Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Khảo sát kích thước của tuyến thượng thận bình thường ở người trưởng thành trên x‐quang cắt lớp điện toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.91 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT KÍCH THƯỚC CỦA TUYẾN THƯỢNG THẬN BÌNH THƯỜNG 
Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRÊN X‐QUANG CẮT LỚP ĐIỆN TOÁN 
Hồ Quốc Cường*, Trần Lê Linh Phương**, Lâm Thanh Ngọc*, Trần Minh Hoàng* 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Tuyến thượng thận (TTT) là một trong những tuyến nội tiết quan trọng trong cơ thể. Các bệnh lý 
TTT cũng vô cùng đa dạng. Việc xác định kích thước của TTT thông qua X‐quang cắt lớp điện toán là phương 
pháp không xâm lấn và hữu ích giúp cho các nhà lâm sàng đưa ra các chẩn đoán xác định chính xác nhằm hướng 
đến một liệu pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân. 
Mục tiêu: Khảo sát hình dạng, kích thước trung bình: thân, chi trong và chi ngoài của tuyến thượng thận ở 
người trưởng thành; So sánh sự khác biệt về chiều rộng của chi trong, chi ngoài và của thân tuyến thượng thận 
ở người trưởng thành theo giới, theo tuổi và theo BMI. 
Đối tượng – Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả, thực hiện trên 424 người Việt Nam >/= 18 tuổi, 
được chụp CLĐT bụng có cản quang từ tháng 7/2012 đến tháng 1/2013, tại khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện 
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 
Kết  quả: Kích  thước  trung  bình  của  thân,  chi  ngoài  và  chi  trong  của  TTT  (P)  lần  lượt  là  4,7mm  (S.D. 
0,83),  2,76mm  (S.D.  0,49),  3,03mm  (S.D.  0,50);  của  TTT  (T)  là  5,12mm  (S.D.  1,0),  3,16mm  (S.D.  0,65), 
3,67mm (S.D. 0,75). TTT có hình Y ngược chiếm đa số, 89,9% bên (P) và 92,7% bên (T). Độ dày trung bình của 
thân TTT (P) 4,7mm (S.D. 0,83), TTT (T) 5,12 (S.D. 1,0). Chi ngoài của cả TTT (P) và (T) đều có kích thước 
nhỏ hơn chi trong (p <0,01). Các giá trị trung bình đo được của TTT (T) đều lớn hơn TTT (P) có ý nghĩa (p < 
0,01). TTT (P) có 3 dạng chính: đường thẳng, V ngược và Y ngược trong đó những trường hợp V ngược có kích 
thước thân lớn hơn những trường hợp Y ngược (p = 0,02).  
Kết luận: TTT có hình dạng đa dạng. TTT (P) thường gặp các dạng: Y ngược, V ngược, đường thẳng và 
tam giác; TTT (T) có thêm dạng Lamda. Trong đó dạng Y ngược thường gặp trên cả hai TTT, 89,9% bên (P) và 
92,7% bên (T). Tuổi, giới, BMI không ảnh hưởng đến độ dày của thân và các chi của TTT. 
Từ  khóa: tuyến thượng thận, X quang cắt lớp điện toán, kích thước bình thường, dạng Y, dạng V, dạng 
tam giác, dạng lamda  



ABSTRACT  
TO SURVEY THE NORMAL SIZES OF THE ADRENAL GLANDS IN ADULTS ON COMPUTED 
TOMOGRAPHY 
Ho Quoc Cuong, Tran Le Linh Phuong, Lam Thanh Ngoc, Tran Minh Hoang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 243 ‐ 250 
Background: Adrenal glands (AG) are one of important endocrine glands. The diseases of AG are varied. 
Determining the size of AG via computed tomography (CT) is considered as useful and non‐invaded methods 
that can support the clinical physicians to give the best diagnosis and treatment.  
Objectives and Methods: This survey studied forms, average sizes of the  AG  body,  and  the  medial  and 
lateral limbs in adults. It also compared the differences in the widths of the two AG body, medial and lateral limbs 
* Bộ Môn Chẩn Đoán Hình Ảnh, Đại học Y Dược TP.HCM  
** Bộ môn ngoại niệu Đại Học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS. Hồ Quốc Cường  ĐT: 0938035396 Email:  

Chẩn Đoán Hình Ảnh 

243


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

in adults who possessed the differences in gender, age and BMI. This is a cross study was carried out on 424 
Vietnamese who had been at least 18 years old and were performed contrast enhancement CT in abdomen from 
July of 2012 to January of 2013 at Radiology department of the University Medical Center.  
Results: The average sizes of the right AG body, medial and lateral limbs were 4.7mm (S.D. 0.83), 2.76mm 
(S.D. 0.49), and 3.03mm (S.D. 0.50); of the left one were 5.12mm (S.D. 1.0), 3.16mm (S.D. 0.65), 3.67mm (S.D. 
0.75). The Y – reverse shape occupied the majority, 89.9% (right AG) and 92.7% (left AG). The average thick of 

AG bodies were 4.7mm (S.D. 0.83) in right and 5.12 (S.D. 1.0) in left. The sizes of lateral limbs of both right and 
left AG were smaller than this of medial ones (p <0.01). The average results in the left AG were larger than the 
right significantly (p < 0.01). The right AG included three main shapes: line, V – reverse, Y – reverse; and the V – 
reverse were larger meaningfully than Y – reverse in body size (p = 0.02).  
Conclusion: AG had varied forms. The right AG shapes were usually line, V – reverse, Y – reverse and 
triangle;  the  lefts  had  additionally  Lamda.  Y  –  reverse  had  the  most  frequency.  Genders,  age,  BMI  had  not 
influenced the thick of body, medial and lateral limbs. 
Key  words:  adrenal  gland,  computed  tomography,  normal  size,  V  shape,  Y  shapes,  triangle,  lamda.
người Việt Nam trưởng thành. 
MỞ ĐẦU 
Tuyến  thượng  thận  (TTT)  là  một  trong 
những  tuyến  nội  tiết  quan  trọng  trong  cơ  thể. 
Lớp vỏ TTT tiết ra các nội tiết tố: Glucocorticoid, 
Aldosterone  và  Androgen,  chịu  trách  nhiệm 
điều khiển một số hoạt động nội tiết quan trọng 
của  cơ  thể.  Đồng  thời  TTT  có  thể  gây  một  số 
phản ứng giao cảm(9). Các bệnh lý liên quan đến 
TTT cũng vô cùng đa dạng để chẩn đoán chính 
xác các bệnh lý này cần có  sự  kết  hợp  chặt  chẽ 
giữa lâm sàng, các xét nghiệm cận lâm sàng và 
hình ảnh học về TTT.  
Việc xác định hình ảnh, kích thước TTT trên 
siêu âm thường không đạt kết quả như  ý(1,2,3,7,8). 
Cắt lớp điện toán (CLĐT) tỏ ra có hiệu quả hơn 
trong  việc  khảo  sát  hình  ảnh  học  của  TTT(5,10,11) 
và  tương  đương  với  kích  thước  được  đo  trên 
mẫu  mô  phẫu  thuật  lẫn  trên  phẫu  tích  tử 
thi(6,12,14). 
Nghiên  cứu  này  được  thực  hiện  nhằm  xác 
định  “kích  thước  của  TTT  bình  thường  ở  người 

trưởng thành trên X quang cắt lớp điện toán là 
bao  nhiêu?”  để  từ  đó  có  thể  hỗ  trợ  các  bác  sĩ 
chẩn đoán hình ảnh trong việc phát hiện những 
bất  thường  của  TTT  nhằm  góp  phần  giúp  các 
nhà lâm sàng đưa  ra  những  kết  luận  chính  xác 
về  bệnh  lý  và  có  hướng  điều  trị  kịp  thời  cho 
bệnh nhân. Đồng thời các kết quả này góp phần 
vào  những  dữ  liệu  về  hằng  số  sinh  học  của 

244

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang, mô tả. 

Địa điểm và thời gian nghiên cứu 
Địa  điểm:  Khoa  chẩn  đoán  hình  ảnh  Bệnh 
viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. 
Thời  gian:  Trong  06  tháng,  từ  tháng  7/2012 
đến tháng 1/2013. 

Đối tượng nghiên cứu 
Dân  số  mục  tiêu:  Người  Việt  Nam  trưởng 
thành. 
Dân  số  chọn  mẫu:  Người  Việt  Nam  >/=  18 
tuổi,  được  chụp  CLĐT  bụng  có  cản  quang  từ 
tháng  7/2012  đến  tháng  1/2013,  tại  khoa  Chẩn 
đoán hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Dược Thành 
phố Hồ Chí Minh. 


Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Người Việt Nam trưởng thành không kể giới 
tính, đến từ phòng khám ngoại chẩn hoặc được 
điều  trị  tại  các  khoa  trại  nội  viện,  được  chụp 
CLĐT bụng có cản quang tại Bệnh viện Đại học 
Y  Dược  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  từ  tháng 
7/2012 đến tháng 1/2013. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân có bệnh lý ác tính đã được chẩn 
đoán. 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Bệnh nhân có rối loạn nội tiết. 
Một  số  tình  trạng  như:  Suy  thận,  Nhiễm 
trùng  huyết,  Sau  phẫu  thuật,  đang  điều  trị 
Steroid, Trên hình ảnh CLĐT: có u tuyến thượng 
thận hoặc các u ác tính khác. 

Thu thập số liệu 
Phương pháp thu thập số liệu 
Phương tiện kỹ thuật: 
Máy  MSCT  64  (Light  speed  VCT,  GE 
healthcare, Mỹ). 
Máy chủ có phần mềm xử lí (Workstation). 

Các bước tiến hành: 
Chuẩn  bị  bệnh  nhân:  bệnh  nhân  nhịn  ăn  ít 

nhất  06  giờ  trước  khi  chụp  CLĐT  bụng  có  cản 
quang  và  không  dùng  chất  cản  quang  đường 
tiêu hóa trước đó ít nhất 03 ngày. Cần hỏi bác sĩ 
và bệnh nhân tiền căn dị ứng thuốc hay các chế 
phẩm có chứa Iode, dị ứng tthức ăn,… Cần giải 
thích  cho  bệnh  nhân  thật  kỹ  trước  khi  chụp  để 
có sự hợp tác tốt. 
Tư  thế  chụp:  bệnh  nhân  nằm  ngửa,  hai  tay 
đặt  hướng  về  phía  đầu.  Hướng  dẫn  cho  bệnh 
nhân nín thở trong thời gian thực hiện các lát cắt 
để tránh xảo ảnh do cử động. 
Khảo  sát  phim  chụp  CLĐT  bụng  có  cản 
quang  với  các  thông  số  tham  khảo  trên  máy 
CLĐT  64  lát  cắt  (Light  speed  VCT,  GE 
healthcare)  ở  Bệnh  viện  Đại  học  Y  Dược,  sử 
dụng chụp xoắn ốc: 
Liều thuốc tương phản 1,5 – 2 ml/kg, tốc độ 
bơm 1,5 – 2 ml/giây. 
Khảo  sát  từ  vòm  hoành  đến  hết  cực  dưới 
thận. 
Tiến hành chụp: Khảo sát thì động mạch sau 
tiêm thuốc 30 giây, thì tĩnh mạch sau tiêm thuốc 
70 giây, bề dày lát cắt 5mm, cường độ dòng điện 
80  –  120  mAs,  hiệu  điện  thế  120  kV,  thời  gian 
xoay  đầu  đèn  (Rotation  time)  0,8  ms,  trường 
khảo  sát  (FOV)  tùy  vào  thể  tạng  bệnh  nhân 
nhưng  cần  đủ  rộng  để  lấy  hết  toàn  bộ  ổ  bụng 
phần có tuyến thượng thận, không quá rộng để 
đảm  bảo  độ  phân  giải  không  gian  (thường 


Chẩn Đoán Hình Ảnh 

Nghiên cứu Y học

khoảng  50cm),  bước  bàn  0,984:  1.  Độ  rộng  và 
trung tâm cửa sổ khoảng 300 – 65 HU. 
Thực  hiện  tái  tạo  lát  cắt  mỏng  1  mm  ở  thì 
động mạch và tĩnh mạch.  
Khảo  sát  dữ  liệu  những  bệnh  nhân  được 
chụp  CLĐT  bụng  có  cản  quang  với  3  thì  (thì 
chưa tiêm thuốc, thì động mạch, thì tĩnh mạch) 
thỏa các tiêu chuẩn chọn bệnh. 
Các  thông  số  về  kích  thước  TTT  được  đo 
trên  máy  Workstation,  dùng  các  hình  axial  tái 
tạo với độ dày lát cắt 1mm, do một người thực 
hiện có kiểm tra ngẫu nhiên bởi người đo thứ 2 
(khoảng 10% mẫu nghiên cứu). 

Các biến số khảo sát: 
Tuổi:  biến  định  lượng,  liên  tục.  Tuổi  được 
tính bằng thời điểm khảo sát trừ năm sinh (đơn 
vị  tính  là  năm).  Tuổi  được  phân  thành  5  nhóm 
tuổi: 18 – 29, 30 – 44, 45 – 59, 60 – 74, >75. 
Giới  tính:  biến  danh  định,  có  2  giá  trị  nam 
và nữ. 
Cân  nặng:  biến  định  lượng,  đơn  vị  tính 
kilogram (kg). 
Chiều  cao:  biến  định  lượng,  đơn  vị  tính 
centimet (cm). 
BMI: (Body Mass Index = Chỉ số khối cơ thể) 

là  một  chỉ  số  đơn  giản  được  dùng  phổ  biến  để 
phân  nhóm  người  suy  dinh  dưỡng,  bình 
thường,  thừa  cân  hay  béo  phì  ở  người  trưởng 
thành. Chỉ số này được xác định bằng công thức 
cân  nặng  chia  cho  bình  phương  chiều  cao 
(kg/m2). Ví dụ, một người trưởng thành nặng 70 
kg và cao 1,75m sẽ có BMI là 22,9 kg/m2. 
Hình dạng tuyến thượng thận: đường thẳng, 
chữ Y ngược, chữ V ngược, Lamda, tam giác. 
Kích thước tuyến thượng thận. 
Đối với TTT dạng đường thẳng. 
Khảo sát chiều rộng của thân tuyến thượng 
thận. 
Chiều  rộng  thân  tuyến  thượng  thận:  Chiều 
rộng lớn nhất vuông góc với trục dọc của tuyến 
thượng thận. 
Đối với TTT dạng chữ Y ngược, V ngược và 

245


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

lamda 
Khảo  sát  chiều  rộng  của  thân,  chi  ngoài  và 
chi trong tuyến thượng thận. 
Chiều  rộng  thân  tuyến  thượng  thận:  Chiều 
rộng  lớn  nhất  vuông  góc  với  trục  dọc  của  thân 

tuyến thượng thận, ngay điểm nối giữa thân và 
các chi, tính bằng mm. 

thuật,đang  điều  trị  Steroid  và  trên  hình  ảnh 
CLĐT: có u tuyến thượng thận hoặc các u ác tính 
khác. Như vậy, có 424 trường hợp thỏa tiêu chí 
nhận  –  loại  được  lấy  số  liệu  và  đưa  vào  phân 
tích trong nghiên cứu của chúng tôi. 

Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Bảng 1. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=424) 

Chiều  rộng  chi  ngoài  tuyến  thượng  thận: 
Chiều rộng lớn nhất vuông góc với trục dọc của 
chi ngoài, tính bằng mm. 

Đặc điểm

Xử lí số liệu: 
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm 
SPSS 16.0. 
Thống kê phân tích: việc so sánh sự khác biệt 
có  ý  nghĩa  thống  kê  được  thực  hiện  bởi  phép 
kiểm  t‐test,  pair‐samples  t‐test,  one‐way  Anova 
ở mức ý nghĩa 5%. 

KẾT QUẢ 

Độ lệch
chuẩn


49

16

157,8

6,7

145,0

177,0

52,1

8,6

35,0

88,0

20,8

2,6

13,8

29,75

Tuổi

Chiều cao
(cm)
Cân nặng
(kg)
BMI (kg/m2)

Chiều  rộng  chi  trong  tuyến  thượng  thận: 
Chiều rộng lớn nhất vuông góc với trục dọc của 
chi trong, tính bằng mm. 

Nhận  xét:  Mẫu  nghiên  cứu  có  tuổi  trung 
bình  là  49  tuổi;  Chiều  cao  trung  bình  157,8  cm; 
cân nặng trung bình 52,1 kg; BMI trung bình là 
20,8 (kg/m2). 

Giá  trị  của  các  kích  thước  tuyến  thượng 
thận 
Bảng 2. Tỉ lệ phần trăm hình dạng của TTT 
Hình dạng

Trong  thời  gian  từ  tháng  7/1012  đến  tháng 
1/2013 có 4952 người Việt Nam từ 18 tuổi trở lên 
đến khám tại các phòng khám ngoại chẩn hoặc 
được  điều  trị  tại  các  khoa  trại  nội  viện,  được 
chụp  CLĐT  bụng  có  cản  quang  tại  Bệnh  viện 
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Trong 
đó có 4528 bệnh nhân bị loại ra khỏi mẫu do có 
bệnh lý ác tính đã được chẩn đoán, rối loạn nội 
tiết,  suy  thận,  nhiễm  trùng  huyết,  lao,sau  phẫu 


Giá trị
Giá trị
nhỏ nhất lớn nhất
18
91

Trung
bình

Y ngược
V ngược
Đường thẳng
Tam giác
Lamda
Không xác định

TTT (P)
Tần số
%
381
89,9
21
4,9
14
3,3
2
0,5
6

1,4


TTT (T)
Tần số
%
393
92,7
4
0,9
4
0,9
8
1,9
13
3,1
2
0,5

Nhận xét: TTT có hình Y ngược chiếm đa số, 
89,9% bên (P) và 92,7% bên (T).  

Bảng 3. Các giá trị của kích thước tuyến thượng thận. 

Dạng đường thẳng
Y ngược
V ngược
Lamdoid
Chung

Trung bình TTT (P) (SD) mm
Thân

Chi ngoài
Chi trong
4,70 (0,28)
4,67 (0,84)
2,75 (0,48)
3,02 (0,50)
5,13 (0,56)
2,86 (0,58)
3,18 (0,61)
4,70 (0,83)

2,76 (0,49)

3,03 (0,50)

Độ dày trung bình của thân TTT (P) 4,7mm 
(S.D.  0,83),  TTT  (T)  5,12  (S.D.  1,0).  Ơ  TTT  (P) 
dạng TTT hình chữ V ngược có kích thước thân 
lớn nhất 5,13mm (S.D. 0,56) trong khi dạng chữ 
Y  ngước  có  kích  thước  nhỏ  nhất  4,67mm  (S.D. 

246

Trung bình TTT (T) (SD) mm
Thân
Chi ngoài
Chi trong
4,80 (0,14)
5,11 (0,10)
3,16 (0,65)

3,66 (0,73)
5,50 (0,93)
3,25 (0,58)
3,70 (1,18)
5,55 (0,79)
3,25 (0,57)
4,56 (0,72)
5,12 (1,00)
3,16 (0,65)
3,67(0,75)

0,84). Đối với TTT (T) dạng đường thẳng có kích 
thước thân nhỏ nhất 4,8mm (S.D. 0,14), trong khi 
đó  dạng  TTT  có  kích  thước  lớn  nhất  là  lamda 
5,55mm (0,79). 
Bảng 4. So sánh sự khác biệt giữa các giá trị của 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
tuyến thượng thận. 

Bên (P)
Bên (T)
Thân
Chi ngoài
Chi trong

Chi ngoài

Chi trong
Chi ngoài
Chi trong
(P)
(T)
(P)
(T)
(P)
(T)

Trung bình
(mm)
2,76
3,03
3,16
3,67
4,70
5,12
2,76
3,16
3,03
3,67

SD
(mm)
0,49
0,50
0,65
0,75
0,83

1,00
0,49
0,65
0,50
0,75

p
P < 0,01
P < 0,01
P < 0,01
P < 0,01
P < 0,01

Nhận  xét:  Chi  ngoài  của  cả  TTT  (P)  và  (T) 
đều  có  kích  thước  nhỏ  hơn  chi  trong,  2,75  mm 
(SD 0,48) so với 3,0 mm(SD 0,49) (p <0,001) và 3,15 
mm (SD 0,66) so với 3,67 mm (SD 0,74) (p< 0,001). 
Các  giá  trị  trung  bình  đo  được  của  TTT  (T)  đều 
lớn hơn TTT (P) có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). 
Bảng 5. So sánh kích thước thân TTT (P) giữa các 
hình dạng khác nhau. 
Hình dạng
Đường thẳng
Y ngược
Đường thẳng
V ngược
Y ngược
V ngược

Trung bình

(mm)
4,70
4,67
4,70
5,13
4,67
5,13

SD (mm)
0,28
0,84
0,28
0,56
0,84
0,56

p
0,98
0,25
0,02

Nhận  xét:  TTT  (P)  có  3  dạng  chính:  đường 
thẳng,  V  ngược  và  Y  ngược  trong  đó  những 
trường hợp V ngược có kích thước thân lớn hơn 
những trường hợp Y ngược có ý nghĩa thống kê 
(p = 0,02).  
Bảng 6. So sánh kích thước chi trong TTT (T) theo 
hình dạng TTT (T) 
Hình dạng
Y ngược

V ngược
Y ngược
Lamda
V ngược
Lamda

Trung bình (mm) SD (mm)
3,66
0,73
3,70
1,18
3,66
0,73
4,56
0,72
3,70
1,18
4,56
0,72

p
0,99
< 0,01
0,09

Nhận xét: TTT (T) có dạng Y ngược có kích 
thước chi trong nhỏ hơn dạng Lamda (p < 0,01).  

BÀN LUẬN 


Chẩn Đoán Hình Ảnh 

Nghiên cứu Y học

Mẫu  có  424  đối  tượng  được  lựa  chọn  gồm 
những bệnh nhân được chẩn đoán những bệnh 
lý  không  liên  quan  đến  kích  thước  TTT  nhằm 
đảm  bảo  kết  quả  đo  được  chính  xác.  Những 
bệnh  nhân  có  tiền  căn  mắc  những  bệnh  lý  ác 
tính  như:  u  gan,  u  phổi,  u  đại  tràng, 
lymphoma,…; bệnh nhân suy thận; nhiễm trùng 
huyết; sau phẫu thuật; đang điều trị với Steroid 
hoặc  mắc  những  bệnh  lý  mạn  tính  như:  lao, 
lupus,… đều không được nhận vào mẫu nghiên 
cứu.  Theo  thống  kê  của  bảng  phụ  lục  1  những 
trường hợp được nhận vào đa số có chẩn đoán 
trên  CT  bình  thường  (88  ca,  chiếm  20,8%), 
hemangioma (51 ca, 12%), sỏi thận (32 ca, 7,5%), 
nang  thận  (23  ca,  5,4%),  một  số  bệnh  lý  khác 
như:  viêm  ruột  thừa,  nang  gan,  gan  nhiễm 
mỡ,… 
Mẫu được thu thập tại bệnh viện tuyến trên, 
các đối tượng tham gia đến từ nhiều tỉnh thành 
khác  nhau,  37/61  tỉnh  thành  (bảng  phụ  lục  2) 
nên phần nào  có  thể  phản  ánh  một  cách  khách 
quan kết quả của mẫu nghiên cứu. 
Theo  kết  quả  từ  bảng  2,  TTT  có  hình  Y 
ngược chiếm đa số, tỉ lệ này ở bên (P) 89,9% và 
bên (T) 92,7%. Những trường hợp còn lại có TTT 
hình V ngược, đường thẳng, tam giác, lamda và 

có 1,4% đối tượng không xác định được TTT bên 
(P) và tỉ lệ không xác định được của TTT (T) là 
0,5% nên không thể lấy được kết quả chính xác 
về kích thước TTT trong những trường hợp này. 
Nguyên  nhân  đa  số  do  lượng  mỡ  khoang  sau 
phúc mạc ít nên gặp nhiều khó khăn trong việc 
xác định ranh giới giữa TTT (P) với trụ cơ hoành 
(P),  gan  (6  trường  hợp)  và  TTT  (T)  với  trụ  cơ 
hoành  (T),  tụy  (2  trường  hợp).  Nguyên  nhân  ít 
gặp hơn ghi nhận được bao gồm: các tĩnh mạch 
vùng rốn lách giãn ngoằn ngoèo (1 trường hợp), 
đại  tràng  góc  gan  lên  cao  đến  vùng  TTT  (P)  (1 
trường hợp). Đối với TTT (P), cùng nguyên nhân 
do  lượng  mỡ  khoang  sau  phúc  mạc  ít,  có  9 
trường hợp chi ngoài không đo được kích thước. 
Ngoài ra đối với TTT có dạng tam giác do không 
xác định được chi nên kích thước thân và không 
được ghi nhận. 

247


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Ngoài  dạng  Y  ngược  thường  gặp,  TTT  (P) 
còn có các dạng V ngược, đường thẳng, tam giác 
lần  lượt  chiếm  4,9%,  3,3%  và  0,5%.  TTT  (T)  đa 
dạng hơn, có thêm hình ảnh Lamda chiếm 3,1% 

(13/424 đối tượng), còn các hình dạng giống như 
TTT (P) lần lượt có tỉ lệ 0,9%, 0,9%, 1,9%. 
So với kết quả nghiên cứu của các tác giả có 
báo cáo về hình dạng TTT trước đây, chúng tôi 
nhận thấy có sự phù hợp với kết quả nghiên cứu 
của tác giả Gang Ma, thực hiện tại Trung Quốc. 
Tác  giả  này  đã  ghi  nhận  TTT  (T)  đa  dạng  hình 
ảnh hơn TTT (P) và cũng nhận thấy TTT (P) có 
dạng  tam  giác.  Trong  khi  đó,  các  tác  giả  G. 
Wilms  và  Jean‐Philippe,  mặc  dù  cũng  kết  luận 
TTT  (T)  thể  hiện  đa  dạng  hình  ảnh  trên  CLĐT 
nhưng không ghi nhận được hình dạng tam giác 
của TTT (P) như chúng tôi. Có lẽ do mẫu nghiên 
cứu của các tác giả tương đối nhỏ, Jean‐Philippe 
khảo  sát  60  bệnh,  hoặc  do  hình  dạng  TTT  của 
những  chủng  tộc  khác  nhau  cũng  có  sự  khác 
biệt, G. Wilms khảo sát ở Bỉ, Jean‐Philippe ở Mỹ, 
trong khi nghiên cứu ghi nhận có hình dạng tam 
giác thực hiện ở Trung Quốc và Việt Nam. 
Đối  với  hình  Lamda  xuất  hiện  trong  13 
trường hợp khảo sát chỉ xảy ra trên TTT (T). Kết 
quả này cũng phù hợp với báo cáo của Bernard 
Sénécail và Bernard Menanteau tại Pháp. 
Riêng  nghiên  cứu  của  Sample  và  Sarti,  tuy 
chỉ thực hiện ở 34 mẫu nhưng lại phát hiện thêm 
hình dạng L ngược, trong khi đó nghiên cứu của 
chúng tôi không ghi nhận được hình ảnh này. 
Như  vậy,  TTT  không  chỉ  có  hình  Y  ngược 
mà hình dạng này chỉ chiếm đa số trong dân số. 
Những  hình  dạng  khác  được  ghi  nhận  trên  X 

quang  CLĐT  bao  gồm:  V  ngược,  đường  thẳng, 
tam giác và Lamda.  Riêng  hình  ảnh  Lamda  chỉ 
xuất hiện bên TTT (T).  
Theo  kết  quả  khảo  sát  (bảng  3),  chiều  rộng 
lớn  nhất  của  thân,  chi  ngoài,  chi  trong  TTT  (P) 
lần lượt 4,70 mm (SD 0,83) với khoảng giới hạn 
từ 2,5 đến 8 mm, 2,76 mm (SD 0,49) khoảng giới 
hạn  từ  1,5  đến  4,2  mm,  3,03  mm  (SD  0,50), 
khoảng giới hạn từ 1,7 đến 4,9 mm; và các kích 
thước này của TTT (T) lần lượt là 5,12  mm (SD 

248

1,00),với khoảng giới hạn từ 2,8 đến 4,8 mm, 3,16 
mm (SD 0,65), khoảng giới hạn từ 1,8 đến 5 mm, 
3,67  mm  (SD  0,75),  khoảng  giới  hạn  từ  2,1  đến 
5,8  mm.  Những  số  đo  này  đều  nhỏ  hơn  so  với 
kích thước đo được của tác giả Vincent ngoại trừ 
giá trị của chi trong, tác giả Vincent đã báo cáo 
kích  thước  TTT  (P)  6,1  mm,  0,28  mm  và  0,28; 
TTT (T) 7,9 mm, 0,3 mm và 0,33 mm. Việc khác 
biệt  thể  hiện  khá  rõ  ở  chiều  rộng  lớn  nhất  của 
thân  TTT.  Nguyên  nhân  có  thể  do  tác  giả  thực 
hiện nghiên cứu bằng máy CLĐT với độ dày lát 
cắt 10 mm, trong khi nghiên cứu của chúng tôi, 
các dữ liệu được thu thập trên hình ảnh tái tạo 
với độ dày 1 mm, có độ phân giải và tương phản 
tốt  hơn.  Sự  không  đồng  nhất  này  cũng  có  khả 
năng do khác biệt về chủng tộc, người châu Âu 
thường có sắc vóc to lớn hơn người châu Á, có lẽ 

chính  vì  vậy  mà  kích  thước  của  TTT  trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  phần  nhỏ  hơn  so 
với khảo sát của tác giả được thực hiện tại nước 
Anh. 
Khi  so  kết  quả  đo  được  với  tác  giả  người 
Trung Quốc, chúng tôi nhận thấy có sự phù hợp 
về  kích  thước  trung  bình  của  phần  thân  TTT 
giữa  hai  nghiên  cứu.  Trong  khi  đó,  kết  quả  đo 
hai  chi  ngoài  và  trong  của  nghiên  cứu  này  cao 
hơn so với của Gang Ma(4). Sự không tương thích 
này  có  lẽ  xảy  ra  do  sự  khác  biệt  về  mặt  phẳng 
khảo sát.  Chúng  tôi  sử  dụng  mặt  phẳng  ngang 
để quan sát, còn nghiên cứu của Gang Ma dựa 
trên  mặt  phẳng  đứng  ngang.  Có  khi  yếu  tố 
chủng  tộc  cũng  góp  phần  ảnh  hưởng  đến  kết 
quả nghiên cứu. 
Cũng  trên  bảng  4,  so  sánh  kích  thước  chi 
trong  và  chi  ngoài  nhận  thấy  độ  dày  của  chi 
trong lớn hơn  của  chi  ngoài  rõ  rệt  với  p  <  0,01, 
trên  cả  hai  TTT.  Trong  khi  đó,  Vincent  chỉ  ghi 
nhận  sự  khác  biệt  rõ  bên  TTT  (T),  còn  TTT  (P), 
tuy trung bình độ dày cả hai chi đều là 2,8 mm 
nhưng  độ  lệch  chuẩn  bên  chi  trong  lớn  hơn  so 
với  chi  ngoài,  0,08  mm  so  với  0,06  mm(13).  Như 
vậy,  theo  khảo  sát  của  tác  giả,  trong  một  số 
trường  hợp  chi  trong  vẫn  có  khả  năng  lớn  hơn 
chi ngoài.  

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Khi so sánh kích thước thân đo được từ các 
TTT  có  hình  dạng  khác  nhau,  chúng  tôi  nhận 
thấy  bên  TTT  (P)  có  sự  khác  biệt  giữa  TTT  có 
hình dạng Y ngược và V ngược, các chỉ số trung 
bình lần lượt là 4,67 mm (S.D 0,84) và 5,13 mm 
(S.D. 0,56) với p = 0,02. Tuy nhiên, khi so sánh số 
đo này giữa dạng Y ngược với đường thẳng và 
V  ngược  với  dạng  đường  thẳng,  chúng  tôi 
không tìm thấy được sự khác biệt rõ rệt (bảng 5). 
Khi phân tích bên TTT (T), trung bình của thân 
TTT giữa các dạng khác nhau không thể hiện sự 
khác  biệt,  p  =  0,32.  Dạng  Y  ngược  và  V  ngược 
khác  nhau  chủ  yếu  ở  phần  thân,  thân  của  V 
ngược ngắn hơn so với Y ngược, có lẽ  chính  vì 
thế mà độ dày của V ngược được củng cố và lớn 
hơn dạng Y ngược. 
Đối  với  độ  dày  chi  ngoài  của  TTT,  sự  sai 
khác về hình dạng TTT không liên quan đến sự 
khác  biệt  về  kích  thước,  trên  cả  hai  TTT  (p  > 
0,05).  
Đối  với  chi  trong  của  TTT,  tuy  bên  TTT  (P) 
không  có  sự  thay  đổi  về  kích  thước  đáng  kể 
nhưng bên TTT (T), chúng tôi ghi nhận TTT có 
dạng  Lamda  có  độ  dày  của  chi  trong  lớn  hơn 
dạng Y ngược, 4,56 mm (S.D. 0,72)  và  3,66  mm 
(S.D. 0,73), p < 0,01. Các cặp so sánh còn lại đều 
không có sự khác nhau (bảng 6). Nguyên nhân 
của sự khác biệt về độ dày có lẽ cũng do nhánh 

chi trong của dạng Y ngược phát triển về chiều 
dài  nhiều  hơn  dạng  Lamda  nên  về  độ  dày  của 
dạng Lamda chiếm ưu thế hơn. 
Nhìn  chung,  sau  khi  khảo  sát  trên  424  đối 
tượng,  chúng  tôi  nhận  thấy  độ  dày  trung  bình 
của hai TTT (P) và (T) có sự khác biệt rõ rệt trên 
cả ba độ dày thân, chi ngoài và chi trong, bên (T) 
lớn hơn bên (P); độ dày của chi trong lớn hơn chi 
ngoài trên cả hai TTT; TTT (P) có dạng V ngược 
có độ dày của thân tuyến lớn hơn dạng Y ngược 
và TTT (T) dạng Lamda có độ dày của chi trong 
lớn hơn dạng Y ngược. 
Hình  ảnh  của  TTT  giảm  kích  thước  được 
phát hiện trên X quang CLĐT cũng giúp hỗ trợ 
các  bác  sĩ  lâm  sàng  trong  quá  trình  chẩn  đoán 
bệnh lý Addison, phát hiện kịp thời thiểu năng 

Chẩn Đoán Hình Ảnh 

Nghiên cứu Y học

TTT sau xuất huyết hay theo dõi tiến trình điều 
trị và đáp ứng của bệnh nhân trong một số bệnh 
u hạt, abcess. 

KẾT LUẬN 
TTT đa dạng về hình dạng, TTT (P) thường 
gặp  các  dạng:  Y  ngược,  V  ngược,  đường  thẳng 
và  tam  giác;  TTT  (T)  có  thêm  dạng  Lamda. 
Trong đó dạng Y ngược thường gặp trên cả hai 

TTT, 89,9% bên (P) và 92,7% bên (T). 
Kích thước trung bình của thân, chi ngoài và 
chi trong của TTT (P) lần lượt 4,7 mm (S.D. 0,83), 
2,76 mm (S.D. 0,49), 3,03 mm (S.D. 0,50); của TTT 
(T) 5,12 mm (S.D. 1,0), 3,16 mm (S.D. 0,65), 3,67 
mm (S.D. 0,75). 
TTT  (T)  có  độ  dày  thân,  chi  ngoài  và  chi 
trong lớn hơn TTT (P) có ý nghĩa thống kê. 
Chi  trong  có  kích  thước  lớn  hơn  chi  ngoài 
trên cả hai TTT (p < 0,01). 
Thân  TTT  (P)  dạng  V  ngược  có  độ  dày  lớn 
hơn dạng Y ngược (p < 0,05). 
Chi  trong  TTT  (T)  dạng  Lamda  có  độ  dày 
lớn hơn dạng Y ngược (p< 0,05). 
Tuổi,  giới,  BMI  không  ảnh  hưởng  đến  độ 
dày của thân và các chi của TTT. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

3.
4.
5.

6.
7.

8.


9.
10.

Birnholtz  JC  (1973).  ʺUltrasound  imaging  of  adrenal  mass 
lesions.ʺ radiology 109: 163‐166. 
Davidson JK, Morley P, et al (1975). ʺadrenal venography and 
ultrasound  in  the  investigation  of  the  adrenal  gland:  an 
analysis of 53 cases.ʺ br j radiol 48: 435‐450. 
Forsythe  JK,  Gosink  BB,  et  al  (1977).  ʺultrasound  in  the 
evaluation of adrenal metastases.ʺ j c u 5: 31‐34. 
Gang MA (2008). ʺsectional anatomy of the adrenal gland in 
the coronal plane.ʺ surg radiol anal 30: 271‐280. 
Hattery RR,  Sheedy  PF  2nd,  Stephens  DH,  van  Heerden  JA 
(1981).  ʺComputed  tomography  of  the  adrenal  gland.ʺ 
seminars in roemgenology 16(4): 290‐300. 
Herbut  PA  (1952).  Urologic  pathology.  Philadelphia,  lea  & 
febiger. 
Holm  HH  (1972).  ʺUltrasonic  scanning  in  the  diagnosis  of 
space‐ocupying lesions of the upper abdomen.ʺ br j radiol 44: 
24‐36. 
Kehlet H, Blichert‐Toft M, et al (1976). ʺComparative study of 
ultrasound, 
i‐19‐iodocholesterol 
scintigrahpy 
and 
aortography in localizing adrenal lesions ʺ Br Med J 2(6037): 
665‐667. 
Mai  Thế  Trạch,  Nguyễn  Thy  Khuê  (2007).  Nội  tiết  học  đại 
cương, nhà xuất bản y học. 
Montagne  JP,  Kressel  HY,  Korobkin  M,  Moss  AA  (1978). 


249


Nghiên cứu Y học 

11.
12.
13.

14.

250

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ʺComputed tomography of the normal adrenal glands.ʺ am j 
roentgnol 130(5): 963‐966. 
Moulton  JS,  Moulton  JS  (1988).  ʺCt  of  the  adrenal  glands.ʺ 
seminars in roentgenology 23(4): 288‐303. 
Soffer  LS  (1951).  Diseases  of  the  endocrine  glands. 
Philadelphia, lea & febiger. 
Vincent  JM,  Morrison  ID,  et  al  (1994).  ʺThe  size  of  normal 
adrenal glands on computed tomography.ʺ clinical radiology 
49: 453‐455. 
Wilms G, Baert A, et al (1979). ʺComputed tomography of the 
 

normal  adrenal  glands:  correlative  study  with  autopsy 
specimens.ʺ  journal  of  computer  assisted  tomography  3(4): 

467‐469. 
 

Ngày nhận bài báo:  

 

 

22/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

25/11/2013 

Ngày bài báo được đăng :  

05/01/2014 

 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×