Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
KHẢO SÁT KÍCH THƯỚC CỦA TUYẾN THƯỢNG THẬN BÌNH THƯỜNG
Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRÊN X‐QUANG CẮT LỚP ĐIỆN TOÁN
Hồ Quốc Cường*, Trần Lê Linh Phương**, Lâm Thanh Ngọc*, Trần Minh Hoàng*
TÓM TẮT
Mở đầu: Tuyến thượng thận (TTT) là một trong những tuyến nội tiết quan trọng trong cơ thể. Các bệnh lý
TTT cũng vô cùng đa dạng. Việc xác định kích thước của TTT thông qua X‐quang cắt lớp điện toán là phương
pháp không xâm lấn và hữu ích giúp cho các nhà lâm sàng đưa ra các chẩn đoán xác định chính xác nhằm hướng
đến một liệu pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân.
Mục tiêu: Khảo sát hình dạng, kích thước trung bình: thân, chi trong và chi ngoài của tuyến thượng thận ở
người trưởng thành; So sánh sự khác biệt về chiều rộng của chi trong, chi ngoài và của thân tuyến thượng thận
ở người trưởng thành theo giới, theo tuổi và theo BMI.
Đối tượng – Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả, thực hiện trên 424 người Việt Nam >/= 18 tuổi,
được chụp CLĐT bụng có cản quang từ tháng 7/2012 đến tháng 1/2013, tại khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Kết quả: Kích thước trung bình của thân, chi ngoài và chi trong của TTT (P) lần lượt là 4,7mm (S.D.
0,83), 2,76mm (S.D. 0,49), 3,03mm (S.D. 0,50); của TTT (T) là 5,12mm (S.D. 1,0), 3,16mm (S.D. 0,65),
3,67mm (S.D. 0,75). TTT có hình Y ngược chiếm đa số, 89,9% bên (P) và 92,7% bên (T). Độ dày trung bình của
thân TTT (P) 4,7mm (S.D. 0,83), TTT (T) 5,12 (S.D. 1,0). Chi ngoài của cả TTT (P) và (T) đều có kích thước
nhỏ hơn chi trong (p <0,01). Các giá trị trung bình đo được của TTT (T) đều lớn hơn TTT (P) có ý nghĩa (p <
0,01). TTT (P) có 3 dạng chính: đường thẳng, V ngược và Y ngược trong đó những trường hợp V ngược có kích
thước thân lớn hơn những trường hợp Y ngược (p = 0,02).
Kết luận: TTT có hình dạng đa dạng. TTT (P) thường gặp các dạng: Y ngược, V ngược, đường thẳng và
tam giác; TTT (T) có thêm dạng Lamda. Trong đó dạng Y ngược thường gặp trên cả hai TTT, 89,9% bên (P) và
92,7% bên (T). Tuổi, giới, BMI không ảnh hưởng đến độ dày của thân và các chi của TTT.
Từ khóa: tuyến thượng thận, X quang cắt lớp điện toán, kích thước bình thường, dạng Y, dạng V, dạng
tam giác, dạng lamda
ABSTRACT
TO SURVEY THE NORMAL SIZES OF THE ADRENAL GLANDS IN ADULTS ON COMPUTED
TOMOGRAPHY
Ho Quoc Cuong, Tran Le Linh Phuong, Lam Thanh Ngoc, Tran Minh Hoang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 243 ‐ 250
Background: Adrenal glands (AG) are one of important endocrine glands. The diseases of AG are varied.
Determining the size of AG via computed tomography (CT) is considered as useful and non‐invaded methods
that can support the clinical physicians to give the best diagnosis and treatment.
Objectives and Methods: This survey studied forms, average sizes of the AG body, and the medial and
lateral limbs in adults. It also compared the differences in the widths of the two AG body, medial and lateral limbs
* Bộ Môn Chẩn Đoán Hình Ảnh, Đại học Y Dược TP.HCM
** Bộ môn ngoại niệu Đại Học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Hồ Quốc Cường ĐT: 0938035396 Email:
Chẩn Đoán Hình Ảnh
243
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
in adults who possessed the differences in gender, age and BMI. This is a cross study was carried out on 424
Vietnamese who had been at least 18 years old and were performed contrast enhancement CT in abdomen from
July of 2012 to January of 2013 at Radiology department of the University Medical Center.
Results: The average sizes of the right AG body, medial and lateral limbs were 4.7mm (S.D. 0.83), 2.76mm
(S.D. 0.49), and 3.03mm (S.D. 0.50); of the left one were 5.12mm (S.D. 1.0), 3.16mm (S.D. 0.65), 3.67mm (S.D.
0.75). The Y – reverse shape occupied the majority, 89.9% (right AG) and 92.7% (left AG). The average thick of
AG bodies were 4.7mm (S.D. 0.83) in right and 5.12 (S.D. 1.0) in left. The sizes of lateral limbs of both right and
left AG were smaller than this of medial ones (p <0.01). The average results in the left AG were larger than the
right significantly (p < 0.01). The right AG included three main shapes: line, V – reverse, Y – reverse; and the V –
reverse were larger meaningfully than Y – reverse in body size (p = 0.02).
Conclusion: AG had varied forms. The right AG shapes were usually line, V – reverse, Y – reverse and
triangle; the lefts had additionally Lamda. Y – reverse had the most frequency. Genders, age, BMI had not
influenced the thick of body, medial and lateral limbs.
Key words: adrenal gland, computed tomography, normal size, V shape, Y shapes, triangle, lamda.
người Việt Nam trưởng thành.
MỞ ĐẦU
Tuyến thượng thận (TTT) là một trong
những tuyến nội tiết quan trọng trong cơ thể.
Lớp vỏ TTT tiết ra các nội tiết tố: Glucocorticoid,
Aldosterone và Androgen, chịu trách nhiệm
điều khiển một số hoạt động nội tiết quan trọng
của cơ thể. Đồng thời TTT có thể gây một số
phản ứng giao cảm(9). Các bệnh lý liên quan đến
TTT cũng vô cùng đa dạng để chẩn đoán chính
xác các bệnh lý này cần có sự kết hợp chặt chẽ
giữa lâm sàng, các xét nghiệm cận lâm sàng và
hình ảnh học về TTT.
Việc xác định hình ảnh, kích thước TTT trên
siêu âm thường không đạt kết quả như ý(1,2,3,7,8).
Cắt lớp điện toán (CLĐT) tỏ ra có hiệu quả hơn
trong việc khảo sát hình ảnh học của TTT(5,10,11)
và tương đương với kích thước được đo trên
mẫu mô phẫu thuật lẫn trên phẫu tích tử
thi(6,12,14).
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác
định “kích thước của TTT bình thường ở người
trưởng thành trên X quang cắt lớp điện toán là
bao nhiêu?” để từ đó có thể hỗ trợ các bác sĩ
chẩn đoán hình ảnh trong việc phát hiện những
bất thường của TTT nhằm góp phần giúp các
nhà lâm sàng đưa ra những kết luận chính xác
về bệnh lý và có hướng điều trị kịp thời cho
bệnh nhân. Đồng thời các kết quả này góp phần
vào những dữ liệu về hằng số sinh học của
244
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang, mô tả.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: Khoa chẩn đoán hình ảnh Bệnh
viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Thời gian: Trong 06 tháng, từ tháng 7/2012
đến tháng 1/2013.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu: Người Việt Nam trưởng
thành.
Dân số chọn mẫu: Người Việt Nam >/= 18
tuổi, được chụp CLĐT bụng có cản quang từ
tháng 7/2012 đến tháng 1/2013, tại khoa Chẩn
đoán hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Dược Thành
phố Hồ Chí Minh.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Người Việt Nam trưởng thành không kể giới
tính, đến từ phòng khám ngoại chẩn hoặc được
điều trị tại các khoa trại nội viện, được chụp
CLĐT bụng có cản quang tại Bệnh viện Đại học
Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
7/2012 đến tháng 1/2013.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có bệnh lý ác tính đã được chẩn
đoán.
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Bệnh nhân có rối loạn nội tiết.
Một số tình trạng như: Suy thận, Nhiễm
trùng huyết, Sau phẫu thuật, đang điều trị
Steroid, Trên hình ảnh CLĐT: có u tuyến thượng
thận hoặc các u ác tính khác.
Thu thập số liệu
Phương pháp thu thập số liệu
Phương tiện kỹ thuật:
Máy MSCT 64 (Light speed VCT, GE
healthcare, Mỹ).
Máy chủ có phần mềm xử lí (Workstation).
Các bước tiến hành:
Chuẩn bị bệnh nhân: bệnh nhân nhịn ăn ít
nhất 06 giờ trước khi chụp CLĐT bụng có cản
quang và không dùng chất cản quang đường
tiêu hóa trước đó ít nhất 03 ngày. Cần hỏi bác sĩ
và bệnh nhân tiền căn dị ứng thuốc hay các chế
phẩm có chứa Iode, dị ứng tthức ăn,… Cần giải
thích cho bệnh nhân thật kỹ trước khi chụp để
có sự hợp tác tốt.
Tư thế chụp: bệnh nhân nằm ngửa, hai tay
đặt hướng về phía đầu. Hướng dẫn cho bệnh
nhân nín thở trong thời gian thực hiện các lát cắt
để tránh xảo ảnh do cử động.
Khảo sát phim chụp CLĐT bụng có cản
quang với các thông số tham khảo trên máy
CLĐT 64 lát cắt (Light speed VCT, GE
healthcare) ở Bệnh viện Đại học Y Dược, sử
dụng chụp xoắn ốc:
Liều thuốc tương phản 1,5 – 2 ml/kg, tốc độ
bơm 1,5 – 2 ml/giây.
Khảo sát từ vòm hoành đến hết cực dưới
thận.
Tiến hành chụp: Khảo sát thì động mạch sau
tiêm thuốc 30 giây, thì tĩnh mạch sau tiêm thuốc
70 giây, bề dày lát cắt 5mm, cường độ dòng điện
80 – 120 mAs, hiệu điện thế 120 kV, thời gian
xoay đầu đèn (Rotation time) 0,8 ms, trường
khảo sát (FOV) tùy vào thể tạng bệnh nhân
nhưng cần đủ rộng để lấy hết toàn bộ ổ bụng
phần có tuyến thượng thận, không quá rộng để
đảm bảo độ phân giải không gian (thường
Chẩn Đoán Hình Ảnh
Nghiên cứu Y học
khoảng 50cm), bước bàn 0,984: 1. Độ rộng và
trung tâm cửa sổ khoảng 300 – 65 HU.
Thực hiện tái tạo lát cắt mỏng 1 mm ở thì
động mạch và tĩnh mạch.
Khảo sát dữ liệu những bệnh nhân được
chụp CLĐT bụng có cản quang với 3 thì (thì
chưa tiêm thuốc, thì động mạch, thì tĩnh mạch)
thỏa các tiêu chuẩn chọn bệnh.
Các thông số về kích thước TTT được đo
trên máy Workstation, dùng các hình axial tái
tạo với độ dày lát cắt 1mm, do một người thực
hiện có kiểm tra ngẫu nhiên bởi người đo thứ 2
(khoảng 10% mẫu nghiên cứu).
Các biến số khảo sát:
Tuổi: biến định lượng, liên tục. Tuổi được
tính bằng thời điểm khảo sát trừ năm sinh (đơn
vị tính là năm). Tuổi được phân thành 5 nhóm
tuổi: 18 – 29, 30 – 44, 45 – 59, 60 – 74, >75.
Giới tính: biến danh định, có 2 giá trị nam
và nữ.
Cân nặng: biến định lượng, đơn vị tính
kilogram (kg).
Chiều cao: biến định lượng, đơn vị tính
centimet (cm).
BMI: (Body Mass Index = Chỉ số khối cơ thể)
là một chỉ số đơn giản được dùng phổ biến để
phân nhóm người suy dinh dưỡng, bình
thường, thừa cân hay béo phì ở người trưởng
thành. Chỉ số này được xác định bằng công thức
cân nặng chia cho bình phương chiều cao
(kg/m2). Ví dụ, một người trưởng thành nặng 70
kg và cao 1,75m sẽ có BMI là 22,9 kg/m2.
Hình dạng tuyến thượng thận: đường thẳng,
chữ Y ngược, chữ V ngược, Lamda, tam giác.
Kích thước tuyến thượng thận.
Đối với TTT dạng đường thẳng.
Khảo sát chiều rộng của thân tuyến thượng
thận.
Chiều rộng thân tuyến thượng thận: Chiều
rộng lớn nhất vuông góc với trục dọc của tuyến
thượng thận.
Đối với TTT dạng chữ Y ngược, V ngược và
245
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
lamda
Khảo sát chiều rộng của thân, chi ngoài và
chi trong tuyến thượng thận.
Chiều rộng thân tuyến thượng thận: Chiều
rộng lớn nhất vuông góc với trục dọc của thân
tuyến thượng thận, ngay điểm nối giữa thân và
các chi, tính bằng mm.
thuật,đang điều trị Steroid và trên hình ảnh
CLĐT: có u tuyến thượng thận hoặc các u ác tính
khác. Như vậy, có 424 trường hợp thỏa tiêu chí
nhận – loại được lấy số liệu và đưa vào phân
tích trong nghiên cứu của chúng tôi.
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=424)
Chiều rộng chi ngoài tuyến thượng thận:
Chiều rộng lớn nhất vuông góc với trục dọc của
chi ngoài, tính bằng mm.
Đặc điểm
Xử lí số liệu:
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm
SPSS 16.0.
Thống kê phân tích: việc so sánh sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê được thực hiện bởi phép
kiểm t‐test, pair‐samples t‐test, one‐way Anova
ở mức ý nghĩa 5%.
KẾT QUẢ
Độ lệch
chuẩn
49
16
157,8
6,7
145,0
177,0
52,1
8,6
35,0
88,0
20,8
2,6
13,8
29,75
Tuổi
Chiều cao
(cm)
Cân nặng
(kg)
BMI (kg/m2)
Chiều rộng chi trong tuyến thượng thận:
Chiều rộng lớn nhất vuông góc với trục dọc của
chi trong, tính bằng mm.
Nhận xét: Mẫu nghiên cứu có tuổi trung
bình là 49 tuổi; Chiều cao trung bình 157,8 cm;
cân nặng trung bình 52,1 kg; BMI trung bình là
20,8 (kg/m2).
Giá trị của các kích thước tuyến thượng
thận
Bảng 2. Tỉ lệ phần trăm hình dạng của TTT
Hình dạng
Trong thời gian từ tháng 7/1012 đến tháng
1/2013 có 4952 người Việt Nam từ 18 tuổi trở lên
đến khám tại các phòng khám ngoại chẩn hoặc
được điều trị tại các khoa trại nội viện, được
chụp CLĐT bụng có cản quang tại Bệnh viện
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Trong
đó có 4528 bệnh nhân bị loại ra khỏi mẫu do có
bệnh lý ác tính đã được chẩn đoán, rối loạn nội
tiết, suy thận, nhiễm trùng huyết, lao,sau phẫu
Giá trị
Giá trị
nhỏ nhất lớn nhất
18
91
Trung
bình
Y ngược
V ngược
Đường thẳng
Tam giác
Lamda
Không xác định
TTT (P)
Tần số
%
381
89,9
21
4,9
14
3,3
2
0,5
6
1,4
TTT (T)
Tần số
%
393
92,7
4
0,9
4
0,9
8
1,9
13
3,1
2
0,5
Nhận xét: TTT có hình Y ngược chiếm đa số,
89,9% bên (P) và 92,7% bên (T).
Bảng 3. Các giá trị của kích thước tuyến thượng thận.
Dạng đường thẳng
Y ngược
V ngược
Lamdoid
Chung
Trung bình TTT (P) (SD) mm
Thân
Chi ngoài
Chi trong
4,70 (0,28)
4,67 (0,84)
2,75 (0,48)
3,02 (0,50)
5,13 (0,56)
2,86 (0,58)
3,18 (0,61)
4,70 (0,83)
2,76 (0,49)
3,03 (0,50)
Độ dày trung bình của thân TTT (P) 4,7mm
(S.D. 0,83), TTT (T) 5,12 (S.D. 1,0). Ơ TTT (P)
dạng TTT hình chữ V ngược có kích thước thân
lớn nhất 5,13mm (S.D. 0,56) trong khi dạng chữ
Y ngước có kích thước nhỏ nhất 4,67mm (S.D.
246
Trung bình TTT (T) (SD) mm
Thân
Chi ngoài
Chi trong
4,80 (0,14)
5,11 (0,10)
3,16 (0,65)
3,66 (0,73)
5,50 (0,93)
3,25 (0,58)
3,70 (1,18)
5,55 (0,79)
3,25 (0,57)
4,56 (0,72)
5,12 (1,00)
3,16 (0,65)
3,67(0,75)
0,84). Đối với TTT (T) dạng đường thẳng có kích
thước thân nhỏ nhất 4,8mm (S.D. 0,14), trong khi
đó dạng TTT có kích thước lớn nhất là lamda
5,55mm (0,79).
Bảng 4. So sánh sự khác biệt giữa các giá trị của
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
tuyến thượng thận.
Bên (P)
Bên (T)
Thân
Chi ngoài
Chi trong
Chi ngoài
Chi trong
Chi ngoài
Chi trong
(P)
(T)
(P)
(T)
(P)
(T)
Trung bình
(mm)
2,76
3,03
3,16
3,67
4,70
5,12
2,76
3,16
3,03
3,67
SD
(mm)
0,49
0,50
0,65
0,75
0,83
1,00
0,49
0,65
0,50
0,75
p
P < 0,01
P < 0,01
P < 0,01
P < 0,01
P < 0,01
Nhận xét: Chi ngoài của cả TTT (P) và (T)
đều có kích thước nhỏ hơn chi trong, 2,75 mm
(SD 0,48) so với 3,0 mm(SD 0,49) (p <0,001) và 3,15
mm (SD 0,66) so với 3,67 mm (SD 0,74) (p< 0,001).
Các giá trị trung bình đo được của TTT (T) đều
lớn hơn TTT (P) có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).
Bảng 5. So sánh kích thước thân TTT (P) giữa các
hình dạng khác nhau.
Hình dạng
Đường thẳng
Y ngược
Đường thẳng
V ngược
Y ngược
V ngược
Trung bình
(mm)
4,70
4,67
4,70
5,13
4,67
5,13
SD (mm)
0,28
0,84
0,28
0,56
0,84
0,56
p
0,98
0,25
0,02
Nhận xét: TTT (P) có 3 dạng chính: đường
thẳng, V ngược và Y ngược trong đó những
trường hợp V ngược có kích thước thân lớn hơn
những trường hợp Y ngược có ý nghĩa thống kê
(p = 0,02).
Bảng 6. So sánh kích thước chi trong TTT (T) theo
hình dạng TTT (T)
Hình dạng
Y ngược
V ngược
Y ngược
Lamda
V ngược
Lamda
Trung bình (mm) SD (mm)
3,66
0,73
3,70
1,18
3,66
0,73
4,56
0,72
3,70
1,18
4,56
0,72
p
0,99
< 0,01
0,09
Nhận xét: TTT (T) có dạng Y ngược có kích
thước chi trong nhỏ hơn dạng Lamda (p < 0,01).
BÀN LUẬN
Chẩn Đoán Hình Ảnh
Nghiên cứu Y học
Mẫu có 424 đối tượng được lựa chọn gồm
những bệnh nhân được chẩn đoán những bệnh
lý không liên quan đến kích thước TTT nhằm
đảm bảo kết quả đo được chính xác. Những
bệnh nhân có tiền căn mắc những bệnh lý ác
tính như: u gan, u phổi, u đại tràng,
lymphoma,…; bệnh nhân suy thận; nhiễm trùng
huyết; sau phẫu thuật; đang điều trị với Steroid
hoặc mắc những bệnh lý mạn tính như: lao,
lupus,… đều không được nhận vào mẫu nghiên
cứu. Theo thống kê của bảng phụ lục 1 những
trường hợp được nhận vào đa số có chẩn đoán
trên CT bình thường (88 ca, chiếm 20,8%),
hemangioma (51 ca, 12%), sỏi thận (32 ca, 7,5%),
nang thận (23 ca, 5,4%), một số bệnh lý khác
như: viêm ruột thừa, nang gan, gan nhiễm
mỡ,…
Mẫu được thu thập tại bệnh viện tuyến trên,
các đối tượng tham gia đến từ nhiều tỉnh thành
khác nhau, 37/61 tỉnh thành (bảng phụ lục 2)
nên phần nào có thể phản ánh một cách khách
quan kết quả của mẫu nghiên cứu.
Theo kết quả từ bảng 2, TTT có hình Y
ngược chiếm đa số, tỉ lệ này ở bên (P) 89,9% và
bên (T) 92,7%. Những trường hợp còn lại có TTT
hình V ngược, đường thẳng, tam giác, lamda và
có 1,4% đối tượng không xác định được TTT bên
(P) và tỉ lệ không xác định được của TTT (T) là
0,5% nên không thể lấy được kết quả chính xác
về kích thước TTT trong những trường hợp này.
Nguyên nhân đa số do lượng mỡ khoang sau
phúc mạc ít nên gặp nhiều khó khăn trong việc
xác định ranh giới giữa TTT (P) với trụ cơ hoành
(P), gan (6 trường hợp) và TTT (T) với trụ cơ
hoành (T), tụy (2 trường hợp). Nguyên nhân ít
gặp hơn ghi nhận được bao gồm: các tĩnh mạch
vùng rốn lách giãn ngoằn ngoèo (1 trường hợp),
đại tràng góc gan lên cao đến vùng TTT (P) (1
trường hợp). Đối với TTT (P), cùng nguyên nhân
do lượng mỡ khoang sau phúc mạc ít, có 9
trường hợp chi ngoài không đo được kích thước.
Ngoài ra đối với TTT có dạng tam giác do không
xác định được chi nên kích thước thân và không
được ghi nhận.
247
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Ngoài dạng Y ngược thường gặp, TTT (P)
còn có các dạng V ngược, đường thẳng, tam giác
lần lượt chiếm 4,9%, 3,3% và 0,5%. TTT (T) đa
dạng hơn, có thêm hình ảnh Lamda chiếm 3,1%
(13/424 đối tượng), còn các hình dạng giống như
TTT (P) lần lượt có tỉ lệ 0,9%, 0,9%, 1,9%.
So với kết quả nghiên cứu của các tác giả có
báo cáo về hình dạng TTT trước đây, chúng tôi
nhận thấy có sự phù hợp với kết quả nghiên cứu
của tác giả Gang Ma, thực hiện tại Trung Quốc.
Tác giả này đã ghi nhận TTT (T) đa dạng hình
ảnh hơn TTT (P) và cũng nhận thấy TTT (P) có
dạng tam giác. Trong khi đó, các tác giả G.
Wilms và Jean‐Philippe, mặc dù cũng kết luận
TTT (T) thể hiện đa dạng hình ảnh trên CLĐT
nhưng không ghi nhận được hình dạng tam giác
của TTT (P) như chúng tôi. Có lẽ do mẫu nghiên
cứu của các tác giả tương đối nhỏ, Jean‐Philippe
khảo sát 60 bệnh, hoặc do hình dạng TTT của
những chủng tộc khác nhau cũng có sự khác
biệt, G. Wilms khảo sát ở Bỉ, Jean‐Philippe ở Mỹ,
trong khi nghiên cứu ghi nhận có hình dạng tam
giác thực hiện ở Trung Quốc và Việt Nam.
Đối với hình Lamda xuất hiện trong 13
trường hợp khảo sát chỉ xảy ra trên TTT (T). Kết
quả này cũng phù hợp với báo cáo của Bernard
Sénécail và Bernard Menanteau tại Pháp.
Riêng nghiên cứu của Sample và Sarti, tuy
chỉ thực hiện ở 34 mẫu nhưng lại phát hiện thêm
hình dạng L ngược, trong khi đó nghiên cứu của
chúng tôi không ghi nhận được hình ảnh này.
Như vậy, TTT không chỉ có hình Y ngược
mà hình dạng này chỉ chiếm đa số trong dân số.
Những hình dạng khác được ghi nhận trên X
quang CLĐT bao gồm: V ngược, đường thẳng,
tam giác và Lamda. Riêng hình ảnh Lamda chỉ
xuất hiện bên TTT (T).
Theo kết quả khảo sát (bảng 3), chiều rộng
lớn nhất của thân, chi ngoài, chi trong TTT (P)
lần lượt 4,70 mm (SD 0,83) với khoảng giới hạn
từ 2,5 đến 8 mm, 2,76 mm (SD 0,49) khoảng giới
hạn từ 1,5 đến 4,2 mm, 3,03 mm (SD 0,50),
khoảng giới hạn từ 1,7 đến 4,9 mm; và các kích
thước này của TTT (T) lần lượt là 5,12 mm (SD
248
1,00),với khoảng giới hạn từ 2,8 đến 4,8 mm, 3,16
mm (SD 0,65), khoảng giới hạn từ 1,8 đến 5 mm,
3,67 mm (SD 0,75), khoảng giới hạn từ 2,1 đến
5,8 mm. Những số đo này đều nhỏ hơn so với
kích thước đo được của tác giả Vincent ngoại trừ
giá trị của chi trong, tác giả Vincent đã báo cáo
kích thước TTT (P) 6,1 mm, 0,28 mm và 0,28;
TTT (T) 7,9 mm, 0,3 mm và 0,33 mm. Việc khác
biệt thể hiện khá rõ ở chiều rộng lớn nhất của
thân TTT. Nguyên nhân có thể do tác giả thực
hiện nghiên cứu bằng máy CLĐT với độ dày lát
cắt 10 mm, trong khi nghiên cứu của chúng tôi,
các dữ liệu được thu thập trên hình ảnh tái tạo
với độ dày 1 mm, có độ phân giải và tương phản
tốt hơn. Sự không đồng nhất này cũng có khả
năng do khác biệt về chủng tộc, người châu Âu
thường có sắc vóc to lớn hơn người châu Á, có lẽ
chính vì vậy mà kích thước của TTT trong
nghiên cứu của chúng tôi có phần nhỏ hơn so
với khảo sát của tác giả được thực hiện tại nước
Anh.
Khi so kết quả đo được với tác giả người
Trung Quốc, chúng tôi nhận thấy có sự phù hợp
về kích thước trung bình của phần thân TTT
giữa hai nghiên cứu. Trong khi đó, kết quả đo
hai chi ngoài và trong của nghiên cứu này cao
hơn so với của Gang Ma(4). Sự không tương thích
này có lẽ xảy ra do sự khác biệt về mặt phẳng
khảo sát. Chúng tôi sử dụng mặt phẳng ngang
để quan sát, còn nghiên cứu của Gang Ma dựa
trên mặt phẳng đứng ngang. Có khi yếu tố
chủng tộc cũng góp phần ảnh hưởng đến kết
quả nghiên cứu.
Cũng trên bảng 4, so sánh kích thước chi
trong và chi ngoài nhận thấy độ dày của chi
trong lớn hơn của chi ngoài rõ rệt với p < 0,01,
trên cả hai TTT. Trong khi đó, Vincent chỉ ghi
nhận sự khác biệt rõ bên TTT (T), còn TTT (P),
tuy trung bình độ dày cả hai chi đều là 2,8 mm
nhưng độ lệch chuẩn bên chi trong lớn hơn so
với chi ngoài, 0,08 mm so với 0,06 mm(13). Như
vậy, theo khảo sát của tác giả, trong một số
trường hợp chi trong vẫn có khả năng lớn hơn
chi ngoài.
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Khi so sánh kích thước thân đo được từ các
TTT có hình dạng khác nhau, chúng tôi nhận
thấy bên TTT (P) có sự khác biệt giữa TTT có
hình dạng Y ngược và V ngược, các chỉ số trung
bình lần lượt là 4,67 mm (S.D 0,84) và 5,13 mm
(S.D. 0,56) với p = 0,02. Tuy nhiên, khi so sánh số
đo này giữa dạng Y ngược với đường thẳng và
V ngược với dạng đường thẳng, chúng tôi
không tìm thấy được sự khác biệt rõ rệt (bảng 5).
Khi phân tích bên TTT (T), trung bình của thân
TTT giữa các dạng khác nhau không thể hiện sự
khác biệt, p = 0,32. Dạng Y ngược và V ngược
khác nhau chủ yếu ở phần thân, thân của V
ngược ngắn hơn so với Y ngược, có lẽ chính vì
thế mà độ dày của V ngược được củng cố và lớn
hơn dạng Y ngược.
Đối với độ dày chi ngoài của TTT, sự sai
khác về hình dạng TTT không liên quan đến sự
khác biệt về kích thước, trên cả hai TTT (p >
0,05).
Đối với chi trong của TTT, tuy bên TTT (P)
không có sự thay đổi về kích thước đáng kể
nhưng bên TTT (T), chúng tôi ghi nhận TTT có
dạng Lamda có độ dày của chi trong lớn hơn
dạng Y ngược, 4,56 mm (S.D. 0,72) và 3,66 mm
(S.D. 0,73), p < 0,01. Các cặp so sánh còn lại đều
không có sự khác nhau (bảng 6). Nguyên nhân
của sự khác biệt về độ dày có lẽ cũng do nhánh
chi trong của dạng Y ngược phát triển về chiều
dài nhiều hơn dạng Lamda nên về độ dày của
dạng Lamda chiếm ưu thế hơn.
Nhìn chung, sau khi khảo sát trên 424 đối
tượng, chúng tôi nhận thấy độ dày trung bình
của hai TTT (P) và (T) có sự khác biệt rõ rệt trên
cả ba độ dày thân, chi ngoài và chi trong, bên (T)
lớn hơn bên (P); độ dày của chi trong lớn hơn chi
ngoài trên cả hai TTT; TTT (P) có dạng V ngược
có độ dày của thân tuyến lớn hơn dạng Y ngược
và TTT (T) dạng Lamda có độ dày của chi trong
lớn hơn dạng Y ngược.
Hình ảnh của TTT giảm kích thước được
phát hiện trên X quang CLĐT cũng giúp hỗ trợ
các bác sĩ lâm sàng trong quá trình chẩn đoán
bệnh lý Addison, phát hiện kịp thời thiểu năng
Chẩn Đoán Hình Ảnh
Nghiên cứu Y học
TTT sau xuất huyết hay theo dõi tiến trình điều
trị và đáp ứng của bệnh nhân trong một số bệnh
u hạt, abcess.
KẾT LUẬN
TTT đa dạng về hình dạng, TTT (P) thường
gặp các dạng: Y ngược, V ngược, đường thẳng
và tam giác; TTT (T) có thêm dạng Lamda.
Trong đó dạng Y ngược thường gặp trên cả hai
TTT, 89,9% bên (P) và 92,7% bên (T).
Kích thước trung bình của thân, chi ngoài và
chi trong của TTT (P) lần lượt 4,7 mm (S.D. 0,83),
2,76 mm (S.D. 0,49), 3,03 mm (S.D. 0,50); của TTT
(T) 5,12 mm (S.D. 1,0), 3,16 mm (S.D. 0,65), 3,67
mm (S.D. 0,75).
TTT (T) có độ dày thân, chi ngoài và chi
trong lớn hơn TTT (P) có ý nghĩa thống kê.
Chi trong có kích thước lớn hơn chi ngoài
trên cả hai TTT (p < 0,01).
Thân TTT (P) dạng V ngược có độ dày lớn
hơn dạng Y ngược (p < 0,05).
Chi trong TTT (T) dạng Lamda có độ dày
lớn hơn dạng Y ngược (p< 0,05).
Tuổi, giới, BMI không ảnh hưởng đến độ
dày của thân và các chi của TTT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
Birnholtz JC (1973). ʺUltrasound imaging of adrenal mass
lesions.ʺ radiology 109: 163‐166.
Davidson JK, Morley P, et al (1975). ʺadrenal venography and
ultrasound in the investigation of the adrenal gland: an
analysis of 53 cases.ʺ br j radiol 48: 435‐450.
Forsythe JK, Gosink BB, et al (1977). ʺultrasound in the
evaluation of adrenal metastases.ʺ j c u 5: 31‐34.
Gang MA (2008). ʺsectional anatomy of the adrenal gland in
the coronal plane.ʺ surg radiol anal 30: 271‐280.
Hattery RR, Sheedy PF 2nd, Stephens DH, van Heerden JA
(1981). ʺComputed tomography of the adrenal gland.ʺ
seminars in roemgenology 16(4): 290‐300.
Herbut PA (1952). Urologic pathology. Philadelphia, lea &
febiger.
Holm HH (1972). ʺUltrasonic scanning in the diagnosis of
space‐ocupying lesions of the upper abdomen.ʺ br j radiol 44:
24‐36.
Kehlet H, Blichert‐Toft M, et al (1976). ʺComparative study of
ultrasound,
i‐19‐iodocholesterol
scintigrahpy
and
aortography in localizing adrenal lesions ʺ Br Med J 2(6037):
665‐667.
Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007). Nội tiết học đại
cương, nhà xuất bản y học.
Montagne JP, Kressel HY, Korobkin M, Moss AA (1978).
249
Nghiên cứu Y học
11.
12.
13.
14.
250
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
ʺComputed tomography of the normal adrenal glands.ʺ am j
roentgnol 130(5): 963‐966.
Moulton JS, Moulton JS (1988). ʺCt of the adrenal glands.ʺ
seminars in roentgenology 23(4): 288‐303.
Soffer LS (1951). Diseases of the endocrine glands.
Philadelphia, lea & febiger.
Vincent JM, Morrison ID, et al (1994). ʺThe size of normal
adrenal glands on computed tomography.ʺ clinical radiology
49: 453‐455.
Wilms G, Baert A, et al (1979). ʺComputed tomography of the
normal adrenal glands: correlative study with autopsy
specimens.ʺ journal of computer assisted tomography 3(4):
467‐469.
Ngày nhận bài báo:
22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
25/11/2013
Ngày bài báo được đăng :
05/01/2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa