Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Rối loạn nhận thức trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.87 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

RỐI LOẠN NHẬN THỨC TRONG GIAI ĐOẠN TRẦM CẢM
Ở BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CẢM XÚC LƯỠNG CỰC
Nguyễn Viết Chung, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Minh Quyết
Trường Đại học Y Hà Nội
Rối loạn chức năng nhận thức trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực thường
gặp và đa dạng, trong thực hành lâm sàng hiện nay còn chưa được quan tâm và đánh giá đúng mức. Chúng
tôi thực hiện nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh trên 30 bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần
từ 9/2017 tới 6/2018 với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn nhận thức trong giai đoạn trầm cảm ở
bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Kết quả thu được: tỷ lệ rối loạn sự chú ý: tập trung (46,7%), duy trì
(76,7%), di chuyển (64,3%); Trí nhớ: trí nhớ tức thì (33,3%), trí nhớ gần (90%), trí nhớ lời nói (63,3%), trí nhớ
hình ảnh (66,7%), nhớ lại có trì hoãn (66,7%); Chức năng điều hành: Kiến tạo thị giác (66,7%), chậm chạp
tâm thần vận động (73,3%), trừu tượng hoá (76,7%), lưu loát (70%), tính toán (40%), lên kế hoạch (56,7%),
sắp xếp (20%), giải quyết vấn đề (46,7%).Trí nhớ xa không bị rối loạn. Các triệu chứng rối loạn nhận thức đa
dạng và phong phú, thường gặp với tỷ lệ cao.
Từ khóa: rối loạn cảm xúc lưỡng cực, trầm cảm lưỡng cực, rối loạn nhận thức

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện tại giai
đoạn trầm cảm là một chẩn đoán thường gặp
trong thực hành lâm sàng. Rối loạn đặc trưng
bằng quá trình ức chế toàn bộ tâm thần, biểu
hiện bằng hội chứng trầm cảm, giai đoạn này
kéo dài ít nhất 2 tuần và trước đó phải có ít
nhất một giai đoạn mà khí sắc biểu hiện bằng
hội chứng hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ.
Theo Grande và cộng sự (2016), rối loạn cảm

Rối loạn trầm cảm trong rối loạn cảm xúc
lưỡng cực thường khởi phát sớm trong độ


tuổi từ 18 đến 22 nên ảnh hưởng rất lớn đến
việc học tập, sự phát triển trong nghề nghiệp,
các chức năng gia đình và xã hội... từ đó
mang lại gánh nặng, tổn thất lớn về cả tinh
thần và vật chất cho gia đình và xã hội. Một
trong những nguyên nhân quan trọng gây ra
tình trạng này được cho là do chức năng nhận
thức bị suy giảm [2; 3].

xúc lưỡng cực gặp ở hơn 1% dân số thế giới

Trong những năm gần đây, có một số

nói chung, trong đó có 31% tới 52% đáp ứng

lượng lớn các nghiên cứu trên thế giới đều chỉ

với các tiêu chuẩn của một giai đoạn trầm

ra rằng rối loạn nhận thức trong trầm cảm có

cảm, cho thấy tỷ lệ rối loạn trầm cảm lưỡng

thể nhận thấy trong các chức năng trí nhớ làm

cực cao và là một vấn đề sức khoẻ luôn được

việc và các khía cạnh của chức năng điều

quan tâm của ngành y tế nói chung và của


hành [4; 5]. Leonardo Caixetan và cộng sự

nghành tâm thần học nói riêng [1].

cho thấy toàn bộ bệnh nhân khởi phát bệnh
sớm trong giai đoạn trầm cảm có rối loạn ít
nhất một khía cạnh của chức năng điều hành,

Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Viết Chung, Trường Đại học Y
Hà Nội
Email:

trong đó khả năng nói lưu loát ảnh hưởng
nhiều nhất, chiếm 46,9% [6]. Từ đó ảnh

Ngày nhận: 25/7/2018

hưởng rất lớn đến các hoạt động hàng ngày

Ngày được chấp thuận: 13/8/2018

của bệnh nhân, các chức năng nghề nghiệp,

TCNCYH 115 (6) - 2018

151


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

gia đình, xã hội, khả năng thích ứng với môi

Bệnh nhân nhập viện tại Viện Sức khỏe

trường xung quanh... dẫn đến bệnh nhân

Tâm thần được bác sĩ bệnh phòng chẩn đoán

càng có nhiều trải nghiệm khó khăn và căng

rối loạn cảm xúc lưỡng cực giai đoạn trầm

thẳng, áp lực trong cuộc sống, trong điều trị và

cảm sẽ được nghiên cứu viên đánh giá lại

là nguy cơ cao dẫn đến tái phát của một giai

chẩn đoán bệnh theo tiêu chuẩn ICD - 10. Các

đoạn bệnh tiếp theo [4]. Vì vậy, chúng tôi thực

bệnh nhân có chẩn đoán không phù hợp hoặc

hiện nghiên cứu với mục tiêu: Mô tả đặc điểm

nghi ngờ chẩn đoán sẽ bị loại. Các đối tượng

lâm sàng rối loạn nhận thức trong giai đoạn


còn lại sẽ được đưa vào nghiên cứu khi họ

trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng

được thông báo về mục tiêu của nghiên cứu,

cực điều trị nội trú.

đồng thời có sự chấp thuận của bệnh nhân và

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

gia đình. Bệnh nhân được đánh giá về các
yếu tố nhân khẩu - xã hội học, đánh giá các
chức năng nhận thức trên lâm sàng ở thời

1. Đối tượng
30 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn

điểm vào viện.
Xử lý số liệu

cảm xúc lưỡng cực hiện tại giai đoạn trầm

Số liệu được phân tích, xử lý bằng phần

cảm theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD - 10
điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần

mềm SPSS 20.0.


trong thời gian từ tháng 8/2017 đến tháng

3. Đạo đức nghiên cứu

6/2018. Loại trừ những bệnh nhân có tiền sử
sa sút trí tuệ, bệnh nhân có tiền sử chậm phát
triển tâm thần, bệnh nhân có tổn thương não
được nhân thấy qua thăm khám trên lâm
sàng, bệnh nhân hoặc người nhà không đồng
ý tham gia vào nghiên cứu.

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu
phục vụ khoa học, nhằm nâng cao chất lượng
chẩn đoán và điều trị bệnh; Loại hình nghiên
cứu mô tả nên không ảnh hưởng hay can
thiệp gì đến quá trình điều trị khách quan của
bênh nhân.

2. Phương pháp: Phương pháp nghiên
cứu mô tả chùm ca bệnh.

III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Giới
Tuổi
Nơi sống


152

n

%

Nam

7

23,3

Nữ

23

76,7

Tuổi trung bình

44,5 ± 15,4

Thành thị

17

56,7

Nông thôn


13

43,3
TCNCYH 115 (6) - 2018


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Đặc điểm
Trình độ
học vấn

Tình trạng hôn nhân

Hoàn cảnh sống

Chẩn đoán bệnh

n

%

Trung học cơ sở

5

23,3

Trung học phổ thông

7


23,3

Cao đẳng/đại học

16

53,4

Độc thân

6

20

Đã lập gia đình

22

73,3

Ly dị/ goá

2

6,7

Sống một mình

1


3,3

Sống với gia đình

29

96,7

F31.3

9

30

F31.4

9

30

F31.5

12

40

Số bệnh nhân nam chiếm 23,3%. Tổng số bệnh nhân nữ cao hơn gấp ba lần so với tổng số
bệnh nhân nam. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 44,5 ± 15,4. Số bệnh nhân sống ở
thành thị chiếm tỷ lệ cao nhất (56,7%). Hơn một nửa số bệnh nhân có trình độ học vấn là học cao

đẳng/đại học (53,3%) tiếp đến là trung học phổ thông và trung học cơ sở cùng chiếm 23,3%. Số
bệnh nhân đã kết hôn chiếm tỉ lệ cao nhất 73,3%; 1 trường hợp ly dị và 1 trường hợp góa. Hầu
hết bệnh nhân sống với gia đình (96,7%). Tỷ lệ bệnh mức độ nặng chiếm 70%.
2. Đặc điểm lâm sàng rối loạn nhân thức
2.1. Số lượng khía cạnh nhận thức bị rối loạn
Bảng 2. Số lượng khía cạnh nhân thức bị rối loạn
Khía cạnh rối loạn

n

%

1 - 5 khía cạnh

9

26,5

6 - 10 khía cạnh

12

35,3

Trên 10 khía cạnh

13

38,2


Số khía cạnh rối loạn

Min

Max

2

16

Trung bình

8,71 ± 4,11

Tất cá các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều bị rối loạn ở ít nhất là 2 khía cạnh
nhận thức, bệnh nhân bị rối loạn nhiều nhất là 16/17 khía cạnh. Có 21 bệnh nhân rối loạn 2 - 10
khía cạnh (62,8%). Trung bình 8,71 ± 4,11 khía cạnh bị rối loạn ở nhóm nghiên cứu.
TCNCYH 115 (6) - 2018

153


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2.2. Đặc điểm rối loạn khả năng chú ý
Bảng 3. Đặc điểm rối loạn khả năng chú ý
Chú ý

Số bệnh nhân (n)

Tỷ lệ(%)


Khả năng tập trung chú ý

14

46,7

Khả năng duy trì sự chú ý

23

76,7

Khả năng di chuyển sự chú ý

18

64,3

Rối loạn khả năng duy trì sự chú ý chiếm tỷ lệ cao nhất với 76,7% ( 23 bệnh nhân), tiêp đến là
suy giảm khả năng di chuyển sự chú ý chiếm 64,3% và cuối cùng là khả năng tập trung chú ý
chiếm 46,7%.
2.3. Đặc điểm rối loạn trí nhớ
Bảng 4. Đặc điểm rối loạn trí nhớ
Trí nhớ

Số bệnh nhân (n)

Tỷ lệ(%)


Trí nhớ tức thì

10

33,3

Trí nhớ gần

27

90

Trí nhớ xa

0

0

Trí nhớ lời nói

19

63,3

Trí nhớ hình ảnh

20

66,7


Nhớ lại có trì hoãn

20

66,7

Chiếm tỷ lệ cao nhất là rối loạn trí nhớ gần chiếm 90%, rối loạn trí nhớ hình ảnh và khả năng
nhớ lại có trì hoãn cùng chiếm tỷ lệ 66,7%,rối loạn trí nhớ lời nói chiếm 63,3%. Không có bệnh
nhân nào bị rối loạn trí nhớ xa.
2.4 Đặc điểm rối loạn chức năng điều hành
Bảng 5. Đặc điểm rối loạn nhận chức năng điều hành
Chức năng điều hành

Số bệnh nhân (n)

Tỷ lệ(%)

Chậm chạp tâm thần vận động

22

73,3

Kỹ năng tính toán

12

40

Tư duy trừu tượng


23

76,7

Sự lưu loát lời nói

21

70

Lên kế hoạch

8

26,7

Sắp xếp

17

56,7

Giải quyết vấn đề

6

20

154


TCNCYH 115 (6) - 2018


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tư duy trừu tượng bị rối loạn nhiều nhất chiếm 76,7%, tiếp đến là chậm chạp tâm thần vận
động chiếm 73,3%, rối loạn trong sự lưu loát lời nói chiếm 70%, chiếm tỷ lệ thấp nhất là suy giảm
kỹ năng giải quyết vấn đề (20%).

IV. BÀN LUẬN
Trong 30 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ nữ

ta cần có thêm những đánh giá và nghiên cứu
về lĩnh vực này.

gấp khoảng 3 lần so với nam. Kết quả này

Số khía cạnh rối loạn trung bình là 8,71 ±

cũng phù hợp với nghiên cứu tổng quan của

4,11, điều này cho thấy rằng khoảng một nửa

Arianna Diflorio và Ian Jones năm 2010, nữ

các khía cạnh nhận thức đã bị rối loạn ở bệnh

giới có tỷ lệ cao hơn bị mắc rối loạn cảm xúc

nhân rối loạn cảm xúc trong giai đoạn trầm


lưỡng cực II [7].

cảm. Những rối loạn này ảnh hưởng đáng kể

Độ tuổi trung bình của nhóm là 44,5 ± 15,4,
kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của

đến chất lượng cuộc sống và sự tuân thủ chỉ
dẫn của bác sĩ trong điều trị.

Lê Thị Thu Hà là 42,34 tuổi [8]. Mặt khác đây

Sự rối loạn trong khả năng duy trì chú ý

là độ tuổi trưởng thành với kết quả tỷ lệ lập

chiếm 76,7% (23/30) bệnh nhân với biểu hiện

gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất 73,3% và hầu

không tập trung trong công việc, duy trì cuộc

hết bệnh nhân sống cùng gia đình 96,7%. Tỷ

nói chuyện với người khác hay làm một công

lệ bệnh nhân có trình độ học vấn Cao đẳng/

việc cần sự tập trung kéo dài, bệnh nhân thấy


đại học chiếm tỷ lệ cao nhất 53,3%, đây là

mệt và không trả lời đúng khi thực hiện test

nguồn nhân lực cho các vùng thành thị, phù

nhận biết ký hiệu A trong thang đánh giá nhận

hợp với tỷ lệ bệnh nhân sống ở thành thị

thức MoCA mặc dù bình thường bệnh nhân

chiếm tới 56,7%.

có thể làm tốt.

Đáng chú ý là bệnh nhân nặng chiếm 70%

Rối loạn trong sự di chuyển chú ý chiếm

(30% không có loạn thần, 40% có loạn thần).

64,3% (18/30) bệnh nhân với biểu hiện chậm

Có thể thấy, nhóm bệnh nhân rối loạn cảm

và không theo kịp những sự thay đổi trong

xúc lưỡng cực giai đoạn trầm cảm điều trị nội


câu chuyện hàng ngày, khó tiếp nhận và lưu

trú thường ở mức độ nặng.

trữ những thông tin mới, đáp ứng chậm với

Đặc điểm rối loạn nhận thức trong giai

kích thích mới khi chuyển từ kích thích này

đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc

sang kích thích khác. Kết quả nghiên cứu này

lưỡng cực: Nhìn một cách khái quát, tất cả

cũng tương tự của Tae Hyon Ha và cộng sự

các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi

(2014), bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực

đều bị rối loạn ở ít nhất 2 khía cạnh nhận

trong giai đoạn trầm cảm giảm khả năng tập

thức. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu

trung chú ý trên Continuous Performance Test


của Caixeta và cộng sự, nghiên cứu của ông

và giảm khả năng di chuyển sự chú ý trên

cũng ghi nhận rằng tất cả các bệnh nhân đều

Trail Making Test-B so với nhóm chứng là

bị rối loạn ở ít nhất 1 vùng nhận thức [6]. Kết

bệnh nhân khoẻ mạnh [9].

quả này cho thấy rối loạn nhận thức trong giai

Khả năng tập trung chú ý bị suy giảm ở

đoạn trầm cảm là đa dạng và phổ biến, chúng

46,7% ( 14/30 ) bệnh nhân với biểu hiện khó

TCNCYH 115 (6) - 2018

155


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
để có thể tập trung vào một kích thích, không

Suy giảm trong tư duy trừu tượng thường


quan tâm để ý, không biết những sự việc diễn

gặp nhất với tỷ lệ 76,7%, bệnh nhân khó khăn

ra xung quanh. Suy giảm trí nhớ gần chiếm tỷ

trong việc liên tưởng, hiểu ý nghĩa của các từ,

lệ cao nhất 90% bệnh nhân, trí nhớ xa không

sự giống và khác nhau giữa các khái niệm.

có bệnh nhân nào bị suy giảm, điều này có thể

Điều này ảnh hưởng tới việc bệnh nhân hiểu

giải thích do trong giai đoạn trầm cảm bệnh

các câu chuyện, các giao tiếp hàng ngày và

nhân suy giảm sự chú ý, 3 năng lực chú ý đều

trong công việc.

bị suy giảm do bệnh nhân rối loạn trong khâu

Chậm chạp tâm thần vận động gặp ở

ghi nhận những thông tin mới trong thời gian


73,3% bệnh nhân, kết quả này cao hơn so với

gần đây, ngược lại những thông tin xa ngoài

Gallagher và cộng sự (2014) là 34% [5]. Sở dĩ

giai đoạn này bệnh nhân vẫn còn nhớ tốt.

có sự khác biệt này là do nghiên cứu của Gal-

Nhớ lại có trì hoãn và trí nhớ hình ảnh bị

lagher thực hiện trên đối tượng bệnh nhân có

suy giảm ở 66,7% bệnh nhân, kết quả này

mức độ bệnh nhẹ hơn, Hamilton D trung bình

phù hợp với nghiên cứu của Tae Hyon Ha và

20 điểm và bệnh nhân không có triệu chứng

cộng sự (2014) cho thấy bệnh nhân trong giai

loạn thần. Sự khác biệt về mức độ nặng bệnh

đoạn trầm cảm suy giảm ở khả năng nhớ lại

cũng là yếu tố ảnh hưởng tới mức độ suy


khi so sánh với nhóm chứng khoẻ mạnh, bệnh

giảm nhận thức.

nhân thường quên đi những từ, những đồ vật

Sự suy giảm trong lưu loát lời nói gặp ở

đã được ghi nhớ trước đó vài phút và thường

70% bệnh nhân, sự suy giảm này khiến bệnh

cần gợi nhớ lại tính chất, đặc điểm của từ đó

nhân khó khăn trong giao tiếp hàng ngày, khó

bệnh nhân mới có thể nhớ được [9].

lựa chọn từ ngữ, khó diễn đạt ý định của

Suy giảm trí nhớ lời nói cũng được nói đến
thường xuyên trong giai đoạn trầm cảm của

mình. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu

rối loạn cảm xúc lưỡng cực, trong nghiên cứu
của chúng tôi có 63,3% bệnh nhân bị rối loạn

sự suy giảm về sự lưu loát lời nói ở bệnh


này. Kết quả này cao hơn so với kết quả

trầm cảm so với nhóm chứng khoẻ mạnh.

nghiên cứu của Douglas và cộng sự (2018) là
39,3% [10]. Sự khác biệt này có thể do đối
tượng nghiên cứu của Douglas là những bệnh
nhân ngoại trú, điểm Hamilton D 19,2, mức độ
bệnh nhẹ hơn so với nghiên cứu của chúng
tôi. Bệnh nhân thường quên những thông tin
dưới dạng lời nói, dù được nhắc đi nhắc lại để
ghi nhớ nhưng bệnh nhân thường quên phần
lớn những từ này khi được hỏi lại sau vài
phút. Trí nhớ tức thì bị ảnh hưởng ở 33,3%
bệnh nhân, điều này ảnh hưởng đến khả năng

của Basso và cộng sự (2002) [11], cũng thấy
nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực giai đoạn
Các chức năng nhận thức cao cấp khác như:
khả năng tính toán (40%), lập kế hoạch
(56,7%), giải quyết vấn đề (56,7%) và sắp
xếp công việc(20%). Suy giảm ở những khía
cạnh này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
làm việc của bệnh nhân về sự chính xác và
hiệu quả trong công việc.

V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đặc điểm rối loạn nhận


sinh hoạt, các hoạt động sống hàng ngày và
làm giảm chất lượng cuộc sống trên bệnh

thức của 30 bệnh nhân rối loạn cảm xúc

nhân ở trong giai đoạn trầm cảm.

nội trú: Rối loạn các chức năng nhận thức

156

lưỡng cực trong giai đoạn trầm cảm điều trị

TCNCYH 115 (6) - 2018


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
thường gặp, đa dạng; trí nhớ xa không bị rối

6. Caixeta L, Soares V.L, Vieira R.T et al

loạn. Tất cả các bệnh nhân đều bị rối loạn ở ít

(2017). Executive Function Is Selectively Impaired in Old Age Bipolar Depression. Front

nhất 2 vùng nhận thức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Grande I., Berk M., Birmaher B et al
(2016). Bipolar disorder. The Lancet, 387

(10027), 1561 - 1572.
2. Hilty D.M, Leamon M.H, Lim R.F et al
(2006). A Review of Bipolar Disorder in Adults.
Psychiatry Edgmont, 3(9), 43 - 55.
3. Merikangas KR, Jin R, He J et al
(2011). Prevalence and correlates of bipolar
spectrum disorder in the world mental health
survey initiative. Arch Gen Psychiatry, 68(3),
241 - 251.
4. Julita Ś., Alina B (2014). Cognitive
functioning in a depressive period of bipolar
disorder. Arch Psychiatry Psychother, 16(4),
27 - 37.

Psychol, 8, 194.
7. Diflorio A., Jones I (2010). Is sex important? Gender differences in bipolar disorder. Int Rev Psychiatry, 22(5), 437 - 452.
8. Lê Thị Thu Hà, Nguyễn Kim Việt, Trần
Hữu Bình và cộng sự (2018). Nhận xét một
số đặc điểm thực trạng điều trị trầm cảm ở
người bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Học
Việt Nam, 463(1), 165 - 169.
9. Ha T.H, Chang J.S, Oh S.H et al
(2014). Differential patterns of neuropsychological performance in the euthymic and
depressive phases of bipolar disorders. Psychiatry Clin Neurosci, 68(7), 515 - 523.
10. Douglas K.M, Gallagher P, Robinson
L.J et al (2018). Prevalence of cognitive impairment in major depression and bipolar disorder. Bipolar Disord, 20(3), 260 - 274.

5. Gallagher P, Gray J.M, Watson S et al
depression: a component structure analysis.


11. Michael R. Basso (2002). Neuropsychological Impairment among manic, depressed and mixed-episode inpatients with

Psychol Med, 44(5), 961 - 974.

bipolar disorder. Neuropsychology, 16, 84 - 91.

(2014). Neurocognitive functioning in bipolar

Summary
COGNITIVE DYSFUNCTION IN A DEPRESSIVE PERIOD
OF BIPOLAR DISORDER
Cognitive dysfunction in a depressive period of bipolar disorder is common and is expressed
as a diversity of symptoms. However, cognitive dysfunction has not been properly assessed in
clinical practice at present time due to lack of interest. We did a case series report study on 30
in-patients at National Institute of Mental Health during 9/2017 to 6/2018 to describe clinical
features of cognitive dysfunction in a depressive period of bipolar disorder inpatients. We obtained
the following results: The rate of dysfunction: Attention: concentration (46.7%), sustained (76.7%),
divided (64.3%); Memory: immediate memory (33.3%), short-term memory (90%), verbal memory
(63.3%), editic memory (66.7%), delayed recall (66.7%); Executive function: Visuoconstruction
(66.7%), psychomotor retardation (73.3%), abstraction (76.7%), verbal fluency (70%), counting
(40%), planning (56.7%), Synthesis (20%), problem solving (46.7%).The long-term memory was
not in decline. This study confirmed that clinical features of cognitive dysfunction among bipolar
depressive patients were diverse and common.
Key words: bipolar disorder, bipolar depressive, cognitive dysfunction
TCNCYH 115 (6) - 2018

157




×