Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Siêu âm xác định giá trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung ở thai phụ song thai từ 20 đến 24 tuần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.94 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

SIÊU ÂM XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH CHIỀU DÀI  
KÊNH CỔ TỬ CUNG Ở THAI PHỤ SONG THAI TỪ 20 ĐẾN 24 TUẦN 
Lê Hoa Duyên*, Lê Hồng Cẩm* 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Sinh non là nguồn gốc chính của bệnh suất và tử suất chu sinh trong song thai. Ngày nay, khảo 
sát cổ tử cung (CTC) bằng siêu âm đầu dò âm đạo là phương pháp thường được sử dụng để theo dõi các thai kỳ 
song thai, bởi vì cổ từ cung ngắn đo được trên siêu âm là một yếu tố nguy cơ quan trọng trong tiên lượng sinh 
non. Theo hướng dẫn thực hành lâm sàng của Hội Sản Phụ Khoa Cananda năm 2011, phương pháp đo chiều dài 
kênh cổ tử cung bằng siêu âm có thể phát hiện những trường hợp song thai có nguy cơ sinh non cao. Mục tiêu: 
Xác định giá trị trung bình của chiều dài kênh CTC bằng siêu âm đầu dò âm đạo ở thai phụ song thai từ tuần 20 
đến tuần 24. Xác định mối liên quan giữa chiều dài kênh CTC với các yếu tố dịch tễ và đặc điểm lâm sàng. 
Đối  tượng  ‐  Phương  pháp  nghiên  cứu:  Đây  là  thiết  kế  nghiên  cứu  cắt  ngang,  theo  đó  các  đối  tượng 
nghiên cứu được phỏng vấn và siêu âm để thu thập dữ liệu tại một thời điểm. Các thai phụ mang song thai có 
tuổi thai từ 20 tuần đến 24 tuần 6 ngày đến khám tại phòng khám thai tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 10/2012 
đến tháng 4/2013.Sau khi được khảo sát hình thái học thai nhi, thai phụ sẽ được siêu âm đo chiều dài kênh cổ tử 
cung bằng đầu dò âm đạo. 
Kết quả: Giá trị trung bình chiều dài kênh CTClà 33,0 ± 6,1 mm. Giá trị trung vị chiều dài kênh CTC là 
34,1 mm (7,3 – 44,4). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi, chỉ số khối cơ thể, nghề 
nghiệp, trình độ học vấn, số con, tiền căn sảy thai, đặc điểm có thai, loại song thai với giá trị trung bình chiều dài 
kênh CTC. Giá trị trung bình chiều dài kênh CTC ở nhóm thai phụ sống ở ngoại thành ngắn hơn trung bình 
chiều dài kênh CTC ở nhóm thai phụ sống ở nội thành(p=0,02).Cần có thêm các nghiên cứu đoàn hệ trong tương 
lai nhằm khảo sát sự thay đổi chiều dài kênh CTC ở các thai phụ song thai từ 3 tháng đầu cho đến lúc sinh. 
Từ khóa: chiều dài kênh cổ tử cung, song thai, sinh non. 

ABSTRACT 
IDENTIFICATION OF THE MEAN VALUE OF THE CERVICAL LENGTH IN WOMEN  


WITH TWIN PREGNANCIES AT 20 ‐ 24 WEEKS GESTATION 
Le Hoa Duyen, Le Hong Cam * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 87‐94 
Introduction:  Twin pregnancies are associated with a significantly higher rate of perinatal morbidity and 
mortality  compared  with  singleton  pregnancies  Sonographic  assessment  of  the  cervical  length  can  predict  the 
elevated risk of preterm delivery for twins. According to SOGC Clinical practice guidelines 2011, transvaginal 
ultrasound assessment of the cervival length should be performed for screening the risk of preterm birth in twins. 
Objective: To identify the mean value of the cervical length and the associated factors to it in women with twin 
pregnancies at 20‐24 weeks gestation. 
Methods:  A  cross‐sectional  study  was  conducted  at  Tu  Du  hospital  from  October  2012  to  April  2013. 
Cervical  length  was  measured  by  transvaginal  sonography  at  20‐24  weeks  gestation  in  161  twin  pregnancies 
attending routine antenatal care.  
Results:  The  mean  cervical  length  was  33.0  ±  6.1  mm.  The  median  cervical  length  was  34.1  mm  (7.3  – 
* Bộ môn phụ sản Đại học Y dược TPHCM  
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Lê Hồng Cẩm 

Sản Phụ Khoa

 ĐT: 0913 645517 

Email::  

87


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

44.4).  There  was  no  correlation  between  cervical  length  and  maternal  age,  body  mass  index,  occupation, 
education,  parity,  previous  miscarriage,  natural  or  ART  pregnancy,  or  types  of  twins.  There  was  also  a 

correlation between cervical length of patients from the inner cities and suburban areas (34.7 mm vs. 32.1 mm, p 
= 0.02). 
Conclusion: The mean cervical length in women with twin pregnancies at 20‐24 weeks gestation was 33.0 
± 6.1 mm. Further longitudinal research should be conducted to assess the cervical length to determine the risk 
factors of preterm birth.  
Key words: cervical length, twin pregnancies, preterm birth. 
kết luận rằng chiều dài kênh CTC từ 15 milimét 
MỞ ĐẦU 
đến 30 milimét đo được từ tuần thứ 18 đến tuần 
Từ những năm 1980, phương pháp siêu âm 
thứ 26 có liên quan đến việc tăng nguy cơ sinh 
đo  chiều  dài  kênh  CTC  được  sử  dụng  nhằm 
non ở song thai(3,6,12,17). 
phát hiện những thai phụ có nguy cơ sinh non. 
Tại Việt Nam, có một số nghiên cứu về siêu 
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã kết luận nguy 
âm đo chiều dài kênh CTC và hiện vẫn chưa có 
cơ sinh non có mối tương quan nghịch với chiều 
nghiên cứu nào thực hiện siêu âm đánh giá cổ tử 
dài kênh cổ tử cung được đo bằng siêu âm đầu 
cung 
ở  những  thai  kỳ  song  thai.  Vì  vậy,  chúng 
dò âm đạo  (2,3,16). Nếu chiều dài kênh cổ tử cung 
tôi tiến hành nghiên cứu “Siêu âm xác định giá 
ngắn đi, nguy cơ sinh non sẽ tăng lên nhiều lần. 
trị  trung  bình  chiều  dài  kênh  cổ  tử  cung  ở  thai 
Việc  phát  hiện  chiều  dài  kênh  cổ  tử  cung  ngắn 
phụ song thai từ 20 đến 24 tuần”. 
giúp phát hiện nguy cơ sinh non sớm, từ đó có 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

những  biện  pháp  theo  dõi,  điều  trị  kịp  thời, 
nhằm ngăn chặn cuộc chuyển dạ sinh non hoặc 
Thiết kế nghiên cứu 
kéo dài tuổi thai nhằm giúp tăng khả năng sống 
Nghiên cứu cắt ngang, các đối tượng nghiên 
sót  và  giảm  những  biến  chứng  chu  sinh  ở  trẻ 
cứu được phỏng vấn và siêu âm để thu thập dữ 
sinh non. 
liệu tại một thời điểm. Thời điểm nghiên cứu từ 
Song  thai  là  một  trong  các  yếu  tố  nguy  cơ 
tháng  9  năm  2012  đến  tháng  4  năm  2013.  Địa 
gây sinh non(1,16,17). Song thai chiếm tỷ lệ khoảng 
điểm  nghiên  cứu  là  phòng  Khám  thai  và  khoa 
1%  tất  cả  các  cuộc  sinh  và  tỷ  lệ  này  ngày  càng 
Siêu âm của bệnh viện Từ Dũ. Đề tài nghiên cứu 
tăng lên do sự phát triển của các kỹ thuật hỗ trợ 
được  sự  phê  chuẩn  của  Hội  đồng  Khoa  học 
sinh  sản  trong  điều  trị  vô  sinh.  Sinh  non  là 
thuộc Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh 
nguồn  gốc  chính  của  bệnh  suất  và  tử  suất  chu 
và Hội đồng Khoa học thuộc bệnh viện Từ Dũ. 
sinh  trong  song  thai(3).  Khoảng  57%  song  thai 
Tất cả các thai phụ tham gia đều được giải thích 
được  sinh  trước  37  tuần  tuổi  thai,  bao  gồm 
mục tiêu, phương pháp nghiên cứu, sau đó thai 
chuyển  dạ  sinh  non  tự  phát  và  chỉ  định  chấm 
phụ ký bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu. 
dứt thai kỳ vì lý do y khoa(1,5). Theo hướng dẫn 
Đối tượng nghiên cứu 
thực  hành  lâm  sàng  của  Hội  Sản  Phụ  Khoa 

Các thai phụ mang song thai có tuổi thai từ 
Cananda năm 2011, phương pháp  đo  chiều  dài 
20  tuần  đến  24  tuần  6  ngày  đến  khám  tại 
kênh cổ tử cung bằng siêu âm có thể phát hiện 
phòng khám thai tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 
những  trường  hợp  song  thai  có  nguy  cơ  sinh 
10/2012  đến  tháng  4/2013.  Tuổi  thai  được  xác 
non cao(12). Ngày nay, khảo sát cổ tử cung bằng 
định  dựa  theo  kinh  chót  (đối  với  thai  phụ  có 
siêu  âm  đầu  dò  âm  đạo  là  phương  pháp 
chu kỳ 28 – 30 ngày đều) hoặc siêu âm 3 tháng 
thường  được  sử  dụng  để  theo  dõi  các  thai  kỳ 
đầu. Nếu chênh lệch giữa tuổi thai qua 2 cách 
song thai, bởi vì cổ từ cung ngắn đo được trên 
tính  ≥  7  ngày,  chúng  tôi  chọn  tuổi  thai  được 
siêu  âm  là  một  yếu  tố  nguy  cơ  quan  trọng 
(5,11,13)
tính theo siêu âm 3 tháng đầu. Những thai phụ 
.  Nhiều  tác  giả 
trong  tiên  lượng  sinh  non

88

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
không có siêu âm 3 tháng đầu và không nhớ rõ 
kinh  chót  đều  không  được  chọn  vào  nhóm 
nghiên cứu.Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: Song 

thai  có  chỉ  định  chấm  dứt  thai  kỳ  vì  lý  do  y 
khoa  (nhiễm  trùng  bào  thai,  dị  tật  nặng,  bất 
thường  di  truyền),  hội  chứng  truyền  máu 
trong  song  thai,  hội  chứng  truyền  máu  động 
mạch  đảo  ngược,  thai  phụ  có  triệu  chứng  của 
dọa  sinh  non  hoặc  chuyển  dạ  sinh  non  (đau 
bụng,  ra  nhớt  hồng  âm  đạo,  ra  nước  âm  đạo, 
cổ  tử  cung  ≥  2cm  và  có  hiện  tượng  xóa  (chẩn 
đoán  qua  khám  âm  đạo)),  ra  huyết  âm  đạo 
chưa  rõ  nguyên  nhân,  nhau  bám  thấp,  nhau 
tiền đạo, đa ối, khâu eo tử cung, u xơ tử cung, 
thai  phụ  có  bệnh  lý  nặng  không  thể  tiếp  tục 
duy  trì  thai  kỳ  (sản  giật,  tiền  sản  giật  nặng, 
bệnh  tim  phổi  mạn  tính  nặng,  bệnh  thận  giai 
đoạn  cuối,  xơ  gan  mất  bù,  bệnh  ác  tính  mới 
chẩn đoán hoặc đang điều trị). 

Quy trình nghiên cứu 
Các thai phụ hội đủ tiêu chuẩn chọn bệnh sẽ 
được phỏng vấn, khám lâm sàng, cận lâm sàng 
theo bảng câu hỏi soạn sẵn. Sau khi được phỏng 
vấn,  thai  phụ  được  khám  thai  theo  quy  trình 
khám thai ở bệnh viện Từ Dũ: Đo mạch, huyết 
áp, đánh giá mức độ phù (nếu có), cân nặng, đo 
bề  cao  tử  cung,  nghe  tim  thai,  thai  phụ  được 
được hướng dẫn cách lấy nước tiểu để làm tổng 
phân tích nước tiểu, đo điện tâm đồ. Sau đó, thai 
phụ  được  đưa  đến  phòng  siêu  âm  để  khảo  sát 
hình  thái  học  thai  nhi  và  siêu  âm  đo  chiều  dài 
kênh cổ tử cung. 

Kỹ thuật đo chiều dài CTC qua siêu âm ngả 
âm đạo như sau: Thai phụ được dặn dò đi tiểu 
ngay trước khi tiến hành siêu âm. Thai phụ nằm 
ngửa, hai gối gập, đùi gập vào bụng. Đầu dò âm 
đạo được bao bằng bao cao su và có một ít gel ở 
đầu.  Người  siêu  âm  báo  cho  thai  phụ  biết  bắt 
đầu siêu âm, và yêu cầu thai phụ thư giãn, hợp 
tác. Đầu dò âm đạo với tần số 5 MHz được nhẹ 
nhàng đưa vào âm đạo theo thành trước của âm 
đạo cho đến khi thấy hình ảnh cổ tử cung xuất 
hiện  trên  màn  ảnh  siêu  âm,  rút  nhẹ  đầu  dò  ra 
cho đến khi hình ảnh bị mờ đi, đẩy nhẹ đầu dò 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

trở lại vào âm đạo từ từ cho đến khi hình ảnh cổ 
tử cung hiện rõ, không ấn đầu dò lên cổ tử cung. 
Điều  chỉnh  đầu  dò  sao  cho  thấy  được  toàn  bộ 
hình ảnh cổ tử cung: lỗ trong, lỗ ngoài, kênh cổ 
tử cung trên cùng một mặt cắt. Điều chỉnh máy 
siêu âm cho hình ảnh rõ nét nhất và hình ảnh cổ 
tử cung chiếm toàn bộ màn hình. Tiếp theo là đo 
chiều dài kênh CTC. Tiến hành đo 3 lần, giá trị 
ngắn nhất sẽ được dùng để phân tích. Kỹ thuật 
siêu âm đo chiều dài kênh cổ tử cung bằng đầu 
dò  âm  đạo  được  thực  hiện  theo  “Hướng  dẫn 
đánh  giá  cổ  tử  cung”,  được  in  trong  sách  Siêu 
âm Sản phụ khoa ấn bản lần thứ 5 năm 2008(2).  

Đối với các trường hợp thai phụ mang song 
thai  có  chiều  dài  kênh  CTC  ngắn  (≤  25  mm)  sẽ 
được  điều  trị  dự  phòng  sinh  non  theo  phác  đồ 
của bệnh viện Từ Dũ. 

Công cụ thu thập số liệu 
Sổ  khám  thai  của  thai  phụ,  bảng  tính  tuổi 
thai, phiếu thu thập số liệu, máy siêu âm có đầu 
dò bụng và đầu dò âm đạo Medison X6. 

Phân tích dữ liệu 
Toàn  bộ  số  liệu  thu  thập  sẽ  được  quản  lý 
bằng  phần  mềm  EXCEL  2007  và  xử  lý  bằng 
phần mềm SPSS 11.5. Các biến số định tính được 
trình bày dưới dạng tần suất, tỷ lệ %. Các biến số 
định  lượng  được  trình  bày  dưới  dạng  giá  trị 
trung  bình  và  độ  lệch  chuẩn  nếu  là  phân  phối 
chuẩn, hoặc giá trị trung vị và các bách phân vị 
nếu không là phân phối chuẩn. Sau khi tính giá 
trị  trung  bình  và  tìm  đặc  điểm  phân  bố  của 
chiều dài kênh CTC, chúng tôi sẽ dùng các phép 
kiểm để khảo sát mối tương quan giữa chiều dài 
CTC với các yếu tố: tuổi, nơi ở, nghề nghiệp, chỉ 
số khối cơ thể, số lần sinh con, tiền căn sản khoa, 
loại song thai, đặc điểm có thai và tuổi thai lúc 
sinh.  Chúng  tôi  dùng  kiểm  định  Chi  bình 
phương  hoặc  phép  kiểm  Fisher  cho  các  biến 
định  tính.  Đối  với  các  biến  định  lượng,  nếu  sự 
phân  bố  các  giá  trị  chiều  dài  kênh  CTC  theo 
phân phối chuẩn, chúng tôi sử dụng phép kiểm 

Student‐T,  One  Way  ANOVA;  nếu  sự  phân  bố 
các giá trị chiều dài kênh CTC không theo phân 
phối chuẩn: sự tương quan giữa các biến số nếu 

89


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

có  sẽ  được  khảo  sát  bằng  phép  kiểm  phi  tham 
số. Giá trị p ≤ 0,05 được xem là có ý nghĩa thống 
kê. Chúng tôi cũng phân tích hồi quy logistic để 
khảo  sát  mối  liên  hệ  giữa  các  yếu  tố  tuổi  mẹ, 
chiều  cao,  chỉ  số  khối  cơ  thể,  nơi  ở,  số  lần  sinh 
con, đặc điểm có thai, loại song thai, tiền căn sản 
khoa với chiều dài kênh CTC ngắn hơn 25 mm. 

KẾT QUẢ 
Từ  tháng  10/2012  đến  tháng  4/2013,  có  188 
thai phụ song thai có tuổi thai từ 20 tuần đến 24 
tuần đến khám thai tại bệnh viện Từ Dũ. Có 27 
trường  hợp  không  thỏa  điều  kiện  chọn  mẫu:  1 
thai phụ chấm dứt thai kỳ vì tiền sản giật nặng, 
3 thai phụ chấm dứt thai kỳ vì dị tật nặng, 1 thai 
phụ  song  thai  có  một  nhiễm  sắc  thể  X,  11  thai 
phụ  song  thai  một  bánh  nhau  có  hội  chứng 
truyền máu song thai, 1 thai phụ song thai một 
bánh nhau với một thai không đầu không tim, 1 

thai  phụ  song  thai  có  khâu  eo  tử  cung,  2  thai 
phụ song thai có u xơ tử cung, 3 thai phụ song 
thai có một thai đã chết, 1 thai phụ song thai có 
triệu  chứng  ra  huyết  âm  đạo,  và  3  trường  hợp 
không  đồng  ý  tham  gia  nghiên  cứu.  Vì  vậy 
chúng  tôi  còn  161  trường  hợp  song  thai  từ  20 
đến 24 tuần thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. 
chieudai kenh ctc
50

40

Tần 30
suất
Frequency

20

10

Std. Dev = 6.13
Mean = 33.0
N = 161.00

0
8.0

12.0

16.0 20.0 24.0 28.0 32.0 36.0 40.0 44.0


10.0 14.0 18.0 22.0 26.0 30.0 34.0 38.0 42.0

chieudai kenh ctc
Chiều dài kênh CTC (mm
)

 

Biểu đồ 1: Sự phân bố chiều dài kênh cổ tử cung của 
161 thai phụ 
Các thai phụ trong nhóm nghiên cứu có độ 
tuổi  từ  18  đến  42  tuổi,  với  tuổi  trung  bình  là 
29,5±5,12 tuổi. Đa số thai phụ có độ tuổi ≤ 35 tuổi 
(85,7%). Chiều cao của thai phụ dao động từ 142 
cm đến 168 cm, với chiều cao trung bình là 155,6 

90

± 4,7 cm. Chỉ số khối cơ thể nằm trong khoảng 
từ  16,7  kg/m2  đến  26,3  kg/m2,  với  giá  trị  trung 
bình là 20,7 ± 1,79 kg/m2. Có 140 thai phụ có chỉ 
số khối cơ thể từ 18,5 kg/m2 đến 25 kg/m2, chiếm 
tỷ lệ cao nhất trong nhóm nghiên cứu 87,0%. Đa 
số  các  thai  phụ  sống  ở  ngoại  thành  (65,8%).  Số 
thai phụ thuộc nhóm lao động trí óc chiếm tỷ lệ 
cao nhất (40,4%). Đa số các thai phụ có trình độ 
học vấn cấp 2 và cấp 3 (63,4%). 
Có 88 thai  phụ  sinh  con  so  và  73  thai  phụ 
sinh  con  rạ,  chiếm  tỷ  lệ  lần  lượt  là  54,7%  và 

45,3%. Có 3 thai phụ có tiền căn sinh non < 37 
tuần, 19 thai phụ có tiền căn sảy thai < 12 tuần 
và không có trường hợp nào sảy thai từ 12 đến 
25 tuần. Đa số các thai phụ có thai tự nhiên với 
tỷ lệ 82,6%. Có 72 thai phụ song thai hai bánh 
nhau và 48 thai phụ song thai một bánh nhau, 
chiếm  tỷ  lệ  lần  lượt  là  44,7%  và  29,8%.  Có  41 
trường hợp song thai không xác định được số 
lượng bánh nhau. 
Sự phân bố chiều dài kênh CTC ở song thai 
từ 20 tuần đến 24 tuần không phải là phân phối 
chuẩn  (Kiểm  định  Kolmogorov  Smirnov:  Sig.  = 
0,000  <  0,05).Giá  trị  trung  vị  chiều  dài  CTC  = 
34,1mm (7,3 – 44,4). Chiều dài kênh CTC ở bách 
phân  vị  thứ  1;  2,5  và  5  là:  7,9  mm,  14,4  mm  và 
21,6  mm.  Giá  trị  trung  bình  chiều  dài  kênh 
CTC=33,0 ± 6,13 mm. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa  các  nhóm  tuổi,  chỉ  số  khối  cơ  thể,  nghề 
nghiệp, trình độ học vấn với trung bình chiều 
dài kênh CTC. Có sự khác biệt giữa trung bình 
chiều dài kênh CTC giữa nhóm thai phụ ở nội 
thành và nhóm thai phụ ở ngoại thành với p = 
0,02.  Không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống 
kê giữa số lần sinh, tiền căn sảy thai < 12 tuần, 
đặc  điểm  có  thai,  loại  song  thai  với  chiều  dài 
kênh CTC. 
Chúng tôi xây dựng biểu đồ phân tán để mô 
tả và tóm tắt các dữ liệu quan sát giữa biến phụ 
thuộc là chiều dài kênh CTC và biến độc lập là 

tuổi thai lúc đo. Có mối tương quan nghịch, mức 
độ vừa giữa chiều dài kênh CTC với tuổi thai lúc 
đo,  với  hệ  số  tương  quan  R  =  ‐0,362.  Chiều  dài 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
kênh  CTC  =  69,9571  –  1,6675x(TT)  với  hệ  số 
tương quan R2 = 0,131. 
Mối liên hệ giữa các yếu tố: nơi ở, số con, đặc 
điểm  có  thai  và  tiền  căn  sảy  thai  với  chiều  dài 
kênh CTC ≤ 25 mm không có ý nghĩa thống kê. 
Phân tích hồi quy logistic đơn biến khảo sát mối 
liên hệ giữa tuổi mẹ, chiều cao, chỉ số khối cơ thể 
và chiều dài kênh CTC ≤ 25 mm: Tuổi mẹ là yếu 
tố bảo vệ đối với chiều dài kênh CTC ≤ 25 mm, 
cứ tăng tuổi mẹ lên 1 tuổi thì khả năng chiều dài 
kênh CTC ≤ 25 mm sẽ giảm đi 0,8 lần. Phương 
trình  hồi  quy  logistic  đơn  biến:Log  (p/(1‐p))  = 
2,958  ‐  0,189  *  TUỔI.  Có  sự  liên  hệ  gần  như 
tuyến tính giữa chiều caocủa  thai  phụ  và  chiều 

Nghiên cứu Y học

dài  kênh  CTC  ≤  25  mm,  tuy  nhiên  mối  liên  hệ 
này không có ý nghĩa thống kê. Không có liên hệ 
tuyến  tính  giữa  chỉ  số  khối  cơ  thể  và  chiều  dài 
kênh CTC ≤ 25 mm. 
Chúng  tôi  tiến  hành  phân  tích  hồi  quy 

logistic đa biến giữa biến phụ thuộc là chiều dài 
kênh CTC ≤ 25mm với các biến độc lập là: tuổi 
mẹ, chiều cao, chỉ số khối cơ thể, nơi ở, số con, 
đặc điểm có thai, sảy thai. Kết quả phân tích hồi 
quy logistic đa biến cho thấy chỉ có yếu tố TUỔI 
là yếu tố độc lập có ý nghĩa tiên lượng chiều dài 
kênh CTC ≤ 25 mm ở thai phụ mang  song  thai 
với PR = 0,8 (KTC 95%: 0,685 – 0,965; p=0,018). 

Bảng 1: Kết quả phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố dịch tễ và đặc điểm sản khoa với chiều dài kênh 
CTC≤25mm 
n (%)
29(18 – 42)
156(142 – 168)
20,4 (16,7 – 26,3)
55 (34,2%)
106 (65,8%)

PR
0,8
0,4
0,9
2,2

KTC95%
0,725 – 0,945
0,000 – 35941,619
0,705 – 1,228
0,597 – 8,199


p
0,005
0,88
0,75
0,23

Con rạ
Con so

73(45,3%)
88(54,7%)

4,5

0,936 – 21,385

0,06

Đặc điểm có
thai**

Tự nhiên
Hỗ trợ sinh sản

133 (82,6%)
28 (17,4%)

1,8

0,543 – 6,294


0,32

Sảy thai
<12tuần**

Không


142 (88,2%)
19 (11,8%)

2,2

0,553 – 8,621

0,38

Nơi ở**

Yếu tố
Tuổi mẹ*(năm)
Chiều cao*(cm)
CSKCT*(kg/m2)
Nội thành
Ngoại thành
Số con**

(*): phân tích hồi quy logistic đơn biến, (**): phép kiểm Chi bình phương 


Bảng 2: Kết quả phân tích hồi quy logistic đa biến 
giữa các yếu tố dịch tễ và đặc điểm sản khoa với chiều 
dài kênh CTC ≤ 25 mm 

50

40

30

chieudai kenh ctc

20

10

0
19

20

Tuoi thai luc do

21

22

23

24


25

 
Biểu đồ 2: Biểu đồ phân tán chiều dài kênh CTC theo 
tuổi thai 

Sản Phụ Khoa

Yếu tố
Tuổi mẹ
Chiều cao
BMI
Nơi ở
Số con
Đặc điểm có thai
Sảy thai

PR
0,8
0,0
0,9
0,7
0,4
0,3
0,3

KTC 95%
0,69 – 0,97
0,00 – 10686,4

0,62 – 1,28
0,18 – 3,1
0,08 – 2,31
0,05 – 1,47
0,06 – 1,26

p
0,018
0,57
0,53
0,68
0,32
0,13
0,1

BÀN LUẬN 
Giá  trị  trung  bình  chiều  dài  kênh  CTC  của 
161  thai  phụ  mang  song  thai  trong  nghiên  cứu 
của  chúng  tôi  là  33,0  ±  6,13  mm.  Giá  trị  trung 

91


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

bình  chiều  dài  kênh  CTC  trong  các  nghiên  cứu 
của Katharina (2008), Sperling (2005) và Skentou 
(2001) lần lượt là 36 ± 7,8 mm, 38,3 ± 10 mm và 

35,5 ± 10,1 mm(9,14,15). Chúng tôi nhận thấy giá trị 
trung  bình  chiều  dài  kênh  CTC  của  nhóm 
nghiên cứu ngắn hơn giá trị trung bình chiều dài 
kênh  CTC  trong  nghiên  cứu  của  Katharina, 
Sperling  và  Skentou.  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi,  khi  khảo  sát  mối  liên  hệ  giữa  chiều 
dài kênh CTC và tuổi mẹ lúc mang thai, chúng 
tôi  tìm  được  phương  trình  hồi  quy  tuyến  tính 
Chiều  dài  kênh  CTC  (mm)  =  0,322  x  tuổi  mẹ  + 
23,522,  nghĩa  là  cứ  tăng  tuổi  mẹ  lên  1  tuổi  thì 
chiều dài kênh CTC sẽ tăng lên 0,322 mm. 
Mặt khác, trung bình tuổi mẹ khi mang thai 
trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi (29,5 tuổi) 
thấp hơn so với trung bình tuổi mẹ trong nghiên 
cứu  của  Sperling  (31,8  tuổi)  và  Katharina  (31,1 
tuổi); và số thai phụ mang song thai dưới 35 tuổi 
trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  chiếm  tỷ  lệ 
(85,7%) cao hơn so với tỷ lệ thai phụ mang song 
thai dưới 35 tuổi trong nghiên cứu của Skentou 
(55,8%).  Những  dữ  kiện  trên  có  lẽ  giải  thích 
được  vì  sao  trung  bình  chiều  dài  kênh  CTC 
trong nghiên cứu của chúng tôi ngắn hơn trong 
nghiên cứu của Skentou, Sperling và Katharina. 
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, đa số 
thai phụ sinh sống ở vùng ngoại thành (65,8%), 
kết  quả  phân  tích  cho  thấy  giá  trị  trung  bình 
chiều  dài  kênh  CTC  ở  nhóm  thai  phụ  sống  ở 
ngoại  thành  ngắn  hơn  giá  trị  trung  bình  chiều 
dài  kênh  CTC  ở  nhóm  thai  phụ  sống  ở  nội 
thành,  sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê 

(p=0,016  <  0,05).  Trong  106  thai  phụ  song  thai 
sống ở ngoại thành, có 32 thai phụ thuộc nhóm 
lao  động  trí  óc  (như  giáo  viên,  nhân  viên  văn 
phòng),  27  thai  phụ  thuộc  nhóm  nghề  nghiệp 
lao  động  chân  tay  (như  làm  ruộng,  công  nhân) 
và  47  thai  phụ  thuộc  nhóm  nghề  nghiệp  lao 
động  tự  do  (như  buôn  bán).  Trong  55  thai  phụ 
song thai sống ở nội thành, có 33 thai phụ thuộc 
nhóm  nghề  nghiệp  lao  động  trí  óc,  12  thai  phụ 
thuộc  nhóm  nghề  nghiệp  lao  động  chân  tay  và 
10 thai phụ lao động tự do. Như vậy, tỷ lệ thai 

92

phụ  lao  động  chân  tay  và  lao  động  tự  do  ở 
nhóm  ngoại  thành  là  69,8%  cao  hơn  tỷ  lệ  thai 
phụ  lao  động  chân  tay  và  lao  động  tự  do  ở 
nhóm nội thành là 40,0%. Những thai phụ song 
thai sống ở ngoại thành thường phải đi lại nhiều 
vì khoảng cách từ nhà đến nơi làm việc và đến 
nơi  khám  thai  (bệnh  viện  Từ  Dũ)  thường  xa. 
Mặc khác, đa số họ làm công nhân có cường độ 
làm  việc  nhiều,  liên  tục  hơn  so  với  các  nhóm 
nghề  nghiệp  còn  lại.  Thời  gian  đi  lại  và  cường 
độ  làm  việc  nhiều  tạo  áp  lực  nhiều  hơn  lên 
những  thai  phụ  song  thai  có  lẽ  làm  cho  cổ  tử 
cung của họ trở nên ngắn hơn so với nhóm thai 
phụ  ở  nội  thành.  Tuy  nhiên,  do  số  trường  hợp 
nghiên  cứu  còn  ít,  chúng  tôi  cần  nghiên  cứu 
thêm với cỡ mẫu lớn hơn. 

Trong nghiên cứu của Heath (1998) tại Anh, 
tác  giả  tiến  hành  đo  chiều  dài  kênh  CTC  bằng 
siêu  âm  đầu  dò  âm  đạo  ở  2702  thai  phụ  mang 
đơn  thai  từ  22  đến  24  tuần  tuổi,  kết  quả  cho 
thấy:  giá  trị  trung  bình  chiều  dài  kênh  CTC  ở 
nhóm 20 đến 35 tuổi ngắn hơn giá trị chiều dài 
kênh CTC ở nhóm trên 35 tuổi (38,7 mm < 39,1 
mm, p > 0,05); giá trị trung bình chiều dài kênh 
CTC  ở  nhóm  có  chỉ  số  Ponderal  Index  (được 
tính  bằng  cân  nặng  của  thai  phụ  (kg)  chia  cho 
chiều cao (m) lũy thừa ba) < 19,8 kg/m3 ngắn hơn 
giá trị trung bình chiều dài CTC ở nhóm có chỉ 
số Ponderal Index ≥ 19,8 kg/m3 (36,0 mm < 38,4 
mm, p < 0,05)(8). Một nghiên cứu khác của tác giả 
Erasmus  (2005)  tại  Nam  Phi  đã  khảo  sát  chiều 
dài  kênh  CTC  của  1920  thai  phụ  đơn  thai  ở  23 
tuần,  kết  quả  cho  thấy:  giá  trị  trung  bình  chiều 
dài kênh CTC ở nhóm 20 đến 35 tuổi gần bằng 
với  giá  trị  trung  bình  chiều  dài  kênh  CTC  ở 
nhóm  trên  35  tuổi  (35,5  ±  7,9  mm  và  35,5  ±  8,6 
mm,  95%CI  0(‐1,18  –  1,18));  giá  trị  trung  bình 
chiều dài kênh CTC ở nhóm có chỉ số khối cơ thể 
< 19,8 ngắn hơn giá trị trung bình chiều dài CTC 
ở nhóm có chỉ số khối cơ thể ≥ 19,8 (32,3 mm < 
33,1  mm,  95%CI  ‐0,55(‐1,31‐0,207))(4).  Trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  giá  trị  trung  bình 
chiều dài kênh CTC ở nhóm dưới 35 tuổi ngắn 
hơn  giá  trị  trung  bình  chiều  dài  kênh  CTC  ở 
nhóm trên 35 tuổi (32,8 mm < 34,1 mm, p > 0,05); 


Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
giá trị trung bình chiều dài kênh CTC ở nhóm có 
chỉ số khối cơ thể dưới 18,5 kg/m2 ngắn hơn giá 
trị  trung  bình  chiều  dài  CTC  ở  nhóm  có  chỉ  số 
khối cơ thể từ 18,5 kg/m2 đến 25 kg/m2 (32,1 mm 
< 33,1 mm, p > 0,05). Như vậy, mối liên hệ giữa 
giá  trị  trung  bình  chiều  dài  kênh  CTC  với  các 
yếu  tố  dịch  tễ  ở  dân  số  song  thai  có  lẽ  cũng 
tương tự như mối liên hệ giữa giá trị trung bình 
chiều  dài  kênh  CTC  và  các  yếu  tố  dịch  tễ  của 
dân  số  đơn  thai.  Trong  thời  gian  nghiên  cứu, 
chúng tôi không tìm được nghiên cứu song thai 
nào trong và ngoài nước khảo sát mối liên quan 
giữa  giá  trị  trung  bình  chiều  dài  kênh  CTC  với 
các yếu tố dịch tễ và đặc điểm sản khoa. Có lẽ vì 
các kết quả nghiên cứu đều tương tự như trên 
dân số đơn thai, hoặc là sự khác biệt giữa các 
giá trị đều không có ý nghĩa thống kê nên các 
tác  giả  đã  không  công  bố  kết  quả  nghiên  cứu 
của  mình  trên  các  trang  mạng  Pubmed, 
Medline… 
Trong biểu đồ phân tán chiều dài kênh CTC 
theo tuổi thai, chúng tôi nhận thấy có mối tương 
quan  nghịch,  mức  độ  vừa  giữa  chiều  dài  kênh 
CTC với tuổi thai lúc đo với hệ số tương quan R 
=  ‐0,362.  Chúng  tôi  viết  được  phương  trình  hồi 
quy  chiều  dài  kênh  CTC  theo  tuổi  thai  theo 

phương trình bậc 1 và bậc 2. Chúng tôi chưa xây 
dựng được mô hình hồi quy chiều dài kênh CTC 
theo tuổi thai hoàn chỉnh vì một số lý do sau: cỡ 
mẫu  nhỏ  (161  thai  phụ),  số  lớp  tuổi  thai  ít  (5 
lớp),  kết  quả  chiều  dài  kênh  CTC  không  theo 
phân  phối  chuẩn  và  mô  hình  chưa  loại  trừ  các 
thai  phụ  sinh  trước  37  tuần.Trong  tương  lai, 
chúng  tôi  hi  vọng  có  thể  thực  hiện  nghiên  cứu 
với cỡ mẫu song thai đủ lớn và đủ thời gian theo 
dõi  để  có  thể  xây  dựng  mô  hình  hồi  quy  hoàn 
chỉnh. 
Trong 161 thai phụ song thai có tuổi thai từ 
20  tuần  đến  24  tuần,  133  thai  phụ  có  thai  tự 
nhiên và 28  thai  phụ  được  hỗ  trợ  sinh  sản.  Kết 
quả phân tích hồi quy logistic giữa đặc điểm có 
thai với khả năng chiều dài kênh CTC ngắn hơn 
25  mm  cho  thấy,  nhóm  thai  phụ  được  hỗ  trợ 
sinh  sản  có  nguy  cơ  chiều  dài  kênh  CTC  ngắn 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

hơn 25 mm gấp 1,85 lần so với nhóm thai phụ có 
thai tự nhiên, mối liên hệ này không có ý nghĩa 
thống  kê  (KTC95%:  0,543  –  6,294,  p=0,32).  Tuy 
nhiên, khi phân tích hồi quy logistic đa biến giữa 
các yếu tố tuổi mẹ, chiều cao, chỉ số khối cơ thể, 
nơi  ở,  số  con,  đặc  điểm  có  thai  và  tiền  căn  sảy 
thai với nguy cơ chiều dài kênh CTC < 25 mm, 

chỉ có yếu tố tuổi mẹ là yếu tố độc lập có ý nghĩa 
tiên lượng chiều dài kênh CTC < 25 mm. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi tương tự như kết quả 
nghiên  cứu  của  Sperling  (2005)  thực  hiện  tại 
Thụy Điển. Khảo sát chiều dài kênh CTC ở 383 
thai phụ song thai vào thời điểm 23 tuần, không 
có  mối  liên  hệ  giữa  chiều  kênh  CTC  lần  lượt 
ngắn hơn 21 mm, 26 mm với đặc điểm có thai và 
loại  song  thai(15).  Như  vậy,  sự  thay  đổi  giá  trị 
chiều dài kênh CTC cũng như nguy cơ chiều dài 
CTC  ngắn  hơn  25  mm  có  lẽ  không  phụ  thuộc 
vào  đặc  điểm  có  thai.  Trong  nghiên  cứu  của 
Sperling  cũng  phân  tích  mối  liên  quan  giữa 
chiều  dài  kênh  CTC  với  loại  song  thai.  Trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  có  41  trường  hợp 
không xác định được loại song thai (đã phân tích 
ở trên), vì vậy chúng tôi không đưa yếu tố này 
vào phân tích hồi quy logistic đơn biến và phân 
tích hồi quy logistic đa biến giữa chiều dài kênh 
CTC ngắn hơn 25 mm với các yếu tố dịch tễ và 
sản khoa. 

KẾT LUẬN 
Đây  là  nghiên  cứu  đầu  tiên  đo  được  chiều 
dài trung bình cổ tử cung ở thai phụ mang song 
thai qua siêu âm ngả âm đạo là 33 ± 6,1 mm. Tuy 
nhiên vì thời gian nghiên cứu ngắn nên cỡ mẫu 
còn ít. Trong tương lai chúng tôi sẽ nghiên cứu 
tiếp chiều dài kênh cổ tử cung ở thai phụ song 
thai theo từng lớp tuổi thai.  


TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

Bergelin  I,  Valentin  L  (2003)  ʺCervical  changes  in  twin 
pregnancies observed by transvaginal ultrasound during the 
latter half of pregnancy: a longitudinal, observational studyʺ. 
Ultrasound in Obstetrics and Gynecology, 21 (6), 556‐563. 
Berghella  V,  Bega  G  (2008)  Ultrasound  assessment  of  the 
cervix.  IN  PW,  C.  (Ed.)  Ultrasonography  in  Obstetrics  and 
Gynecology. 5 ed. Sauders Elsevier, Philadelphia, 698‐720. 

93


Nghiên cứu Y học 
3.

4.

5.

6.

7.

8.


9.

10.

94

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Chauhan SP, Scardo JA, Hayes E, Abuhamad AZ, Berghella V 
(2010) ʺTwins: prevalence, problems, and preterm birthsʺ. Am 
J Obstet Gynecol., 203 (4), 305‐15. Epub 2010 Aug 21. 
Erasmus  I,  Nicolaou  E,  Gelderen  CJ,  Nicolaides  KH  (2005) 
ʺCervical  length  at  23  weeksʹ  gestation‐‐relation  to 
demographic characteristics and previous obstetric history in 
South African womenʺ. S Afr Med J., 95 (9), 691‐5. 
Gibson  JL,  MacaraLM,  Owen  P,  Young  D,  Macauley  J, 
Mackenzie  F  (2004)  ʺPrediction  of  preterm  delivery  in  twin 
pregnancy:  a  prospective,  observational  study  of  cervical 
length and fetal fibronectin testingʺ. Ultrasound in Obstetrics 
and Gynecology, 23 (6), 561‐566. 
Goldenberg  R,  Culhane  JF,  Iams  J,  Romero  R  (2007) 
ʺEpidemiology and causes of preterm birthʺ. Lancet, 371, 73‐
82. 
Goldenberg RL, Iams JD, Miodovnik M, Dorsten JPV, Gary T, 
Sidney B, Brian MM, Paul JM, Atef HM, Anita D, Steve NC, 
Donald M (1996) ʺThe preterm prediction study: Risk factors 
in  twin  gestationsʺ.  American  Journal  of  Obstetrics  and 
Gynecology, 175 (4, Part 1), 1047‐1053. 
Heath  VC,  Southall  TR,  Souka  AP,  Novakov  A,  Nicolaides 
KH (1998) ʺCervical length at 23 weeks of gestation: relation 

to  demographic  characteristics  and  previous  obstetric 
historyʺ. Ultrasound Obstet Gynecol., 12 (5), 304‐11. 
Klein K, Gregor H, Hirtenlehner‐Ferber K, Stammler‐Safar M, 
Witt A, Hanslik A, Husslein P, Krampl E. (2008) ʺPrediction of 
Spontaneous  Preterm  Delivery  in  Twin  Pregnancies  By 
Cervical  Length  at  Mid‐Gestationʺ.  Twin  Research  and 
Human Genetics, 11 (05), 552‐557. 
Lim  K,  Butt  K,  Crane  JM.  (2011)  ʺUltrasonographic  cervical 
length  assessment  in  predicting  preterm  birth  in  singleton 
pregnanciesʺ. Journal of obstetrics and gynaecology Canada: 
JOGC, 33 (5), 486‐99. 
 

11.

12.
13.

14.

15.

16.

17.

Mariza MF, Maria LB, Adolfo WL, Tatiana B, Luciana C, Jorge 
BN, Marcelo Z (2002) ʺReference range for cervical length in 
twin  pregnanciesʺ.  Acta  Obstetricia  et  Gynecologica 
Scandinavica, 81 (9), 856‐859. 

Morin  L,  Lim  K  (2011)  ʺUltrasound  in  twin  pregnanciesʺ.  J 
Obstet Gynaecol Can., 33 (6), 643‐56. 
Palma‐Dias RS, M. M. Fonseca, N. R. Stein, A. P. Schmidt, J. A. 
Magalhaes (2004) ʺRelation of cervical length at 22‐24 weeks 
of  gestation  to  demographic  characteristics  and  obstetric 
historyʺ. Braz J Med Biol Res., 37 (5), 737‐44. Epub 2004 Apr 
22. 
Skentou C, Souka AP, To MS, Liao AW, Nicolaides KH (2001) 
ʺPrediction  of  preterm  delivery  in  twins  by  cervical 
assessment at 23 weeksʺ. Ultrasound Obstet Gynecol., 17 (1), 
7‐10. 
Sperling L, Kiil C, Larsen LU, Qvist I, Bach D, Wojdemann K, 
Bladh A, Nikkila A, Jorgensen C, Skajaa  K,  Bang  J,  Tabor  A 
(2005)  ʺHow  to  identify  twins  at  low  risk  of  spontaneous 
preterm deliveryʺ. Ultrasound Obstet Gynecol., 26 (2), 138‐44. 
Stacy  B,  Daniel  W,  Lale  S,  Ana  PB,  Mario  M,  Jennifer  HR, 
Craig  R,  Ramkumar  M,  Paul  FA  VL  (2010)  ʺThe  worldwide 
incidence  of  preterm  birth:  a  systematic  review  of  maternal 
mortality  and  morbidityʺ.  Bulletin  of  the  World  Health 
Organization 88 (1), 1‐80. 
Stock  S,  Norman  J  (2010)  ʺPreterm  and  term  labour  in 
multiple pregnanciesʺ. Semin Fetal Neonatal Med, 15 (6), 336‐
341. 

 
Ngày nhận bài báo 

 

 


: 30/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo  

: 02/12/2013 

Ngày bài báo được đăng  

: 05/01/2014 

 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



×