to
curative treatment) starting taking transdermal fentanyl for pain control at Palliative Care Department. Data
were collected through interviewing patients or caregivers after 3 days, 10 days, 20 days and 30 days of using
fentanyl. Factors for evaluating include dosage of fentanyl, analgesia efficacy, rescue medication, adverse effects
* Khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Tuấn Dũng
ĐT: 0903343832

88

Email:

Chuyên Đề Dược Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Nghiên cứu Y học

and patients’ satisfaction. Data were analyzed by SPSS 16.0 software with appropriate statistical tests.
Results: fentanyl dosage ranged from 25-150 mg/h in which 25-50 mg/h was the most common range used;
and the increment in dosage after 10 days, 20 days and 30 days was significantly different (p < 0.05) from the
initial dose. Pain intensity (NPRS) was significantly reduced (p < 0.05) from the baseline through the remaining

period evaluations; and approximately 62.5-81% of patients were controlled with the pain score < 4/10 (no pain to
mild pain). Immediate-release morphine (oral route) was indicated as rescue medication in the majority (over
73%); and around 60-80% of cases took not more than two rescue doses per day. Drowsiness, dry mouth, and
sweating were the most common side effects while nausea and vomiting frequently happened at the beginning
time (after 3 days) and decreased/disappeared later; and no serious adverse effect was recorded. Over 96% of
patients cited that they had satisfaction about taking transdermal fentanyl for pain control.
Conclusion: using transdermal fentanyl for short-term pain management (3 days to 30 days) in terminalstage cancer patients (not able to take curative treatment any more) was feasible, effective and relatively safe.
Keywords: transdermal fentanyl , Palliative Care, effective, safe

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU

Ngày nay, ung thư là một trong những bệnh
mạn tính ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khỏe và
chất lượng cuộc sống của con người. Các nghiên
cứu cho thấy khoảng 60-90% bệnh nhân ung thư
di căn bị đau ở mức độ trung bình đến nặng(4)
không đáp ứng với các thuốc giảm đau thông
thường. Theo khuyến cáo của WHO, morphin là
opioid đầu tay trong giảm đau ở bệnh nhân ung
thư, và đã được chứng minh là một thuốc giảm
đau hiệu quả. Tuy nhiên không phải mọi trường
hợp đều có đáp ứng tốt với morphin hoặc có thể
điều trị đau với morphin.

Đối tượng khảo sát là bệnh nhân ung thư có
thời gian sống tiên lượng dưới 6 tháng, đau mạn
tính được điều trị đau bằng miếng dán fentanyl
tại khoa Chăm sóc giảm nhẹ, thỏa tiêu chuẩn

chưa từng sử dụng miếng dán fentanyl trước đó;
không thể sử dụng morphin uống hoặc không thể tiếp
tục sử dụng morphin uống, hay không đạt được hiệu
quả giảm đau với morphin.

Vấn đề đặt ra là cần xem xét việc dùng các
opioid khác hoặc chuyển đổi từ morphin sang
opioid thay thế trong những tình huống không
thể sử dụng morphin. Tại Việt Nam ngoài
morphin, fentanyl cũng là thuốc giảm đau mạnh
loại opioid được cân nhắc sử dụng. Do đó chúng
tôi tiến hành khảo sát việc sử dụng fentanyl
trong kiểm soát đau ở bệnh nhân điều trị tại
khoa Chăm sóc giảm nhẹ -Bệnh viện Ung Bướu
TP. Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ
tháng 6/2011 đến tháng 6/2012. Mục tiêu đặt ra là
đánh giá việc sử dụng miếng dán fentanyl giảm
đau trong thời gian ngắn trên đối tượng bệnh
nhân ung thư giai đoạn cuối không còn được
điều trị đặc hiệu.

Chuyên Đề Dược Học

Nghiên cứu được thiết kế theo mô hình tiến
cứu, không đối chứng. Số liệu được thu thập
thông qua phỏng vấn bệnh nhân hoặc người
trực tiếp chăm sóc bệnh nhân sau từng khoảng
thời gian điều trị (3 ngày, 10 ngày, 20 ngày và 30
ngày); kết hợp với theo dõi hồ sơ bệnh án. Các
yếu tố đánh giá gồm liều sử dụng, hiệu quả giảm

đau, thuốc cứu hộ, tác dụng phụ của thuốc và mức độ
hài lòng của bệnh nhân.
Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.
Sử dụng phép kiểm Wilcoxon signed ranks hay
Sign để so sánh mức độ đau trước và sau khi
dùng thuốc; liều fentanyl ban đầu và sau từng
khoảng thời gian. So sánh tỉ lệ bị tác dụng phụ
giữa các đợt điều trị bằng phép kiểm McNemar.

KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Từ 1/6/2011 đến 1/6/2012 ghi nhận được 101
bệnh nhân khoa Chăm sóc giảm nhẹ - bệnh viện

89


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Nghiên cứu Y học

Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh dùng miếng dán
fentanyl để giảm đau, trong đó có 42 bệnh nhân
thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được đưa vào nghiên
cứu với các đặc điểm chung được trình bày
trong bảng 1.

so với ban đầu có ý nghĩa thống kê (bảng 2).

Mức độ đau

Sự cải thiện mức độ đau sau khi dùng miếng
dán fentanyl được trình bày trong hình 2.
80%

Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu

Liều miếng dán fentanyl
Kết quả khảo sát liều fentanyl sử dụng được
trình bày trong hình 1
60%

Ban đầu

50%

3 ngày
40%

10 ngày

T ỉ lệ

20 ngày

30%

30 ngày

20%
10%

0%
25 mcg/h

50 mcg/h

75 mcg/h

100 mcg/h 125 mcg/h 150 mcg/h

Liều miếng dán fentanyl

Hình 1. Liều fentanyl ban đầu, sau 3 ngày, 10 ngày,
20 ngày và 30 ngày
Bảng 2: So sánh liều fentanyl sau từng khoảng thời
gian với lúc ban đầu
Ban đầu 3 ngày 10 ngày 20 ngày 30 ngày
(n=42) (n=42) (n=42) (n=42) (n=42)
Liều fentanyl 44,6±29, 46,4±28, 51,5±30, 58,8±31, 60,4±37,
( g/giờ)
9
9
4*
8*
5*

* p < 0,05 (phép kiểm Sign)

Khoảng liều fentanyl sử dụng dao động từ
25-150 mg/giờ, trong đó phần lớn bệnh nhân
dùng fentanyl ở liều 25-50 mg/giờ, nhất là ở

khoảng thời gian đầu (sau 3 ngày, 10 ngày). Từ
sau 10 ngày trở đi, có sự gia tăng tỉ lệ bệnh nhân
dùng miếng dán ở liều 100 mg/giờ.
Sự tăng liều sau 10 ngày, 20 ngày và 30 ngày

90

70%

T ỉ lệ

Cỡ mẫu ban đầu
42 bệnh nhân
Hoàn thành đợt điều trị 3-10 ngày
42 bệnh nhân
Hoàn thành đợt điều trị 20 ngày
30 bệnh nhân
Hoàn thành đợt điều trị 30 ngày
24 bệnh nhân
Giới
55% nam
Tuổi
60,17±14,93
Vị trí ung thư nguyên phát
38% ung thư vùng đầu cổ
Di căn
86% BN có di căn
Phương pháp đặc hiệu đã điều trị 50% BN từng được hóa trị
Chỉ số KPS
68,33±9,35


60%

Không đau

50%

Đau nhẹ

40%

Đau vừa
Đau nặng

30%
20%
10%
0%

Ban đầu

3 ngày

10 ngày

20 ngày

30 ngày

Hình 2: Mức độ đau ban đầu và sau 3 ngày, 10 ngày,

20 ngày, 30 ngày dùng fentanyl
Sau khi dùng fentnyl, khoảng 62,5-81% bệnh
nhân kiểm soát đau với mức < 4/10 (không đau
đến đau nhẹ). Chỉ khoảng 6,7-10% bệnh nhân
còn đau nặng (đau mức > 6/10).
Mức độ đau của bệnh nhân (theo thang
NPRS) sau khi dùng fentanyl so với ban đầu
giảm có ý nghĩa thống kê (bảng 3).
Bảng 3: So sánh mức độ đau sau từng khoảng thời
gian với lúc ban đầu
Ban đầu 3 ngày 10 ngày 20 ngày 30 ngày
(n=42) (n=42) (n=42) (n=42) (n=42)
Mức độ đau 5,2±2,3 3,3±1,9* 2,5±1,4* 2,8±2,0* 2,8±1,8*

* p < 0,05 (phép kiểm Wilcoxon signed ranks)

Thuốc cứu hộ
Tóm tắt về việc sử dụng thuốc cứu hộ được
trình bày trong bảng 4. Morphin phóng thích tức
thời (đường uống) được chỉ định làm thuốc cứu
hộ trong phần lớn trường hợp (hơn 73%).
Khoảng 60-80% bệnh nhân không dùng quá 2
lần liều cứu hộ/ngày.
Bảng 4: Tóm tắt đặc điểm sử dụng thuốc cứu hộ
10 ngày 20 ngày 30 ngày
Morphin sulfat 30 mg (IR) 73,81% 86,67%
100%
Morphin HCl 10 mg/ml
9,52%
6,67%

0%
Tần suất sử dụng
1,79±1,38 1,50±1,17 1,92±1,79
(lần/ngày)

Chuyên Đề Dược Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Tác dụng phụ
Kết quả khảo sát tỉ lệ một số tác dụng phụ khi dùng
miếng dán fentanyl được trình bày trong hình 3. Buồn
ngủ, khô miệng, đổ mồ hôi là những tác dụng phụ
thường gặp nhất. Tác dụng phụ nôn, buồn nôn
thường gặp sau 3 ngày đầu sử dụng miếng dán
fentanyl, và giảm/biến mất sau đó. Chỉ một tỉ lệ thấp

Nghiên cứu Y học

bệnh nhân bị tác dụng phụ ngứa, kích ứng da tại nơi
dán, chóng mặt. Không ghi nhận trường hợp nào bị
suy giảm hô hấp do dùng miếng dán. Sự khác biệt về
tỉ lệ các tác dụng phụ thường gặp sau 10 ngày, 20 ngày
và 30 ngày không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05, phép
kiểm McNemar).

Suy giảm hô hấp
Chóng mặt

Tác dụng phụ


Kích ứng da
Ngứa

30 ngày
20 ngày
10 ngày
3 ngày

Đổ mồ hôi
Buồn ngủ
Khô miệng
Nôn
Buồn nôn
0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%


80%

Tỉ lệ

Hình 3: Tỉ lệ bị tác dụng phụ sau 3 ngày, 10 ngày, 20 ngày và 30 ngày dùng fentanyl
nhân về việc dùng miếng dán giảm đau fentanyl
Mức độ hài lòng của bệnh nhân
được trình bày trong hình 4.
Kết quả khảo sát mức độ hài lòng của bệnh
70%
60%

T ỉ lệ

50%

Không hài lòng

40%

Tạm hài lòng
Hài lòng

30%

Rất hài lòng

20%
10%
0%

3 ngày

10 ngày

20 ngày

30 ngày

Hình 4: Mức độ hài lòng của BN sau 3 ngày, 10 ngày, 20 ngày và 30 ngày dùng fentanyl
Hơn 96% bệnh nhân trả lời có hài lòng về
việc dùng miếng dán fentanyl. Trong đó, mức
“Hài lòng” chiếm tỉ lệ cao nhất, từ 50-62,5%.
Mức độ hài lòng có sự tương quan nghịch
(thể hiện qua hệ số Spearman rho) với mức độ
đau của bệnh nhân (Bảng 5).

Chuyên Đề Dược Học

Bảng 5: Hệ số tương quan giữa mức độ đau và mức
độ hài lòng

Hệ số rS

3 ngày
(n=42)
-0,405*

10 ngày 20 ngày 30 ngày
(n=42)
(n=42)

(n=42)
-0,430* -0,495* -0,478*

* p < 0,05

91


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

BÀN LUẬN
Điều chỉnh liều
Hơn 50% bệnh nhân khởi đầu điều trị với
miếng dán fentanyl ở liều 25 mg/giờ. Việc chỉ
định liều này là hợp lý vì trong số 42 bệnh nhân
được khảo sát, 33 bệnh nhân có dùng morphin
trước đó với liều trung bình là 107,57 mg/24 giờ.
Nếu dùng bảng qui đổi từ morphin sang
fentanyl thì liều miếng dán fentanyl tương
đương là 25-50 mg/giờ.
Sau 3 ngày đầu dùng miếng dán, liều
fentanyl sử dụng tăng không có ý nghĩa thống
kê. Trong khi đó nếu so sánh liều ở mốc 10 ngày,
20 ngày và 30 ngày so với ban đầu hoặc so với
mốc sau 3 ngày đầu thì sự tăng liều lại có ý nghĩa
thống kê. Do trạng thái cân bằng của fentanyl
trong huyết tương chỉ đạt được vào ngày thứ 3
sau khi dán, nên trong 72 giờ đầu có thể được

xem là giai đoạn chỉnh liều đối với những bệnh
nhân nội trú. Với những bệnh nhân ngoại trú
việc chỉnh liều chỉ được thực hiện vào mỗi đợt
tái khám (mỗi 9-10 ngày). Vì vậy sự khác biệt
liều miếng dán fentanyl của mẫu nghiên cứu sau
3 ngày so với ban đầu là không đáng kể. Ngoài
ra, sự khác biệt về liều ở mốc 10 ngày, 20 ngày và
30 ngày so với ban đầu cũng cho thấy sự dung
nạp opioid của bệnh nhân, đồng thời phản ánh
phần nào tình trạng bệnh tiến triển.

Hiệu quả giảm đau
So với trước khi dùng miếng dán fentanyl,
mức độ đau trung bình theo thang NPRS sau 3
ngày, 10 ngày, 20 ngày và 30 ngày giảm có ý
nghĩa thống kê (p < 0,001). Điều này cho thấy
hiệu quả giảm đau của miếng dán fentanyl trong
thời gian ngắn (≤ 30 ngày). Kết quả này cũng khá
tương đồng với nghiên cứu của Mercadante và
cộng sự, 2010(5) khi khảo sát về hiệu quả giảm
đau trong 4 tuần của miếng dán fentanyl.

Thuốc cứu hộ
Trong nghiên cứu này, morphin dạng phóng
thích tức thời (đường uống) được chỉ định làm
thuốc cứu hộ trong phần lớn trường hợp là hợp

92

lí do T1/2 ngắn (≈ 4 giờ) và khởi phát tác động

nhanh (15-30 phút). Ngoài ra, việc cho bệnh
nhân sử dụng morphin cứu hộ đường uống
cũng thuận tiện, nhất là với những bệnh nhân
ngoại trú vì bệnh nhân có thể tự thực hiện tại
nhà.
Số lần dùng liều cứu hộ trong ngày là một
trong những cơ sở giúp bác sĩ điều chỉnh liều
thuốc giảm đau cơ bản của bệnh nhân, đồng thời
cũng phần nào phản ánh liều thuốc giảm đau
bệnh nhân đang dùng có phù hợp hay chưa.
Qua khảo sát, khoảng 18-25% bệnh nhân không
cần dùng liều cứu hộ vì đã kiểm soát đau tốt với
miếng dán fentanyl, khoảng 50 – 60% bệnh nhân
sử dụng 1-2 lần liều cứu hộ/ngày Điều này cho
thấy phần lớn bệnh nhân được kiểm soát đau
khá tốt với miếng dán fentanyl.

Tác dụng không mong muốn
Tác dụng phụ thường gặp
Phần lớn bệnh nhân bị tác dụng phụ khô
miệng (khoảng 46-57%), chủ yếu ở mức độ trung
bình. Tỉ lệ bệnh nhân bị tác dụng phụ khô miệng
sau 30 ngày là 45,83%, thấp hơn so với nghiên
cứu của Donner và cộng sự 1998(1).
Số bệnh nhân bị tác dụng phụ buồn nôn, nôn
và buồn ngủ cũng chiếm tỉ lệ đáng kể sau 3 ngày
đầu sử dụng thuốc, và giảm rõ sau 10 ngày,
trong đó tác dụng phụ buồn nôn và buồn ngủ
giảm ở mức có ý nghĩa thống kê. Tại các thời
điểm 20 ngày và 30 ngày vẫn ghi nhận các

trường hợp bị các tác dụng phụ buồn nôn, nôn
hoặc buồn ngủ có thể vì liều thuốc được gia tăng
(bệnh nhân có thể gặp các tác dụng phụ này khi
chuyển qua dùng liều cao hơn, tuy nhiên gần
như cũng chỉ bị trong thời gian ngắn). Khi so
sánh tỉ lệ bị các tác dụng phụ này giữa 10 ngày,
20 ngày và 30 ngày (so sánh từng cặp), sự khác
biệt không đáng kể; có thể do bệnh nhân đã
dung nạp thuốc sau thời gian dùng thuốc giảm
đau opioid nên tỉ lệ bị các tác dụng phụ này
không cao. Nếu xảy ra thì nguyên nhân hầu như
là do sự tăng liều, nên sự thay đổi ghi nhận được
không có ý nghĩa thống kê.

Chuyên Đề Dược Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Tỉ lệ bệnh nhân bị tác dụng phụ tăng đổ mồ
hôi ghi nhận qua khảo sát là từ
16,7-31%. Sau 30 ngày, tỉ lệ bệnh nhân bị tăng đổ
mồ hôi là 16,67%. Trong nghiên cứu của Donner
và cộng sự 1998(1) tỉ lệ này là 50%. Tác dụng phụ
này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả giảm đau
của thuốc do mồ hôi tích tụ dưới miếng dán
fentanyl và có thể làm thay đổi độ hấp thu của
fentanyl qua da(6).
Nghiên cứu này không khảo sát tác dụng
phụ táo bón, một trong những tác dụng phụ
thường gặp nhất khi dùng thuốc giảm đau

opioid, do một số bệnh nhân đã bị táo bón từ
trước và hầu hết bệnh nhân được chỉ định dùng
kèm thuốc nhuận tràng khi khởi đầu điều trị với
miếng dán fentanyl để ngừa táo bón.

Tác dụng phụ khác
Tỉ lệ bệnh nhân bị ngứa khi dùng miếng dán
qua khảo sát từ 3,3 – 14,3%. Tỉ lệ này trong
nghiên cứu của Donner và cộng sự 1998(1) là 17,620%; trong nghiên cứu của Sloan và cộng sự
1998(7) là 2-8%. Tuy nhiên tác dụng phụ này
không nghiêm trọng và có thể được xử trí bằng
các thuốc kháng histamin.
Nghiên cứu cũng ghi nhận được tỉ lệ bệnh
nhân bị kích ứng da khi sử dụng miếng dán
fentanyl từ 2,4-8,3%. Trong các nghiên cứu đã
công bố trước đây, tỉ lệ bị kích ứng da khi sử
dụng fentanyl dán dao động từ 8-20%(3). Việc bị
kích ứng da có thể do bệnh nhân không đổi vị trí
dán khi thay miếng dán mới.
Tỉ lệ bệnh nhân bị chóng mặt trong nghiên
cứu từ 4,8-8,3%. Theo tài liệu đã công bố, tỉ lệ
này từ 3-10%(3). Tác dụng phụ này thường xuất
hiện khi bệnh nhân chuyển sang dùng thuốc ở
liều cao hơn và hầu như chỉ thoáng qua, không
ảnh hưởng nhiều đến người bệnh.
Trong suốt quá trình nghiên cứu không ghi
nhận trường hợp nào bị suy giảm hô hấp. Kết
quả này phù hợp với nhận định đã được công bố
trên y văn thế giới, suy giảm hô hấp hiếm xảy ra
đối với bệnh nhân được điều trị mạn tính với

thuốc giảm đau opioid và thường có thể phòng

Chuyên Đề Dược Học

Nghiên cứu Y học

tránh được nếu điều chỉnh liều một cách cẩn
thận và hợp lí(8).

Sự hài lòng của bệnh nhân
Tỉ lệ bệnh nhân hài lòng về việc dùng miếng
dán fentanyl để giảm đau rất cao từ 97-100%.
Giảm đau khá tốt, đường sử dụng thuốc thuận
tiện, khoảng cách giữa các lần dùng thuốc là mỗi
72 giờ (nếu dùng morphin dạng phóng thích tức
thời phải uống thuốc mỗi 4 giờ), không bị tác
dụng phụ nghiêm trọng là những yếu tố có thể
giải thích cho sự hài lòng của bệnh nhân khi
dùng miếng dán fentanyl.
Hệ số tương quan rS giữa mức độ đau và
mức độ hài lòng của bệnh nhân sau 3 ngày, 10
ngày, 20 ngày và 30 ngày dao động từ -0,405 đến
-0,495, với p < 0,05. Điều này gợi ý rằng có sự
tương quan nghịch, mức trung bình giữa mức
độ hài lòng và mức độ đau của bệnh nhân; mức
độ hài lòng tăng khi mức độ đau giảm. Tuy
nhiên để đánh giá chính xác mối tương quan này
cần làm rõ câu hỏi sự thay đổi mức độ đau theo
thang NPRS có ý nghĩa thế nào trong lâm sàng khi
xét ở góc độ cảm nhận của người bệnh. Điều này

có thể giải quyết khi kết hợp việc đánh giá mức
độ đau theo NPRS với thang PGIC (Patient’s
Global Impression of Change, thang đánh giá sự
cảm nhận về mức độ cải thiện trên thang điểm
từ 1 đến 7 với 1 là cải thiện rất nhiều và 7 là tình
trạng rất tệ)(2) để thấy được sự thay đổi mức độ
đau trên thang NPRS sau khi dùng thuốc giảm
đau được người bệnh cảm nhận ở mức độ ra sao
(cải thiện nhiều/ít).

KẾT LUẬN
Từ những kết quả ghi nhận được, có thể đi
đến nhận định việc sử dụng miếng dán fentanyl
trong thời gian ngắn (3 ngày đến 30 ngày) để
giảm đau cho bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối
không còn được điều trị đặc hiệu là khả thi, hiệu
quả và tương đối an toàn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Donner B, Zenz M, Strumpf M, et al. (1998), “Long-term
treatment of cancer pain with transdermal fentanyl”, J Pain
Symptom Manage; 15(3): 168-175.

93


Nghiên cứu Y học
2.


3.

4.

5.

6.

94

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Farrar JT et al. (2001), “Clinical importance of changes in
chronic pain intensity measured on an 11-point numerical
pain rating scale”, Pain, 94: 149-158.
Grond S et al. (2000), “Clinical pharmacokinetics of
transdermal opioids: Focus on transdermal fentanyl”, Clin
Pharmacokinet, 38(1): 59-89
Human Rights Watch (2011), Global state of pain treatment:
Access to medicine and palliative care, ISBN: 1-56432-771-X,
the United State of America, 8-13.
O’Neill B and Fallon M (1997), “ABC of palliative care:
Principles of palliative care and pain control”, BMJ, 315: 801804.
Ranovanovic D (2002), “The use of transdermal fentanyl in the
treatment of cancer pain”, Archive of Oncology, 10(4): 263-

7.

8.


266.
Sloan PA et al. (1998), “A clinical evaluation of transdermal
therapeutic system fentanyl for the treatment of cancer pain”,
Journal of Pain and Symptom Management, 16(2): 102-110.
Zichterman A (2007), “Opioid pharmacology and
considerations in pain management”, US Pharmacist.
/>
Ngày nhận bài báo:

12.12.2012

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24.12.2012
Ngày bài báo được đăng:

10.03.2014

Chuyên Đề Dược Học



×