Chuyên đề:
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO,
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ TRI THỨC
I. PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀ QUỐC SÁCH HÀNG
ĐẦU
1. Vị trí, vai trị của giáo dục và đào tạo
Trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng,
quyết định sự thành cơng của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có
vai trị và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam
mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.
Giáo dục và đào tạo góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức,
có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống,
kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc hiệu quả trong mơi
trường tồn cầu hóa vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Thơng qua các hoạt động giáo
dục, các giá trị văn hóa tốt đẹp được phát triển ở người học, giúp người học hồn
thiện tố chất cá nhân, phát triển hài hịa các mặt trí, đức, thể, mỹ. Nội dung, phương
pháp và mơi trường giáo dục sẽ góp phần duy trì, bảo tồn và phát triển nền văn hóa
Việt Nam.
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã xác định: Phát triển giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan
trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển
giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”.
Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục xác định con người, nhân tố con người là
một trong năm quan điểm phát triển: “...phát huy tối đa nhân tố con người; coi con
người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; là một trong
ba khâu đột phá chiến lược: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược…”; đồng thời cũng là 1 trong 12 định
1
hướng phát triển kinh tế - xã hội: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới
toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo”.
Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu rõ:
“Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học; đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo.
Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành”. “Xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội
học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”.
2. Thực trạng giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay
a. Thành tựu
* Những thành tựu đạt được
- Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu học tập của xã hội. Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp. Hầu
hết các xã trong cả nước, kể cả các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo đã có trường, lớp tiểu học. Phần lớn các xã ở vùng đồng bằng có trường trung
học cơ sở. Hầu hết các huyện có trường trung học phổ thông, các tỉnh và nhiều
huyện đông đồng bào dân tộc đã có hệ thống trường dân tộc nội trú.
- Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có tiến bộ. Chất
lượng giáo dục - đào tạo có tiến bộ bước đầu trên một số mặt về các môn khoa học
tự nhiên và kỹ thuật, ở bậc phổ thông và bậc đại học hệ tập trung. Số học sinh khá
giỏi, số học sinh đạt giải trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế ngày càng tǎng.
- Đến năm 2010 tất cả các tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS
- Cơng tác xã hội hố giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo dục đã
đạt được những kết quả bước đầu. Đã huy động được thêm các nguồn lực ngoài
ngân sách nhà nước để phát triển giáo dục - đào tạo. Các gia đình, các đồn thể
nhân dân, các tổ chức xã hội đã chǎm lo giáo dục nhiều hơn trước. Các phương tiện
thông tin đại chúng đã xây dựng các chuyên mục phục vụ giáo dục - đào tạo. Hợp
tác quốc tế về giáo dục - đào tạo bước đầu được mở rộng...
Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt tăng cơ hội học
tập cho trẻ em gái, trẻ em người dân tộc, con em các gia đình nghèo và trẻ em
khuyết tật. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã
tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học
tập, trước hết ở các cấp học phổ cập.
2
Cơng tác quản lý giáo dục đã có nhiều chuyển biến. Công tác quản lý chất
lượng đã được chú trọng với việc tăng cường hệ thống đánh giá và kiểm định chất
lượng. Việc phân cấp quản lý giáo dục cho các địa phương và sở giáo dục được đẩy
mạnh. Công nghệ thông tin được ứng dụng mạnh mẽ trong quản lý ngành.
Những thành tựu của giáo dục nước ta đã khẳng định vai trò quan trọng của
giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số
phát triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của Chương trình phát
triển Liên hiệp quốc trong những năm gần đây có những tiến bộ đáng kể. Những
thành tựu của giáo dục đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã
hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới, tạo điều
kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
* Nguyên nhân của các thành tựu:
Sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ và chính quyền
các cấp. Sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức kinh tế-xã hội và toàn dân
đối với giáo dục đã góp phần quyết định cho sự thành cơng của sự nghiệp giáo dục.
Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế, cải thiện đời sống
nhân dân của thời kỳ đổi mới đã tạo môi trường với các điều kiện thuận lợi cho
phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà nước đã liên
tục tăng qua các năm.
Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và
quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục đào tạo đã góp phần quan trọng thực hiện
nhiệm vụ giáo dục. Các giáo viên và cán bộ quản lý công tác ở mọi miền tổ quốc,
đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách to lớn,
đóng góp cơng sức vào sự nghiệp trồng người.
Truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy mạnh mẽ, thể hiện trong
từng gia đình, từng dịng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc cơng
sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó, chăm chỉ học tập,
hỗ trợ và tạo điều kiện dạy tốt, học tốt cho các nhà trường.
b. Hạn chế, tồn tại
* Những hạn chế còn tồn tại
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu cơ bản nhưng giáo dục nước ta vẫn còn
những bất cập và yếu kém:
Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu tính liên thơng giữa
các cấp học và các trình độ đào tạo, trong đó giáo dục nghề nghiệp chưa được quan
3
tâm đúng mức. Cách thức tổ chức phân luồng trong hệ thống giáo dục cịn thể hiện
nhiều lúng túng. Tình trạng mất cân đối giữa cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề
đào tạo chậm được khắc phục, chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực của xã hội.
Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong
thời kỳ mới. Sự phát triển quy mô giáo dục ở các cấp học, ngành nghề và trình độ
đào tạo trong những năm qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân,
nhưng chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước và còn thấp so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và trên
thế giới.
Trong giáo dục chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với
nâng cao chất lượng. Trong nhiều năm gần đây, quy mô giáo dục đại học phát triển,
số lượng các trường cao đẳng, đại học tăng mạnh trong khi các điều kiện về đội ngũ
giảng viên, cơ sở vật chất - kỹ thuật nhà trường chưa phát triển đủ để đảm bảo được
chất lượng đào tạo của các cơ sở này.
Nội dung, phương pháp giáo dục từ mầm non đến phổ thông đã được đổi
mới nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế; chương trình giáo dục đại học chậm đổi mới,
chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Cịn có những nội dung trong chương trình
giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo không thiết thực, nặng về lý thuyết, nhẹ
về thực hành, chưa gắn với yêu cầu xã hội, chưa phù hợp với nhu cầu và khả năng
học tập của mọi đối tượng học sinh. Phương pháp dạy học về cơ bản vẫn theo lối
truyền thụ một chiều, đòi hỏi người học phải ghi nhớ máy móc, khơng phát huy
được tư duy phê phán, tư duy sáng tạo và tinh thần tự học ở người học.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ
giáo dục trong thời kỳ mới. Còn thiếu quy hoạch tổng thể đào tạo đội ngũ nhà giáo
từ mầm non đến đại học dẫn đến tình trạng đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu,
vừa không đồng bộ về cơ cấu. Ở các trường cao đẳng, đại học, số giảng viên có
trình độ thạc sỹ và tiến sỹ cịn q ít. Phương thức đào tạo trong các nhà trường sư
phạm chậm đổi mới, chất lượng đào tạo còn thấp dẫn đến tình trạng trình độ
chun mơn và nghiệp vụ của một bộ phận nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu
nâng cao chất lượng.
Bên cạnh sự nỗ lực của tuyệt đại bộ phận, một số nhà giáo còn có biểu hiện
vi phạm đạo đức lối sống, làm ảnh hưởng xấu tới uy tín của người thầy trong xã
hội. Cơng tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ cho đội ngũ nhà
giáo còn thiếu hiệu quả. Các chế độ chính sách đối với nhà giáo chưa thỏa đáng,
chưa tạo được động lực phấn đấu vươn lên trong bản thân mỗi người thầy.
4
Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu, nhất là ở vùng
sâu, vùng xa; thư viện, phịng thí nghiệm, phịng học bộ mơn và các phương tiện
dạy học còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường đại học.
* Nguyên nhân của những yếu kém là:
Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa thực sự được quán triệt
đúng mức ở các cấp quản lý và chỉ đạo giáo dục. Công tác quản lý giáo dục - đào
tạo có những mặt yếu kém, bất cập. Cơ chế quản lý của nghành giáo dục - đào tạo
chưa hợp lý.
Tác động cuả kinh tế thị trường ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo
dục. Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế
Nội dung giáo dục - đào tạo vừa thừa vừa thiếu, nhiều phần chưa gắn bó với
cuộc sống. Phương pháp giáo dục - đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính
chủ động, sáng tạo của người học.
Giáo dục - đào tạo chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường
chưa gắn với gia đình và xã hội. Hoạt động giáo dục - đào tạo chưa gắn mật thiết
với các hoạt động sản xuất và nghiên cứu khoa học.
Chính phủ và các cơ quan nhà nước chưa có những quyết định đủ mạnh về
chính sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện, để thể hiện đầy đủ quan điểm
coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Hiện nay sự nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa
yêu cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô giáo dục - đào tạo, vừa phải gấp rút nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo, trong khi khả nǎng và điều kiện đáp ứng u cầu
cịn nhiều hạn chế, đó là mâu thuẫn trong q trình phát triển. Những thiếu sót chủ
quan, nhất là những yếu kém về quản lý đã làm cho những mâu thuẫn đó càng thêm
gay gắt. Định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, đặc biệt là những chủ trương, giải pháp từ nay đến nǎm
2020 phải được thực hiện với tinh thần cách mạng sâu sắc để giải quyết có hiệu quả
mâu thuẫn nói trên.
3. Tư tưởng chỉ đạo và những định hướng lớn phát triển giáo dục và đào
tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để giáo dục và đào tạo góp phần quan trọng phát triển nguồn nhân lực, Đại
hội XI đề ra quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục và đào tạo, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là
5
khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục
đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi
mới cơ chế tài chính giáo dục... Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương
pháp dạy và học”.
Những định hướng cụ thể, đó là:
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương
pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc
biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức,
lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách
nhiệm xã hội. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà
trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở
giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế.
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, cơng nghệ, văn hố đầu đàn; đội ngũ
doanh nhân và lao động lành nghề.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện cơ chế,
chính sách xã hội hố giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện : động viên các
nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các
hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người
dân được học tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục - đào
tạo.
4. Giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo trong những năm tới
1- Tǎng cường các nguồn lực cho giáo dục - đào tạo
Đầu tư cho giáo dục - đào tạo lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi
phát triển trong ngân sách nhà nước. Tǎng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục
- đào tạo.
Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách, nghiên cứu ban hành
chính sách đóng góp phí đào tạo từ các cơ sở sử dụng lao động, huy động một phần
lao động cơng ích để xây dựng trường sở. Khuyến khích các đoàn thể, các tổ chức
kinh tế, xã hội xây dựng quỹ khuyến học, lập quỹ giáo dục quốc gia. Phát hành xổ
số kiến thiết để xây dựng trường học.
6
Cho phép các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học
và các viện nghiên cứu lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với nghành
nghề đào tạo.
Xây dựng và công bố công khai quy định về học phí và các khoản đóng góp
theo ngun tắc
Dành ngân sách nhà nước thoả đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất
tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những
nước có nền khoa học, cơng nghệ phát triển.
Khuyến khích đi học nước ngồi bằng con đường tự túc, hướng vào những
nghành mà đất nước đang cần, theo quy định của nhà nước.
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngồi có
khả nǎng về nước tham gia giảng dạy và đào tạo, mở trường học, hoặc hợp tác với
các cơ sở đào tạo trong nước; các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể vào Việt
Nam mở các trung tâm đào tạo quốc tế, tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học,
trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ tài chính theo quy định của Nhà nước.
Sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của nước ngoài để xây dựng cơ sở vật
chất cho giáo dục - đào tạo.
2- Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học.
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tơn
vinh. Giáo viên phải có đủ đức tài. Do đó phải:
Củng cố và tập trung đầu tư nâng cấp các trường sư phạm. Xây dựng một số
trường đại học sư phạm trọng điểm để vừa đào tạo giáo viên có chất lượng cao vừa
nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ tiên tiến.
Khơng thu học phí và thực hiện chế độ học bổng ưu đãi đối với học sinh,
sinh viên nghành sư phạm. Có chính sách thu hút học sinh tốt, khá, giỏi vào ngành
sư phạm. Tǎng chỉ tiêu đào tạo của các trường sư phạm, đồng thời giao nhiệm vụ
đào tạo giáo viên một số môn học phù hợp cho các trường đại học và cao đẳng
khác.
Đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ và có chính sách sử dụng hợp lý để khắc
phục nhanh chóng tình trạng thiếu giáo viên hiện nay.
Có chính sách sử dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo.
Trọng dụng người tài. Khuyến khích mọi người, nhất là thanh niên say mê học tập
và tu dưỡng.
3- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo và tǎng cường
cơ sở vật chất các trường học
7
Rà soát lại và đổi mới sách giáo khoa, tǎng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp
và nǎng lực thực hành ở bậc học phổ thông, kỹ nǎng hành nghề ở khối đào tạo.
Tǎng cường giáo dục tư tưởng - đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và với từng bậc
học. Coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân vǎn.
Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, vǎn hoá - thể thao phù
hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học, bảo đảm
điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học.
Ban hành chuẩn quốc gia về trường học. Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và
các thiết bị cho các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và đại học.
4- Đổi mới công tác quản lý giáo dục
Cần đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về giáo dục. Coi việc phát triển và
nâng cao chất lượng giáo dục, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao năng
lực quản lý Nhà nước về giáo dục - đào tạo là một chỉ tiêu phấn đấu xây dựng đảng
bộ trong sạch vững mạnh.
Tǎng cường công tác dự báo và kế hoạch hoá sự nghiệp giáo dục. Đưa giáo
dục vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa
phương. Có chính sách điều tiết quy mơ và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cấu
phát triển kinh tế - xã hội.
Quy định lại chức nǎng, nhiệm vụ các cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo
theo hướng tập trung làm tốt chức nǎng quản lý nhà nước, xây dựng, hồn thiện các
chính sách, cơ chế về giáo dục đào tạo, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện các
chương trình và chất lượng. Xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo
dục.
Đổi mới cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ sắp xếp, chấn chỉnh và nâng cao
nǎng lực của bộ máy quản lý giáo dục - đào tạo. Phân cấp cho Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý toàn diện giáo dục. Hoàn thiện hệ
thống thanh tra giáo dục.
Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi,
hỗ trợ đối với người và gia đình có cơng, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi,
học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên cơng tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng
có nhiều khó khăn. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã
hội trong giáo dục.
8
II. PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - ĐỘNG LỰC THEN
CHỐT CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG
1. Vị trí, vai trị của khoa học và cơng nghệ
Dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã hình
thành quan điểm, chính sách phát triển đất nước dựa vào khoa học, coi khoa học là
động lực của sự phát triển.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Đảng ta đã xác định: Cách mạng khoa học
– công nghệ là then chốt. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng xác định: Cần thiết phải
đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Đại hội IV (1976) đã nhấn mạnh cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt
trong ba cuộc cách mạng tiến hành đồng thời để xây dựng CNXH, chuẩn bị những
tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định
từ nay đến năm 2020 phải phấn đấu để xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp; khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi
sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người.
Đảng ta đã có một số nghị quyết về khoa học và cơng nghệ như Nghị quyết
37 của Bộ Chính trị (khố IV), Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (khố VI), Nghị
quyết 01 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII). Việc thực hiện
các nghị quyết này đã bước đầu nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của đất
nước, thúc đẩy việc đưa các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời
sống, góp phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo ra
những tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố.
Các kỳ Đại hội của Đảng đã từng bước nâng cao và cụ thể hóa tư duy, coi
khoa học là động lực của sự phát triển. Tư duy, đường lối, chính sách đó là hồn
tồn đúng đắn, phù hợp xu thế phát triển của thời đại, đã chi phối cách thức, con
đường đi tới Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
2. Thực trạng phát triển khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay
a. Thành tựu
9
Trong hơn 20 năm đổi mới, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương 2 khóa
VIII, khoa học và cơng nghệ có nhiều tiến bộ, cụ thể là:
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy
mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều kết luận khoa học đã
được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới.
Đầu tư cho khoa học, công nghệ được tăng lên, Các ngành khoa học và cơng
nghệ gắn bó hơn với sản xuất và đời sống. Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ
mới đã được ứng dụng, góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả trong các ngành sản xuất nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn
thơng, giao thơng vận tải, xây dựng, năng lượng, dầu khí, hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu..., xây dựng và củng cố quốc phòng - an ninh.
Khoa học tự nhiên có những thành tựu trong nghiên cứu, điều tra điều kiện
tự nhiên, tài ngun thiên nhiên và mơi trường, góp phần tạo luận cứ cho việc xây
dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ sở cho q trình
tiếp thu và làm chủ cơng nghệ mới. Một số ngành nghiên cứu cơ bản đã xây dựng
được đội ngũ cán bộ khoa học có khả năng tiếp cận trình độ hiện đại trên thế giới.
Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần bổ sung, lý giải và làm rõ thêm
những quan điểm của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; làm
rõ cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng. Các vấn đề về mối quan hệ giữa kinh tế
thị trường và chủ nghĩa xã hội, tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội, văn hố và
phát triển... cũng đã được nghiên cứu sâu hơn. Việc nghiên cứu các di sản lịch sử,
văn hoá, văn minh và con người Việt Nam tiếp tục có những phát hiện mới. Việc
tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và phát triển lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam
đã đạt một số kết quả.
Đã có sự tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ; đổi mới công
tác thẩm định khoa học, công nghệ. Thị trường khoa học, công nghệ bước đầu hình
thành
Đội ngũ cán bộ khoa học và cơng nghệ có bước trưởng thành, được tập hợp,
có thêm điều kiện để phát huy khả năng và cống hiến cho sự nghiệp chung. Đây là
một yếu tố quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Có được những thành tựu trên đây, trước hết là do đường lối đúng đắn của
Đảng, do nhu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào
sản xuất, nhờ sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, khoa học và công nghệ. Mặt khác,
10
đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đã trưởng thành một bước và có nhiều cố
gắng thích nghi với cơ chế mới; quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa
học và công nghệ được mở rộng.
b. Những hạn chế cịn tồn tại
Khoa học, cơng nghệ chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn kết
chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
Nền khoa học và công nghệ nước ta phát triển chậm, chưa tương xứng với
tiềm năng sẵn có, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, cịn thua kém so với nhiều nước trong khu vực.
Trình độ công nghệ thấp, chậm được đổi mới trong nhiều ngành sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và trong quản lý. Sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ
trong nước chưa nhiều, tỷ lệ ứng dụng vào sản xuất và đời sống cịn thấp. Tình
trạng nhập khẩu các thiết bị, cơng nghệ lạc hậu, không đồng bộ, kém hiệu quả ảnh
hưởng xấu đến năng suất lao động và môi trường sinh thái.
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tuy tăng về số lượng, nhưng tỷ lệ trên
số dân còn thấp so với các nước trong khu vực, chất lượng chưa cao, còn thiếu
nhiều cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ.
Số đơng cán bộ có trình độ cao đều đã lớn tuổi, đang có nguy cơ hẫng hụt cán bộ.
Khơng ít cán bộ khoa học và công nghệ chuyển đi làm việc khác hoặc bỏ nghề, gây
nên sự lãng phí chất xám nghiêm trọng.
Cơ cấu và việc phân bố cán bộ khoa học và cơng nghệ chưa cân đối, cịn
nhiều bất hợp lý. Nơng thơn và miền núi cịn thiếu nhiều cán bộ khoa học và công
nghệ.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu khoa học quá nghèo nàn,
lạc hậu; thông tin khoa học và công nghệ quá thiếu và không kịp thời.
Hệ thống tổ chức các cơ quan nghiên cứu - triển khai tuy đã được sắp xếp
một bước, nhưng vẫn còn trùng lắp, chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa
nghiên cứu, giảng dạy với thực tiễn sản xuất - kinh doanh và với quốc phòng - an
ninh; giữa các ngành khoa học, giữa khoa học tự nhiên và công nghệ với khoa học
xã hội và nhân văn. Tinh thần hợp tác giữa các nhà khoa học, giữa các cơ quan
nghiên cứu khoa học còn yếu.
* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
1. Các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền chưa thật sự coi phát triển khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu, chưa tập trung trí tuệ, cơng sức cho sự lãnh
đạo, chỉ đạo các hoạt động khoa học và công nghệ. Nhiều chủ trương đúng đắn về
11
khoa học và công nghệ trong các văn kiện của Đảng chậm được thể chế hoá về mặt
Nhà nước và chưa được thực hiện nghiêm túc.
Các chính sách của Nhà nước chưa khuyến khích và buộc các doanh nghiệp,
nhất là doanh nghiệp nhà nước, tích cực ứng dụng những thành tựu khoa học và
công nghệ. Môi trường đầu tư và cạnh tranh chưa thuận lợi, chưa tạo được động lực
cho việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất - kinh doanh.
Chưa nhận thức đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển.
Đầu tư tài chính của Nhà nước cho hoạt động khoa học và cơng nghệ cịn q thấp.
Việc phân bổ và sử dụng ngân sách cho khoa học và công nghệ chưa hợp lý, chưa
có hiệu quả. Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm huy động các
nguồn vốn ngoài ngân sách cho phát triển khoa học và công nghệ.
Thiếu chiến lược quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nên còn mất cân đối
về đào tạo và sử dụng. Nhiều chính sách cán bộ chưa thoả đáng và không kịp thời
đổi mới. Chế độ tiền lương mang nặng tính bình qn. Lao động trí óc chưa được
đãi ngộ xứng đáng.
Việc quản lý sản xuất, xuất nhập khẩu cịn nhiều sơ hở, quy chế giám định
cơng nghệ chưa chặt chẽ nên nhiều thiết bị, công nghệ lạc hậu được nhập vào nước
ta, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế và gây tác hại xấu đến môi trường.
2. Quản lý khoa học và công nghệ trong cơ chế thị trường còn lúng túng, bất
cập. Việc tổ chức phân bổ lực lượng còn phân tán. Việc quản lý các chương trình
nghiên cứu cịn mang nặng tính hành chính, cịn dàn trải; chưa gắn chương trình
nghiên cứu với chức năng và nhiệm vụ của cơ sở nghiên cứu, chưa đề cao tinh thần
trách nhiệm và phát huy tính chủ động của cơ sở; thiếu sự kết hợp giữa chương
trình kinh tế - xã hội với chương trình khoa học và công nghệ. Nhiều cơ quan khoa
học chưa gắn với cơ sở sản xuất, chưa chủ động phối hợp với địa phương để ứng
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ.
3. Cơng tác đảng, cơng tác chính trị - tư tưởng trong một số viện nghiên cứu,
trường đại học còn yếu. Tác dụng lãnh đạo của tổ chức đảng ở những nơi này cịn
hạn chế. Việc phát triển đảng trong trí thức chưa được quan tâm đầy đủ.
3. Những định hướng lớn về phát triển khoa học và công nghệ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI vẫn xác định phát triển khoa học – công
nghệ là một trong những nội dung quan trọng để phát triển đất nước, đồng thời đề
ra những định hướng để phát triển khoa học – công nghệ.
Định hướng chung của chiến lược khoa học và công nghệ từ nay đến năm
2020 là:
12
- Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền
vững của đất nước; nâng tỉ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng
trưởng. Thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ chủ yếu: nâng cao năng lực khoa học, công
nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng.
- Phát triển năng lực khoa học, công nghệ có trọng tâm, trọng điểm, tập trung
cho những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, đảm bảo đồng bộ về cơ sở vật
chất, nguồn nhân lực. Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các nhiệm
vụ, các sản phẩm khoa học, công nghệ trọng điểm quốc gia, đồng thời đẩy mạnh xã
hội hoá, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh nghiệp cho đầu tư phát
triển khoa học, công nghệ.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học, cơng nghệ,
xem đó là khâu đột phá để thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả của khoa học,
công nghệ. Thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ
xứng đáng nhân tài khoa học, công nghệ.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng; phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Xây dựng và thực hiện chương trình
đổi mới cơng nghệ quốc gia; có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đổi mới công nghệ. Kết hợp chặt chẽ nghiên
cứu và phát triển trong nước với tiếp nhận cơng nghệ nước ngồi.
4. Giải pháp phát triển khoa học và công nghệ trong những năm tới
Thứ nhất, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và công nghệ
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định làm cho
khoa học và công nghệ trở thành nền tảng và động lực mạnh mẽ của sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Để các định hướng chiến lược khoa học và cơng nghệ được thực hiện có hiệu
quả, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở phải tổ chức cho đảng viên và quần
chúng quán triệt Nghị quyết này, đặc biệt là quan tâm sử dụng khoa học và công
nghệ, tạo động lực, nguồn lực và môi trường thuận lợi nhất cho khoa học và công
nghệ phát triển.
Trong chỉ đạo mọi lĩnh vực hoạt động, các cấp uỷ đảng cần chú trọng nội
dung khoa học và công nghệ; thường xun kiểm tra luận cứ khoa học, trình độ
cơng nghệ, hiệu quả kinh tế - xã hội của các chủ trương, chính sách, dự án phát
triển thuộc phạm vi mình phụ trách.
13
Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng chiến lược phát triển khoa học
và công nghệ; thể chế hố các chính sách, chủ trương phát triển khoa học và cơng
nghệ; chỉ đạo gắn kết chương trình kinh tế - xã hội với chương trình khoa học và
cơng nghệ.
Đảng đồn Quốc hội nhanh chóng đưa vào chương trình xây dựng pháp luật
những vấn đề liên quan đến chiến lược phát triển khoa học và cơng nghệ. Sớm trình
Quốc hội Luật khoa học và công nghệ.
Các cấp uỷ đảng tiến hành kiện toàn các cơ quan tham mưu về khoa học và
công nghệ để nâng cao hiệu quả lãnh đạo tổ chức, triển khai chiến lược khoa học,
công nghệ phù hợp với địa phương theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Tạo lập thị trường cho khoa học và cơng nghệ
Dùng các cơng cụ về thuế, về tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ hiện đại phù hợp với các hướng ưu tiên của Nhà nước. Áp dụng chế độ
thuế nhập khẩu thấp đối với các thiết bị công nghệ tiên tiến. Miễn mọi loại thuế cho
các sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử bằng công nghệ mới. Giảm thuế lợi
tức trong một số năm đối với các sản phẩm làm ra bằng công nghệ mới lần đầu tiên
được áp dụng trong nước, có chính sách ưu đãi đối với việc áp dụng các công nghệ
do trong nước sáng tạo ra.
Đối với các doanh nghiệp, Nhà nước quy định chế độ thưởng cho tập thể lao
động và các tác giả về sáng chế, phát minh, cải tiến kỹ thuật và ứng dụng công
nghệ mới.
Các viện nghiên cứu được thành lập các cơ sở sản xuất - kinh doanh, các
trung tâm ứng dụng, tư vấn và chuyển giao công nghệ thuộc các lĩnh vực chuyên
môn mà viện đảm nhận, được phép liên doanh với nước ngoài theo quy định của
Nhà nước.
Thành lập các tổ chức nghiên cứu - triển khai trong các tổng công ty và
doanh nghiệp lớn.
Mở rộng mạng lưới dịch vụ tư vấn khoa học và công nghệ. Miễn hoặc giảm
thuế doanh thu cho các hoạt động tư vấn khoa học và cơng nghệ.
Hồn thiện hệ thống luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và khuyến
khích chuyển giao cơng nghệ.
Thứ ba, Có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ khoa học và cơng nghệ
Có chính sách lương thoả đáng đối với cán bộ nghiên cứu khoa học và triển
khai. Có chế độ thưởng, phụ cấp và trợ cấp cho các cơng trình khoa học và cơng
14
nghệ có giá trị. Có cơ chế để cán bộ khoa học và cơng nghệ bảo đảm thu nhập thích
đáng thông qua việc tham gia các hợp đồng nghiên cứu - triển khai.
Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tinh thần yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, hoài bão, lý tưởng say mê khoa học; áp dụng nhiều hình thức biểu
dương, tơn vinh địa vị xã hội của các nhà khoa học và chuyên gia công nghệ hàng
đầu.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học và cơng nghệ; trẻ hố đội
ngũ cán bộ khoa học và cơng nghệ. Khơi dậy nhiệt tình của thế hệ trẻ theo đuổi sự
nghiệp khoa học và công nghệ.
Xây dựng và thực hiện quy chế bảo đảm dân chủ, phát huy tinh thần sáng
tạo, tăng cường đoàn kết, ý thức trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học trong
hoạt động nghiên cứu và triển khai. Khuyến khích, trân trọng những tìm tịi khám
phá khoa học, những kiến nghị giải pháp khác nhau về các vấn đề của tự nhiên, kỹ
thuật cũng như kinh tế - xã hội. Có những hình thức tổ chức, phương pháp và cơ
chế hoạt động hợp lý để phát huy tối đa trí tuệ tập thể cũng như tài năng cá nhân
của nhà khoa học.
Trang bị kỹ thuật, thông tin, thiết bị đồng bộ cho một số phịng thí nghiệm,
một số viện nghiên cứu trọng điểm, một số bộ môn ở các trường đại học đạt mức
tiên tiến trong khu vực. Tăng dần trang thiết bị và nâng cấp các thư viện cho các
trường, các viện nghiên cứu.
Có chính sách khuyến khích cán bộ khoa học và công nghệ về làm việc tại
các vùng nông thôn, vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Quy định tuổi về hưu thích hợp đối với cán bộ khoa học và cơng nghệ có
trình độ cao; có nhiều hình thức sử dụng và phát huy năng lực của đội ngũ trí thức
tuổi cao cịn sức cống hiến.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ khoa học và công nghệ
người Việt Nam ở nước ngoài chuyển giao về nước những tri thức khoa học và
cơng nghệ tiên tiến. Có chính sách thoả đáng đối với cán bộ khoa học và công nghệ
Việt Nam ở nước ngoài về làm việc trong nước.
Thứ tư, Huy động quần chúng nhân dân tham gia phát triển khoa học công
nghệ
Phát động phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học phát huy sáng
kiến, cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh, áp dụng khoa học và công nghệ vào mọi
mặt của sản xuất, đời sống.
15
Đẩy mạnh phong trào thi đua tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm,
nâng cao hiệu quả công tác trong tồn xã hội. Nhà nước có chính sách khuyến
khích, động viên khen thưởng và tôn vinh kịp thời đối với những tập thể và cá nhân
có thành tích xuất sắc trong phong trào này.
Thứ năm, Tăng đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn
lực khác nhau
Tăng dần tỷ lệ ngân sách nhà nước hàng năm chi cho khoa học và cơng nghệ.
Chương trình phát triển khoa học và công nghệ phải là một bộ phận quan trọng
trong nội dung của mỗi chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Việc thực hiện các
chương trình kinh tế - xã hội phải là cơ sở thực tiễn và là nơi tạo nhu cầu và cung
cấp nguồn lực cho phát triển khoa học và cơng nghệ.
Trích một phần vốn của các dự án đầu tư để tiến hành nghiên cứu, phản biện,
đánh giá những vấn đề khoa học và cơng nghệ có liên quan tới nội dung, chất lượng
dự án.
Có cơ chế để doanh nghiệp dành một phần vốn cho nghiên cứu đổi mới, cải
tiến công nghệ và đào tạo nhân lực. Phần vốn này không chịu thuế.
Nhà nước chú trọng đầu tư cho nghiên cứu cơ bản, nhất là những lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn cũng như những lĩnh vực khoa học và công nghệ đặc
thù của Việt Nam.
Thứ sáu, Hợp tác quốc tế về khoa học và cơng nghệ
Có chính sách mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước,
các tổ chức quốc tế; thu hút các chuyên gia giỏi của thế giới đến nước ta hợp tác
mở trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân kỹ thuật, lập các cơ sở nghiên
cứu khoa học và chuyển giao những thành tựu khoa học và cơng nghệ hiện đại.
Có cơ chế sử dụng vốn vay và viện trợ nước ngồi để đầu tư có hiệu quả cho
khoa học và cơng nghệ. Hình thành một số cơ sở quốc tế về khoa học tự nhiên và
công nghệ.
Nhà nước dành một khoản ngân sách thích đáng để cử người có đức, có tài đi
đào tạo những ngành nghề thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên ở những
nước có nền khoa học và cơng nghệ tiên tiến; khuyến khích việc tự túc đi học ở
nước ngồi về khoa học và cơng nghệ.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ khoa học và công nghệ,
nhất là cán bộ trẻ được đi bồi dưỡng và trao đổi khoa học ở nước ngoài.
Thứ bảy, Tăng cường kiểm sốt, giám định cơng nghệ và chất lượng sản
phẩm
16
Các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong mọi ngành, mọi cấp đều
phải có sự thẩm định của các tổ chức khoa học về giải pháp cơng nghệ và về những
tác động của nó đến môi trường và xã hội. Việc thẩm định phải được luật pháp hoá.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý tiêu chuẩn, đo lường
và kiểm tra chất lượng sản phẩm. Có biện pháp phát hiện kịp thời, ngăn chặn và
đình chỉ sản xuất lưu thơng hàng giả.
Tiến hành nghiêm ngặt công tác thanh tra, kiểm tra mơi trường sinh thái.
Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng công nghệ sạch. Ngăn ngừa và xử lý
nghiêm các trường hợp nhập và sử dụng các công nghệ gây ô nhiễm môi trường.
Tất cả các dự án đầu tư, các quy hoạch phát triển sản xuất, quy hoạch đô thị, khu
công nghiệp đều phải thực hiện nghiêm chỉnh báo cáo đánh giá tác động mơi
trường và phải có một phần vốn đầu tư cho các giải pháp bảo vệ môi trường.
Thứ tám, Đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học và cơng
nghệ
Kiện tồn tổ chức và nâng cao trách nhiệm các cơ quan quản lý nhà nước về
khoa học và công nghệ từ Trung ương đến cấp huyện, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý khoa học công nghệ, tăng cường công tác thanh tra công nghệ và
thanh tra môi trường.
Đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa
học và công nghệ theo hướng lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu. Kiểm tra
hoạt động, hiệu quả sử dụng kinh phí nghiên cứu của các tổ chức khoa học và cơng
nghệ.
Kiện tồn, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng chính sách khoa học
và công nghệ quốc gia, của Hội đồng khoa học và công nghệ ngành và địa phương.
Ban hành Luật khoa học và công nghệ. Nhà nước quản lý thống nhất các
hoạt động khoa học và công nghệ, đồng thời phân cấp quản lý và phát huy tính chủ
động của các cơ sở nghiên cứu - triển khai.
Tiếp tục sắp xếp, kiện tồn các cơ quan khoa học và cơng nghệ theo hướng
củng cố trung tâm khoa học quốc gia và một số cơ quan khoa học công nghệ trọng
điểm ngành, bảo đảm kết hợp giữa viện nghiên cứu và trường đại học, gắn nghiên
cứu - triển khai với sản xuất - kinh doanh.
Khuyến khích thành lập các tổ chức khoa học và cơng nghệ ngồi khu vực
nhà nước.
Củng cố và tăng cường hoạt động của các Hội khoa học và kỹ thuật nhằm tập
hợp rộng rãi các lực lượng trí thức. Phát huy vai trị chính trị - xã hội của Liên hiệp
17
các Hội khoa học và kỹ thuật ở Trung ương và địa phương trong việc phổ biến và
ứng dụng kiến thức khoa học vào sản xuất và đời sống, trong nghiên cứu khoa học,
triển khai công nghệ và bảo vệ môi trường, cũng như trong công tác tư vấn, phản
biện và giám định xã hội. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của các Hội khoa học và kỹ thuật.
Thứ chín, Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến
thức khoa học và công nghệ
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ cập tri thức khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, khoa học xã hội và nhân văn nói chung, những hiểu biết thường thức về
khoa học tự nhiên và công nghệ, bảo vệ môi trường trong nhân dân, đặc biệt là ở
vùng nơng thơn, vùng núi, vùng dân tộc ít người, hình thành lối sống văn minh và
sự lành mạnh của môi trường xã hội.
Đẩy mạnh các dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ về lãnh đạo - quản
lý, nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp, đặc biệt là
thông tin công nghệ.
Phát triển và quản lý tốt mạng lưới thu thập, xử lý thông tin về khoa học và
cơng nghệ nước ngồi.
III. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC GẮN VỚI Q TRÌNH
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC
1. Vị trí, vai trị của Kinh tế tri thức
Ðất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Ðây cũng là thời kỳ kinh tế thế giới có bước chuyển biến sâu sắc, từ kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức. Sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức là xu
thế không thể đảo ngược, xu hướng này cuốn theo tất cả các quốc gia mà không
loại trừ các nước nghèo, kém phát triển, nó có tác động mạnh mẽ đối với các nước
đang trong q trình cơng nghiệp hóa như Việt Nam.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển
và tăng trưởng kinh tế, xã hội. Phát triển Kinh tế tri thức ở nước ta là một chuyển
biến chiến lược trọng đại: chuyển nền kinh tế từ dựa vào tài nguyên sang dựa chủ
yếu vào tri thức và năng lực sáng tạo của con người. Nước ta là nước đi sau, có cơ
hội và cần thiết phải “đi tắt, đón đầu”, Kinh tế tri thức cho ta cơ hội nắm bắt và vận
dụng sáng tạo những tri thức mới, cách thức kinh doanh mới để đổi mới nền kinh tế
nước ta.
18
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định: “phát
triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Đây là một trong
những chủ trương có vai trị định hướng rất quan trọng trong thời kỳ mới đến năm
2020. Ngay từ Đại hội lần thứ IX (năm 2001), lần đầu tiên Đảng ta xác định: "Kinh
tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong q trình phát triển lực lượng sản xuất"
và đề ra định hướng "từng bước phát triển kinh tế tri thức". Đến Đại hội lần thứ X
(năm 2006) Đảng ta lại nhấn mạnh "Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa gắn
với từng bước phát triển kinh tế tri thức". Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng có
sự phát triển mới về nhận thức lý luận và thực tiễn, đề ra định hướng: “phát triển
kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.
Sự đánh giá đúng đắn vị trí vai trị của kinh tế tri thức cịn thể hiện trong việc
coi phát triển kinh tế tri thức là phương hướng số một trong 8 phương hướng cơ
bản xây dựng nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong
những định hướng lớn về khoa học công nghệ; là một nội dung, nhiệm vụ chủ yếu
trong sự nghiệp đổi mới trong nhiệm kỳ 5 năm tới của Đảng. Có thể coi đây là một
trong những chủ trương có tính đột phá trong các giải pháp để rút ngắn q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hóa ở nước ta so với các nước đi trước, và là nhân tố bảo
đảm sự phát triển nhanh, cân bằng và bền vững của nền kinh tế nước nhà trong
tương lai.
Đây là một chủ trương, đường lối đúng đắn, sáng tạo có cơ sở lý luận và thực
tiễn cao, chắc chắn sẽ sớm phát huy vai trị tích cực, là động lực trong phát triển
kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc
2. Thực trạng phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay
a. Những thành tựu đã đạt được
Đánh giá theo những đặc trưng của kinh tế tri thức, trong hơn 20 năm đổi
mới vừa qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả, thể hiện chủ yếu như sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Liên tục trong nhiều năm, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao và ổn định, cơ cấu kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch, với tỷ trọng các lĩnh vực
kinh tế có giá trị gia tăng cao, trong đó có những lĩnh vực dựa nhiều vào tri thức
ngày càng tăng. Một số lĩnh vực như công nghiệp thông tin, công nghiệp công nghệ
cao, các lĩnh vực dịch vụ dựa vào xử lý thơng tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào
tạo, nghiên cứu phát triển cơng nghệ… đã dần dần hình thành và có bước phát triển
đáng kể. Những lĩnh vực này được chờ đợi trở thành đầu tàu thúc đẩy phát triển,
đổi mới toàn bộ nền kinh tế.
19
Thứ hai, xây dựng thể chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế
Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc xây dựng hệ
thống pháp luật kinh tế thị trường, cải cách tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước,
tăng cường năng lực, tính năng động và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
công chức, chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới và tạo cuộc sống tốt hơn cho
người dân; cơ cấu lao động thay đổi, từng bước gia tăng lao động tri thức.
Thứ ba, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Các quan hệ kinh tế song phương và đa phương của Việt Nam không ngừng
được mở rộng thông qua việc ký kết và tham gia vào các hiệp định và diễn đàn
quốc tế, Việt Nam đã thiết lập được mối quan hệ bình thường với tất cả các nước
lớn, các nhóm nước và trung tâm kinh tế, tài chính lớn trên thế giới. Điều này đã
đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế như: tiếp nhận một khối lượng vốn lớn
FDI, ODA; tiếp nhận chuyển giao công nghệ, tăng năng suất lao động; có nguồn
vốn để xóa đói; mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng kim ngạch xuất khẩu; tăng vị thế
của nước ta trên thị trường quốc tế… Nước ta đang từng bước trở thành một mắt
khâu trong mạng lưới sản xuất, kinh doanh tồn cầu, trong đó có những hoạt động
liên quan đến sự sản sinh, truyền bá và sử dụng kinh tế tri thức.
Thứ tư, từng bước hình thành kết cấu hạ tầng then chốt cho kinh tế tri thức.
Mạng thông tin được đánh giá là một trong những kết cấu hạ tầng quan trọng
nhất của xã hội và nền kinh tế tri thức. Trong những năm qua, nhờ những nỗ lực
thực hiện Chương trình quốc gia về cơng nghệ thông tin và chiến lược đẩy nhanh
phát triển lĩnh vực viễn thông, mạng thông tin ở nước ta đã được hình thành và mở
rộng nhanh chóng, viễn thơng được đánh giá là một trong những lĩnh vực có tốc độ
phát triển và đuổi kịp nhanh nhất của nền kinh tế. Một loạt các dịch vụ bưu chính,
viễn thơng và internet đã được tạo lập và mở rộng để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, phục vụ các hoạt động sản xuất – kinh doanh, quản lý nhà nước, giáo dục, y
tế, nghiên cứu, giải trí, giao tiếp…
Nhiều doanh nghiệp đã nhận thấy cơ hội tốt của thương mại điện tử và đã bắt
đầu áp dụng phương thức kinh doanh mới này, như các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ Internet, các doanh nghiệp kinh doanh về dịch vụ và du lịch, các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có nhu cầu thông tin nhanh, kịp thời về thị
trường thế giới và các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ sản phẩm công nghệ
cao như tin học, điện tử viễn thông, tư vấn thị trường, giá cả…Nhiều cơ quan nhà
20
nước cũng từng bước nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản
lý trong một số lĩnh vực, điển hình là đăng ký kinh doanh.
b. Những hạn chế còn tồn tại
Trong những năm qua, việc phát triển kinh tế tri thức ở nước ta vẫn còn tồn
tại một số hạn chế chậm và chưa được khắc phục
Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp và chưa được cải thiện
nhiều
Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao thể hiện ở chỗ hiệu quả nền kinh tế
còn thấp, năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế còn yếu, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế còn chậm và chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư có xu hướng
gia tăng. Mơi trường đầu tư khơng ổn định và năng lực yếu kém của bộ máy hành
chính đã làm tăng đáng kể chi phí giao dịch và chi phí đầu vào sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường cịn non yếu,
thiếu sót và nhiều méo mó
Hệ thống thể chế kinh tế thị trường ở nước ta nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chưa
theo kịp diễn biến thực tế của các hoạt động kinh tế, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ,
mâu thuẫn, chồng chéo, không minh bạch và nhất là năng lực thực thi pháp luật còn
yếu. Cải cách hành chính diễn ra chậm chạp khiến cho năng lực hỗ trợ của nền
hành chính cho phát triển kinh tế bị hạn chế.
Một số thị trường rất quan trọng mới chỉ được hình thành rất sơ khai mà đã
có nhiều điểm bất cập, hàng hóa trên thị trường khoa học và cơng nghệ cịn nghèo
nàn, lượng giao dịch trên thị trường cịn ít và đơn điệu. Các yếu tố cấu thành của thị
trường cịn yếu, chưa trở thành mơi trường cần thiết để khuyến khích sự sáng tạo và
đổi mới.
Thứ ba, quá trình chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế chưa mạnh và chưa
đồng đều
Quá trình phát triển nhận thức về toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế còn
chậm trong các cấp các ngành, thiếu sự thống nhất và quyết tâm cao từ trên xuống
dưới. Việc chỉ đạo và phối hợp thực hiện giữa các ngành, các cập nhiều khi còn
chệch choạc, thiếu nhất quán, chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể về hội
nhập kinh tế quốc tế cũng như chưa có lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết quốc
tế, do đó chưa gắn kết được một cách hài hòa các lộ trình hội nhập ở các cấp độ và
quy mơ khác nhau.
Tính chủ động của nhiều cấp, nhiều ngành cũng như của doanh nghiệp trong
hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao, thậm chí cịn khá bị động trong nhiều lĩnh vực,
21
mong muốn tiếp tục nhận được sự bảo hộ từ phía nhà nước. Sự bảo hộ này đã hạn
chế cạnh tranh, tăng thêm sức ì và gánh nặng đối với nền kinh tế, đồng thời tác
động bất lợi đến quá trình hoạch định chính sách
Thứ tư, các lĩnh vực biểu hiện đặc trưng của kinh tế tri thức chưa phát triển
Các ngành mới, đại diện cho kinh tế tri thức (hay cịn gọi là các ngành cơng
nghệ cao) hoặc chưa hình thành hoặc mới ở trình độ phát triển rất sơ khai. Số
doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, đầu tư cho nghiên cứu và triển khai nhằm tạo ra
công nghệ mới là không đáng kể. Đây chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi, cịn Việt Nam chỉ có một số doanh nghiệp nhà nước lớn có cơ sở hoạt
động và nghiên cứu phát triển công nghệ, nhưng lượng vốn đầu tư cho nghiên cứu
và triển khai của các doanh nghiệp này quá thấp so với tỷ trọng của các doanh
nghiệp tại các nước phát triển. trong khi đó, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong
nước hầu như chưa tham gia hoạt động nghiên cứu và triển khai. Tri thức chưa thực
sự trở thành nguồn vốn quý, ý thức xã hội và thể chế pháp lý về quyền sở hữu trí
tuệ cịn q non kém, những người có khả năng tạo ra tri thức chưa hình thành
được thói quen đăng kí bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm khoa học và cơng
nghệ của mình.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống xã hội cịn rất hạn chế. Mạng
thơng tin đa phương tiện tuy đã và đang được mở rộng khá nhanh, nhưng chưa bao
phủ được khắp toàn quốc, chưa kết nối được đến hầu hết các tổ chức và các hộ gia
đình. Bên cạnh đó, sự tiếp cận với mạng thơng tin cịn gặp phải nhiều ràng buộc
liên quan đến các khía cạnh về cơ sở vật chất kỹ thuật, các thủ tục hành chính, pháp
lý, giá cước… Điều này ảnh hưởng lớn đến sự tiếp cận của các thành viên trong xã
hội với những thông tin cần thiết. Các phương thức kinh doanh mới như thương
mại điện tử, thị trường ảo, tổ chức ảo, doanh nghiệp ảo, làm việc từ xa… còn ở
trình độ manh nha, thậm chí mới có trong mong muốn, trong lời nói, trong bài viết,
chưa có trong thực tế.
Nguồn lao động Việt Nam tuy dồi dào về số lượng nhưng lại thiếu và yếu về
số lượng. Trên thị trường lao động của Việt Nam đang rất thiếu các chuyên gia về
quản trị kinh doanh, các lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà quản lý trung gian
hiểu biết về tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng anh, những cơng nhân
có tay nghề cao, ham học hỏi. Với thực trạng đó, lao động Việt Nam khó có thể có
một đội ngũ đơng đảo lao động tri thức.
3. Những định hướng lớn để phát triển kinh tế tri thức gắn với q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
22
Vấn đề đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với phát
triển kinh tế tri thức lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng. Thực chất là q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa “rút
ngắn” dựa trên tri thức; đó vừa là mục tiêu, vừa là phương thức để có thể thực hiện
thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên việc “rút ngắn” q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đang
đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để vừa có thể đi tắt, đón đầu, vừa
giữ được tính bền vững trong từng bước phát triển. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Báo cáo
Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X được Ðại hội XI thông qua đều
rút ra bài học trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức phải bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế.
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng có sự phát triển mới về nhận thức lý
luận và thực tiễn, Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác
định: “phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Đây là
một trong những chủ trương có vai trị định hướng rất quan trọng trong thời kỳ mới
đến năm 2020.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung, phát triển năm 2011) phương hướng cơ bản để thực hiện các mục tiêu của
thời kỳ quá độ đó là: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền
vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…”(1).
Quán triệt quan điểm của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với tri thức và
phát triển bền vững, nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống đòi hỏi cần thực hiện tốt
một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân. Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý theo ngành, lĩnh vực và vùng
lãnh thổ. Phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao
dựa nhiều vào tri thức.
Hai là, cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ cho phát triển kinh tế tri thức.
23
Ba là, phát triển mạnh về khoa học công nghệ, tăng cường năng lực khoa học
công nghệ quốc gia.
Cương lĩnh của Đảng nêu rõ: Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động
lực đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức;
góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện mơi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Như vậy, hướng tới các mục tiêu của phát triển kinh tế bền vững trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức đã được Đại hội Đảng
XI quan tâm một cách đặc biệt. Đây đã trở thành một phần quan trọng của Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược phát triển
của các ngành, lĩnh vực, bộ phận của nền kinh tế ở nước ta. Đây chính là kết quả
của quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta trong Đại hội XI.
4. Giải pháp phát triển kinh tế tri thức gắn với q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm tới
Thực tiễn phát triển của chính nước ta trong những năm vừa qua đã chứng tỏ
một cách thuyết phục rằng, Việt Nam có đủ năng lực và điều kiện để thực hiện
thành công đường lối phát triển kinh tế tri thức, một đường lối táo bạo và đầy tính
sáng tạo. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin - viễn thông, việc
chế tạo thành công các sản phẩm Nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học
cùng với năng lực sáng tạo trong toán học, vật lý học… cho thấy, nếu mạnh dạn, có
quyết tâm và nghiêm túc bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại, chắc chắn chúng ta
sẽ thành công.
Vấn đề thực tiễn đặt ra là: trong khung khổ chiến lược chung, cần phải có
những giải pháp chiến lược để Việt Nam phát triển nền kinh tế tri thức một cách
hiệu quả, Đó là:
Đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới, phù hợp
với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế chính
sách phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải ln đổi mới, và
phải thúc đẩy sự ra đời nhanh chóng các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh
nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Phải tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng, chống độc quyền.
Chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trong
những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển giáo dục và phải tiến hành một
24
cuộc cải cách giáo dục mới nhằm tạo ra nguồn lao động chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu phát triển của nền kinh tế tri thức.
Tăng cường năng lực khoa học và cơng nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm
chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất của thế giới
cần thiết cho sự phát triển nước ta, từng bước sáng tạo những công nghệ mới đặc
thù của nước ta, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến của Việt Nam.
Nhà nước thực sự đóng vai trị bà đỡ, tạo khung khổ pháp lý và hỗ trợ các
điều kiện cần thiết để phát triển khoa học- công nghệ và cho hoạt động nghiên cứu,
nghiên cứu - triển khai.
Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố. Cơng nghệ thơng tin là chìa khố để đi vào kinh tế tri thức. Muốn
rút ngắn q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, rút ngắn khoảng cách với các
nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin.
Khẩn trương xây dựng một Chương trình phát triển kinh tế tri thức mang tầm
cỡ chiến lược quốc gia, coi đây là “trục” của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Thực hiện một chiến lược phát triển khoa học có lộ trình phù hợp với năng
lực nội sinh và có khả năng tranh thủ các thành tựu của thế giới. Trong giai đoạn
đầu tiên, chiến lược đó cần dành sự ưu tiên cho việc khuyến khích hoạt động tiếp
nhận, học hỏi và ứng dụng thành tựu khoa học- cơng nghệ của thế giới; trên nền
tảng đó, tạo ra và làm mạnh lên năng lực nghiên cứu nội sinh, từ đó, xây dựng nền
khoa học - cơng nghệ mạnh của Việt Nam, sánh vai với thế giới.
Phát triển các Khu công nghiệp - công nghệ cao cấp vùng, với hạt nhân là
các Vườn ươm công nghệ - Vườn ươm doanh nghiệp hiện đại, thay thế các Khu
Công nghiệp kiểu cũ, đang tỏ ra kém hiệu quả, thậm chí cản trở sự phát triển.
Coi trọng nguyên tắc phát triển khoa học công nghệ với sự dẫn dắt, hỗ trợ
của thị trường - doanh nghiệp, được khuyến khích, ni dưỡng bằng tinh thần cạnh
tranh thị trường lành mạnh. Đặc biệt chú trọng phát triển thị trường công nghệ, coi
đây là sức kích thích quan trọng nhất của nền khoa học.
Thu hút các tập đồn xun quốc gia, có tiềm lực khoa học- cơng nghệ và tài
chính mạnh đầu tư vào Việt Nam, khuyến khích họ xây dựng các trung tâm nghiên
cứu - phát triển, tạo kênh để từ đó, tri thức cơng nghệ lan toả rộng rãi ra tồn bộ
nền kinh tế.
Quá trình phát triển kinh tế tri thức cùng với xu hướng tồn cầu hóa đang tác
động to lớn tới cấu trúc kinh tế, phương thức hoạt động và tổ chức quản lý về kinh
25