Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phẫu thuật nẹp vít cuống sống trong điều trị lao cột sống ngực và thắt lưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.01 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

PHẪU THUẬT NẸP VÍT CUỐNG SỐNG TRONG ĐIỀU TRỊ  
LAO CỘT SỐNG NGỰC VÀ THẮT LƯNG 
Phan Quang Sơn*, Nguyễn Đình Tùng*, Nguyễn Tấn Hùng*, Phan Minh Đức*, Nguyễn Trọng Hiếu*, 
Trịnh Đình Lợi* 

TÓM TẮT  
Đặt vấn đề: Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật nẹp vít cuống cung trong điều trị lao cột sống ngực và thắt lưng. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu 21 trường hợp được chẩn đoán lao cột sống 
ngực và thắt lưng, được phẫu thuật lối trước bên  tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 6/2013 đến tháng 6/2014. Các 
đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học, chỉ định và phương pháp phẫu thuật, kết quả phẫu thuật được đánh giá trước 
và sau mổ. Phương pháp phẫu thuật: nạo sạch mô viêm, làm cứng khớp bằng nẹp vít cuống cung, có hoặc không 
kèm ghép liên thân sống. 
Kết quả: 21 bệnh nhân bao gồm 10 nam và 11 nữ, tuổi trung bình 43,2 tuổi. Thời gian theo dõi trung bình 
6.6 tháng. Chỉ định phẫu thuật gồm: áp xe ngoài màng tủy, hủy xương mất vững, gù tiến triển, dấu thần kinh 
khu trú mới. Hồi phục vận động ghi nhận trong 81,3% trường hợp. Góc gù được chỉnh từ 38,3⁰ ± 7,2⁰ xuống 
còn 8,5⁰ ± 7,4⁰. Không ghi nhận trường hợp nào tái phát hay gù tiến triển sau mổ. 
Kết luận: Phẫu thuật nẹp vít cuống cung là phẫu thuật hợp lý cho các trường hợp lao cột sống ngực và thắt 
lưng có chỉ định mổ. Phẫu thuật giúp điều chỉnh góc gù, tạo độ vững cho cột sống, giúp bệnh nhân vận động 
sớm. Sự hiện diện của nẹp vít trong ổ nhiễm không cản trở điều trị hay gây tái phát lao cột sống. 
Từ khóa: lao cột sống ngực và thắt lưng, biến dạng gù, phẫu thuật nẹp vít cuống cung . 

ABSTRACT
TREATMENT OF THORACIC AND LUMBAR TUBERCULOUS SPONDYLITIS  
WITH TRANSPEDICULAR SCREW FIXATION 
Phan Quang Son, Nguyen Dinh Tung, Nguyen Tan Hung, Phan Minh Duc, Nguyen Trong Hieu,  


Trinh Dinh Loi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 68 – 72 
Objectives:  To  assess  the  efficacy  of  transpedicular  fixation  as  an  alternative  treatment  for  thoracic  and 
lumbar spinal tuberculosis. 
Methods: Between 6/2013 and 6/2014, 21 patients with thoracic and lumbar tuberculous spondylitis were 
diagnosed  and  operated  in  Neurosurgical  department,  Cho  Ray  hospital.  The  patients’  symptoms,  images  and 
surgical  results  were  evaluated.  Surgical  technique:  posterior  débridement,  transpedicular  fixation,  with  or 
without interbody fusion.  
Results: 21 patients consisted of 11 females and 10 males. The average age was 43.2. The mean follow‐up 
time in this group  was 6.6 months. Indications for surgery included epidural abscess, structural destruction with 
instability, progressive kyphosis, and/or neurologic deterioration. Neurologic improvement was 81.3%. Kyphotic 
angle was reducted from 38.3⁰ ± 7.2⁰‐ 8.5⁰ ± 7.4⁰. No recurrence of infection or construct failure was recorded. 
Conclusion:  Transpedicular  fixation  is  effective  after  proper  radical  débridement,  deformity  correction  in 
cases of thoracic and lumbar spinal tuberculosis. The presence of screws in an area of mycobacterial infection did 
not preclude infection control or lead to recurrence. 
* Khoa Ngoại thần kinh – Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: ThS BS Phan Quang Sơn,   ĐT: 0913727145, 

68

Email:  

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Key words: thoracic and lumbar spinal tuberculosis, kyphotic, transpedicular fixation. 


ĐẶT VẤN ĐỀ 
Lao cột sống là một tình trạng viêm mãn tính 
do  trực  khuẩn  lao  Mycobacteria tuberculosis  (còn 
gọi là BK) gây ra. Viêm gây tổn thương thân đốt 
sống trong hầu hết các trường hợp. Lao cột sống 
là bệnh chữa lành được, nhất là trong giai đoạn 
hiện  nay  với  phương  tiện  điều  trị  gồm  thuốc 
kháng lao tốt và các phương pháp điều trị phẫu 
thuật  để  giải  quyết  các  vấn  đề  cơ  học,  chỉnh 
hình.  Tiên  lượng  phục  hồi  các  chức  năng  thần 
kinh  tùy  thuộc  vào  nhiều  yếu  tố:  mức  độ  tổn 
thương  thần  kinh  khi  nhập  viện,  các  phương 
tiện điều trị nội khoa và phẫu thuật. Phẫu thuật 
nạo mô viêm, giải ép ống sống, chỉnh gù và làm 
cứng  cột  sống  bằng  nẹp  vít  kết  hợp  với  thuốc 
kháng  lao  đúng  phác  đồ  giúp  giảm  đau,  cải 
thiện chức năng thần kinh và ngăn ngừa các biến 
dạng  tiến  triển(1,4).  Chúng  tôi  tiến  hành  nghiên 
cứu này nhằm đánh hiệu quả của phương pháp 
phẫu thuật nẹp vít cuống cung trong điều chỉnh 
biến  dạng  gù  cột  sống  và  khả  năng  hồi  phục 
chức  năng  thần  kinh  trong  bệnh  lý  lao  lao    cột 
sống ngực và thắt lưng. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Hồi  cứu  mô  tả  các  trường  hợp  được  chẩn 
đoán  và  phẫu  thuật  lao    cột  sống  ngực  và  thắt 
lưng bằng phương pháp nẹp vít cuống cung tại 
khoa Ngoại Thần Kinh ‐ Bệnh viện Chợ Rẫy từ 

tháng 6/2013 đến tháng 6/2014. 
Tiêu  chuẩn  chọn  bệnh:  Các  bệnh  nhân  lao 
cột sống với các dấu hiệu lâm sàng và hình ảnh 
học  điển  hình  của  lao  cột  sống  với  góc  gù  cột 
sống  >  300  hoặc  độ  di  lệch  thân  sống  >  2,5mm 
trên cột sống ngực và > 4,5mm (15% thân sống) 
trên cột sống lưng trên phim đứng dọc. 
Các khiếm khuyết thần kinh được ghi nhận 
ở  mỗi  lần  khám  và  tái  khám.  Sức  cơ  được  ghi 
nhận  ở  các  mức  độ  từ  0  đến  5  và  xếp  loại  theo 
thang điểm Fankel. Chẩn đoán dựa trên các dấu 
hiệu lâm sàng, hình ảnh học (X quang, CT scan, 
MRI  cột  sống).  Các  bệnh  nhân  cũng  được  làm 

Phẫu Thuật Cột Sống 

xét  nghiệm  công  thức  máu,  tốc  độ  máu  lắng, 
CRP, phản ứng lao tố, BK đàm, X quang ngực. 
Các  dấu  hiệu  được  ghi  nhận  bao  gồm: 
khuyết thân sống, áp xe cạnh sống, mất khoang 
đĩa đệm, mòn tấm tận cùng, phá hủy thân sống 
vùng  xương  sườn  kế  cận,  biến  dạng  cột  sống. 
Biến  dạng  gù  cột  sống  được  đo  bằng  góc  Cobb 
giữa 2 tấm tận cùng của đốt sống bị xẹp.  
Tất  cả  bệnh  nhân  đều  được  điều  trị  theo 
phác  đồ  kháng  lao  trong  2‐3  tuần  trước  phẫu 
thuật. Các yếu tố liên quan đến điều trị nội khoa 
và  phẫu  thuật  để  giải  thích  rõ  cho  bệnh  nhân. 
Phương  pháp  phẫu  thuật:  nạo  sạch  mô  viêm, 
giải  ép ống sống,   làm  cứng  khớp  bằng  nẹp  vít 

cuống cung, có hoặc không kèm ghép liên thân 
sống.  X  quang  cột  sống,  công  thức  máu,  tốc  độ 
máu  lắng  và  CRP  được  thực  hiện  tại  các  thời 
điểm  ngay  sau  mổ,  6  tuần  và  6  tháng.  Điều  trị 
được đánh giá đáp ứng khi bệnh nhân hết đau, 
độ cong cột sống ổn định, không bị lỏng vít tại 
các tư thế gập và ưỡn tại thời điểm tái khám, tốc 
độ  máu  lắng  và  CRP  về  mức  bình  thường, 
không  tái  phát  tổn  thương  lao  cột  sống  tại  thời 
điểm  6  tháng  sau  mổ.  Mức  độ  giảm  đau  khi 
không dùng thuốc giảm đau được đánh giá trên 
thang  điểm  VAS,  với  điểm  0  là  không  đau  và 
điểm 10 là đau rất nhiều. 
Các  số  liệu  được  thống  kê  bằng  phần  mềm 
SPSS 16.0. Góc Cobb và thang điểm VAS trước và 
sau mổ được so sánh bằng phép kiểm ANOVA. 
Phục hồi chức năng thần kinh được đánh giá với 
phép kiểm Chi bình phương. Giá trị p<0,05 được 
xem là khác biệt có ý nghĩa thống kê. 

KẾT QUẢ 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  gồm  21  bệnh 
nhân, trong đó gồm 11 bệnh nhân nữ (52,4%) và 
10 bệnh nhân nam (47,.6%), tuổi trung bình 43,2 
(17  đến  64  tuổi).  Tất  cả  các  bệnh  nhân  đều  có 
biểu hiện đau lưng kéo dài, với thời gian trung 
bình 8,2 tháng (dao động từ 0,7 đến 36 tháng). 3 
bệnh nhân đã được điều trị lao phổi trước đó, 4 
bệnh nhân có tiểu đường, 9 bệnh nhân có tiền sử 


69


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
hút thuốc lá. Các bệnh nhân lao cột sống có dấu 
hiệu thần kinh khu trú ở các mức độ khác nhau 
(bảng 1).  
Bảng 1: Các đặc điểm của bệnh nhân trong nghiên cứu 
Đặc điểm
Giới -Nam
-Nữ
Tuổi
Thời gian khởi phát đau
Đốt sống tổn thương
-Ngực
-Bản lề ngực – thắt lưng
-Thắt lưng
Kiểu tổn thương
-Áp xe chèn ép ống sống
-Mất vững cơ học
-Kết hợp
Góc Cobb -Trước mổ
-Sau mổ
Điểm VAS: -Trước mổ
-Sau mổ


Giá trị
10 (47,6%)
11 (52,4%)
43,2 (17 - 64 tuổi)
8,2 tháng (0,7 - 36 tháng)
8 (38,1%)
9 (42,9%)
4 (19%)
4 (19,1%)
7 (33,3%)
10 (47,6%)
38,3⁰ ± 7,2⁰
8,5⁰ ± 7,4⁰
6,9 ± 1,2
1,7 ± 0,6

Bảng 2: Thang điểm Frankel tại thời điểm trước mổ 
và tái khám 
Frankel
Trước mổ
Sau mổ
Giá trị λ2
Giá trị p

A
5
5

B
2

0

C
6
4
22,28
0,035

D
5
2

E
3
8

Trên hình ảnh học, vị trí tổn thương cột sống 
gồm  8  trường  hợp  tại  cột  sống  ngực  (38,1%),  9 
trường  hợp  tại  vùng  bản  lề  ngực  –  thắt  lưng 
(42,9%)  và  4  trường  hợp  tại  cột  sống  thắt  lưng 
(19%). 17 trường hợp (81%) có áp xe cạnh sống 
với  các  kích  thước  khác  nhau,  14  trường  hợp 
(71,4%) có áp xe ngoài màng cứng chèn ép ống 
sống.  Tổn  thương  1  thân  sống  gồm  14  trường 
hợp  (66,7%),  tổn  thương  2  thân  sống  gồm  7 
trường hợp (33,3%). Có 3 trường hợp tổn thương 
tại 2 vị trí cách xa nhau, tuy nhiên chúng tôi chỉ 
phẫu  thuật  tại  vị  trí  gây  chèn  ép  thần  kinh  và 
mất  vững.  Chỉ  định  mổ  gồm:  7  trường  hợp 
(33,3%) có biểu hiện mất vững cơ học, 4 trường 

hợp (19%) có áp xe ngoài màng tủy gây chèn ép 
tủy và 10 trường hợp (47,6%) vừa mất vững cơ 
học  vừa  có  áp  xe  ngoài  màng  tủy.  Biến  chứng 
sau mổ  ghi nhận trong 3  trường  hợp  (14,3%). 2 
trường  hợp  đau  thần  kinh  liên  sườn  sau  mổ, 
được  điều  trị  bằng  kháng  viêm  Non‐steroid  và 
có đáp ứng. 1 trường hợp nhiễm trùng nông vết 
mổ, được điều trị cắt lọc và kháng sinh. Về giải 
phẫu  thuật  bệnh  lý  và  vi  trùng  học,  chúng  tôi 
chẩn đoán xác định được 9 trường hợp (42,9%) 
sau mổ. 

 
Hình 1: Bệnh nhân nữ, 47 tuổi, chẩn đoán Lao cột sống D7D8, được phẫu thuật  cắt bản sống, nạo mô viêm, làm 
cứng bằng nẹp vít cuống cung và liên thân sống lối sau. A,B: Hình ảnh MRI lát cắt đứng dọc cho thấy thương 
tổn thân sống D7D8, áp xe cạnh sống và ngoài màng cứng gây chèn ép tủy. C,D: X quang tư thế thẳng, nghiêng 
sau mổ với nẹp vít cuống cung và lồng Titanium liên thân sống. (Nguồn: Khoa Ngoại thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy). 
trạng liệt mềm 2 chân kèm rối loạn cơ vòng, tại 
Sự  hồi  phục  vận  động  được  ghi  nhận  theo 
thời điểm tái khám chưa thấy thay đổi. 5 trường 
thang điểm Fankel tại thời điểm trước mổ và tái 
hợp này bao gồm 3 trường hợp tổn thương cột 
khám (bảng 2). 5 bệnh nhân vào viện trong tình 

70

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 


Nghiên cứu Y học

 
sống  ngực,  1  trường  hợp  tổn  thương  tại  vùng 
bản lề và 1 trường hợp tổn thương tại cột sống 
thắt lưng. Không trường hợp nào xuất hiện dấu 
thần kinh tiến triển mới. Trong 16 bệnh nhân còn 
lại,  sức  cơ  2  chân  hồi  phục  trong  81,3%  bệnh 
nhân.  Thang  điểm  VAS  cải  thiện  từ  6,9  ±  1,2 
điểm trước điều trị xuống 1,7 ± 0,6 điểm tại thời 
điểm tái khám.  
Trên hình ảnh học, vị trí nẹp vít đúng vị trí 
trong  tất  cả  các  trường  hợp,  có  biểu  hiện  hàn 
xương  trong  12  trường  hợp  (57,1%).  Góc  Cobb 
trung bình trước mổ là 38,3⁰ ± 7,2⁰ và sau mổ là 
8,5⁰ ± 7,4⁰. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05). Sau thời gian theo dõi, không có trường 
hợp nào bị tăng góc Cobb. 

BÀN LUẬN 
Lao cột sống là dạng thường gặp nhất trong 
lao  xương  khớp  tại  các  nước  đang  phát  triển, 
chiếm  1‐3%  trường  hợp  bệnh  lao.  Vai  trò  của 
phẫu  thuật  trong  điều  trị  lao  cột  sống  vẫn  còn 
bàn cãi. Xuất độ bệnh lao cao hơn ở nhóm bệnh 
nhân  suy  giảm  miễn  dịch,  và  đã  có  nhiều  báo 
cáo về lâm sàng và kết quả điều trị lao cột sống 
trên các bệnh nhân bị nhiễm HIV(3,1). Tuy nhiên 
trong  lô  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  không  có 

trường hợp nào nhiễm HIV. 
Lao  cột  sống  là  một  dạng  nguy  hiểm  nhất 
của  lao  xương  khớp  do  phá  hủy  cấu  trúc  thân 
sống,  biến  dạng  và  gây  tàn  phế.  Thương  tổn 
thường gặp ở vùng bản lề cột sống ngực‐lưng và 
giảm  dần  về  phía  trên  và  phía  dưới.  Vùng  cột 
sống  thắt  lưng‐cùng  có  những  đặc  điểm  phù 
hợp  cho  điều  trị  nội  khoa:  ống  sống  rộng,  các 
dây  thần  kinh  tương  đối  tự  do,  dễ  tương  thích 
với  các  chèn  ép  do  ổ  áp  xe  hay  mô  hạt  viêm. 
Bệnh  thường  khởi  phát  thầm  lặng  và  tiến  triển 
chậm,  bệnh  nhân  thường  đến  khám  trong  vài 
tuần hoặc vài tháng sau những triệu chứng đầu 
tiên(3,1,2).  Thời  gian  trung  bình  từ  lúc  nhập  viện 
đến lúc khởi phát trong nghiên cứu là 8,2 tháng 
(0,7 ‐ 36 tháng).  
Phẫu  thuật  lao  cột  sống  trong  giai  đoạn 
bệnh  còn  diễn  tiến  cho thấy  an  toàn  hơn,  đáp 

Phẫu Thuật Cột Sống 

ứng  nhanh  hơn  và  tốt  hơn  so  với  phẫu  thuật 
khi  bệnh  đã  lành.  Khả  năng  phục  hồi  chức 
năng thần kinh có tương quan với phẫu thuật 
giải ép và làm cứng cột sống. Tuy nhiên, mảnh 
ghép (liên thân sống, nẹp vít) có thể di trú vào 
thân  sống,  gây  biến  dạng  cột  sống,  đặc  biệt  ở 
các  bệnh  nhân  có  thương  tổn  từ  2  thân  sống 
trở lên và mảnh ghép liên thân sống vượt quá 
2  khoảng  đĩa  đệm.  Trong  các  nghiên  cứu  gần 

đây tại Hoa Kỳ, các tác giả khuyến cáo điều trị 
thuốc  kèm  phẫu  thuật  làm  cứng  cột  sống  đối 
với  các  trường  hợp  lao  cột  sống  có  biểu  hiện 
thần kinh khu trú do chèn ép tủy. Có thể tiến 
hành chọc hút ổ áp xe qua da đối với các áp xe 
lạnh  có  kích  thước  lớn  để  giúp  giảm  triệu 
chứng đau tại chỗ và hạn chế sự lan rộng ổ áp 
xe  dọc  theo  khoang  cạnh  sống.  Có  thể  sinh 
thiết  sang  thương  bằng  kim  nhỏ  hoặc  phẫu 
thuật mở để hỗ trợ chẩn đoán xác định. Các kỹ 
thuật  chẩn  đoán  hình  ảnh  hiện  đại  (CT  Scan, 
MRI)  đã  làm  thay  đổi  tiên  lượng  của  bệnh 
nhân lao cột sống do giúp chẩn đoán bệnh lí ở 
giai  đoạn  sớm.  Những  năm  gần  đây,  MRI 
được  xem  là  phương  tiện  chính  trong  chẩn 
đoán các bệnh lí cột sống. Áp xe cạnh sống là 
đặc  điểm  thường  gặp  của  lao  cột  sống  chiếm 
khoảng  50%  các  trường  hợp.  MRI  có  thể  giúp 
chẩn  đoán  phân  biệt  lao  cột  sống  với  các 
trường  hợp  u  tân  sinh,  tuy  nhiên  các  u  hạt 
viêm ngoài màng cứng do lao mà không có tổn 
thương  xương  sẽ  khó  phân  biệt  với  các  tổn 
thương di căn ngoài màng cứng(1,2). 
Theo y văn, dấu thần kinh khu trú trong lao 
cột sống thay đổi từ 10 đến 61%, tỉ lệ liệt 2 chân 
thường  gặp  hơn  trong  viêm  thân  sống  vùng 
ngực và cổ(2). Các dấu hiệu thần kinh có thể cải 
thiện  dần  sau  khi  điều  trị  nội  khoa  và  phẫu 
thuật.  Các  kỹ  thuật  chẩn  đoán  có  giá  trị  nhất 
gồm cấy mô viêm, xét nghiệm huyết thanh, PCR 

lao.  Tuy  nhiên,  trong  nghiên  cứu  chúng  tôi  chỉ 
ghi  nhận  chẩn  đoán  xác  định  9  trường  hợp 
(42,9%) bằng kết quả giải phẫu bệnh lý sau mổ. 
Các ổ áp xe cột sống không nhất thiết phải dẫn 
lưu toàn bộ vì thường đáp ứng với điều trị nội 

71


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
khoa, chỉ chỉ định dẫn lưu khi bệnh nhân có kích 
thước ổ áp xe quá lớn hoặc vị trí ổ áp xe chèn ép 
gây triệu chứng. 
Biến  dạng  và  gù  là  đặc  điểm  quan  trọng 
trong  lao  cột  sống.  Sự  tiến  triển  của  biến  dạng 
cột sống xảy ra trong 2 giai đoạn riêng biệt: giai 
đoạn  1  gồm  các  thay  đổi  trong  lúc  bệnh  diễn 
tiến; giai đoạn 2 gồm các thay đổi lúc lành bệnh. 
Sự  tiến  triển  của  các  biến  dạng  cột  sống  bị  ảnh 
hưởng bởi mức độ gù cột sống trước khi điều trị, 
vị trí thương tổn và tuổi của bệnh nhân. Các bệnh 
nhân  có  góc  gù  <  300  trong  giai  đoạn  bệnh  tiến 
triển không cần thiết phải phẫu thuật. Ở các bệnh 
nhân  được  điều  trị  bảo  tồn,  góc  gù  trung  bình 
tăng  khoảng  150  và  trong  khoảng  3‐5%  số  bệnh 
nhân này có thế tiến triển đến góc gù > 600(1). 

Mức  độ  hàn  xương  đóng  vai  trò  quan 
trọng trong sự hồi phục hoàn toàn của bệnh lí 
lao  cột  sống.  Dobson  báo  cáo  tỉ  lệ  hàn  xương 
trên các bệnh nhân được điều trị nội khoa đơn 
thuần  là  27%(1).  Một  số  báo  cáo  cho  thấy  tỉ  lệ 
hàn  xương  trên  các  bệnh  nhân  không  phẫu 
thuật  là  65  –  79%(2).  Zili  L.  Báo  cáo  tỉ  lệ  hàn 
xương  đạt  100%  trong  1  nghiên  cứu  gồm  37 
bệnh  nhân  lao  cột  sống  ngực  lưng  được  điều 
trị  phẫu  thuật  nẹp  vít  cuống  cung  và  hàn 
xương liên thân sống(4). Trong nghiên cứu của 
chúng  tôi,  tỉ  lệ  hàn  xương  đạt  57,1%  với  thời 
gian trung bình 4,6 ± 0,9 tháng. 
Trong nghiên cứu, các bệnh nhân được điều 
trị  nội  khoa  bằng  thuốc  kháng  lao  trước  khi 
phẫu  thuật,  sau  phẫu  thuật  tiếp  tục  điều  trị 
thuốc  đủ  phác  đồ  và  tái  khám  theo  hẹn.  Theo 
kinh nghiệm của chúng tôi, chỉ định phẫu thuật 
lao  cột  sống  cần  được  xem  xét  trên  các  bệnh 
nhân  có:  1)  có  dấu  thần  kinh  khu  trú  và  mất 
vững cột sống cơ học hoặc biến dạng cột sống; 2) 
kém đáp ứng với điều trị nội khoa; 3) dấu thần 
kinh khu trú tiến triển trong quá trình điều trị; 4) 

tăng kích thước tổn thương trên MRI; 5) không 
dung nạp thuốc kháng lao. 
Kỹ thuật nẹp vít cuống cung vẫn có một số 
hạn chế trong điều trị lao cột sống. Tiếp cận lối 
sau  có thể  làm  lan  rộng  tổn  thương  lao  từ  phía 
trước đến phần mô bình thường. Thêm nữa, để 

nạo sạch mô viêm và giải ép ống sống, cần phải 
mở rộng phần cột sau nguyên vẹn của cột sống, 
ảnh  hưởng  đến  độ  vững  cột  sống.  Nghiên  cứu 
cần thời gian theo dõi lâu hơn để đánh giá chính 
xác hơn khả năng liền xương và lành bệnh. 

KẾT LUẬN 
Điều trị  lao cột sống  cần  được  xem  xét  trên 
từng bệnh nhân riêng biệt, điều trị thuốc kháng 
lao  đúng  phác  đồ  là  quan  trọng  nhất  và  phải 
được  bắt  đầu  ngay  từ  giai  đoạn  đầu  của  bệnh. 
Phẫu  thuật  cần  được  chỉ  định  cho  các  trường 
hợp  có  biến  dạng  cột  sống  nặng  gây  chèn  ép 
thần  kinh.  Phẫu  thuật  nẹp  vít  cuống  cung  giúp 
điều  chỉnh  góc  gù,  tạo  độ  vững  cho  cột  sống, 
giúp bệnh nhân vận động sớm. Sự hiện diện của 
nẹp vít trong ổ nhiễm không cản trở điều trị hay 
gây tái phát lao cột sống. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Kotil  K,  Alan  MS,  Bilge  T.  (2007).  Medical  management  of 
Pott  disease  in  the  thoracic  and  lumbar  spine:  a  prospective 
clinical study. J Neurosurg Spine 6, pp. 222–228. 

2.

Khoo  LT,  Mikawa  K,  Fessler  RG.  (2003).  A  surgical 
revisitation of Pott distemper of the spine. The Spine Journal 

3, pp. 130–145. 

3.

Lê  Đoàn  Khắc  Di  (2008).  Điều  trị  lao  cột  sống  ngực  và  thắt 
lưng bằng phẫu thuật lối sau. Luận án chuyên khoa II Ngoại 
thần kinh, Đại học Y Dược TPHCM. 

4.

Zili  L.  (2014).  One‐stage  Posterior  Debridement  and 
Transpedicular  Screw  Fixation  for  Treating  Monosegmental 
Thoracic  and  Lumbar  Spinal  Tuberculosis  in  Adults.  The 
Scientific World Journal, Volume 2014, pp. 1‐6. 

Ngày nhận bài báo:  

 

 

20/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 

2/11/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

05/12/2014 


 

 

72

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 



×