Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

So sánh tính an toàn và hiệu quả giữa abciximab liều nạp, cố định và bơm trực tiếp nội mạch vành với liều nạp và duy trì theo cân nặng sử dụng qua đường tĩnh mạch ở bệnh nhân nhồi máu cơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.28 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

SO SÁNH TÍNH AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ GIỮA ABCIXIMAB LIỀU NẠP,
CỐ ĐỊNH VÀ BƠM TRỰC TIẾP NỘI MẠCH VÀNH VỚI LIỀU NẠP
VÀ DUY TRÌ THEO CÂN NẶNG SỬ DỤNG QUA ĐƯỜNG TĨNH MẠCH
Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP ST CHÊNH LÊN
CÓ CAN THIỆP MẠCH VÀNH TIÊN PHÁT
Ngô Minh Hùng*; Tan Huay Cheem**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Abciximab, một chất ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa, đã được chứng minh làm giảm tỉ lệ
tử vong và tái nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên (NMCTCSTCL) được can thiệp
mạch vành tiên phát. Sử dụng liều nạp và truyền tĩnh mạch duy trì tính theo cân nặng, cần phải sử dụng nhiều
thuốc và giá thành cao, vẫn đang được xem là điều trị chuẩn. Chúng tôi nghiên cứu liệu sử dụng liều nạp cố
định, duy nhất, và tiêm trực tiếp mạch vành, giúp cho nồng độ thuốc tập trung cao và chi phí thấp, có hiệu quả
và an toàn như điều trị chuẩn hay không.
Phương pháp: Có 195 bệnh nhân NMCTCSTCL được can thiệp mạch vành tiên phát từ năm 2001 đến
năm 2007 được tuyển chọn vào nghiên cứu. Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào một trong hai điều trị
sau, nhóm A: 10mg abciximab bơm trực tiếp mạch vành trước khi can thiệp và nhóm B: liều nạp qua đường tĩnh
mạch abciximab 0,25mg/kg trước khi can thiệp và theo sau bởi truyền tĩnh mạch với liều 0,125ug/kg/phút trong
12 giờ. Các tiêu chí chính bao gồm sự cải thiện dòng chảy TIMI và tưới máu cơ tim (TMP), các biến cố tim mạch
nặng (tử vong, NMCT, tái can thiệp, chảy máu) ở thời điểm 1 và 6 tháng.
Kết quả: Có 120 bệnh nhân ở nhóm A và 75 bệnh nhân ở nhóm B. Các bệnh nhân được điều trị liều nạp và
trước thủ thuật không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm. Phục hồi dòng chảy TIMI ở nhóm A và
B lần lượt là 90% so với 89,3%, p=0,182 và mức độ tưới máu cơ tim ở hai nhóm A, B lần lượt là 80% so với
74,7%, p=0,325. Thời gian hoạt hóa cục máu đông (ACT) lần lượt là 293,82 ± 155,74s so với 373,00 ± 138,84s.
p=0,388. Biến chứng xuất huyết ở tháng đầu là 1,7% so với 1,3%, p=0,967 và tỉ lệ giảm tiểu cầu lần lượt là
3,3% so với 2,7%, p=0,57. Biến cố tim mạch nặng ở nhóm A và B ở thời điểm 1 và 6 tháng là 8,3% so với 2,7%,
p=0,134 và 8,3% so với 5,3%, p=0,615.


Kết luận: Abciximab liều nạp cố định, bơm trực tiếp mạch vành, giúp cung cấp nồng độ thuốc cao khu trú,
đã đạt được hiệu quả và an toàn tương tự với điều trị chuẩn bằng liều nạp và truyền tĩnh mạch theo cân nặng và
có thể được xem như là một điều trị hiệu quả và rẻ tiền hơn trong can thiệp mạch vành tiên phát.
Từ khóa: Nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên, Abciximab, Nội mạch vành

ABSTRACT
COMPARISON OF SAFETY AND EFFICACY OF INTRACORONARY BOLUS ABCIXIMAB ONLY
VERSUS STANDARD INTRAVENOUS BOLUS AND INFUSION ABCIXIMAB IN PATIENTS WITH
ACUTE ST-SEGMENT ELEVATION MYOCARDIAL INFARCTION UNDERGOING PRIMARY
PERCUTANEOUS CORONARY INTERVENTION
Ngo Minh Hung, Huay-Cheem Tan * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 – No. 1 – 2011: 9 - 15

* Khoa Tim Mạch Can Thiệp – BV. Chợ rẫy
** Trung tâm Tim mạch Đại học Quốc gia, Singapore
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Ngô Minh Hùng

ĐT: 01282222767

Email:

9


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011

Background: Abciximab, a platelet glycoprotein IIb/IIIa receptor inhibitor, has been shown to lower
mortality and myocardial reinfarction in patients with acute ST-segment elevation myocardial infarction
(STEMI) undergoing primary percutaneous coronary intervention (PPCI). The standard abciximab intravenous

(iv) bolus and infusion regime requires large doses and hence increases cost. We examine whether intracoronary
(ic) abciximab bolus-only regimen which provides high local drug concentration, a most cost-efffective option, is
as effective and safe as the standard iv bolus and infusion regime.
Methods: A total of 195 consecutive patients who underwent PPCI for STEMI from 2001 to 2007 in whom
abciximab was administered were enrolled. Patients were randomly assigned to receive regime A: ic 10mg bolus
abciximab before PCI and regime B: iv bolus abciximab (0.25mg/kg) before PCI followed by iv infusion
(0.125ug/kg/min) for 12 hours. The study endpoints were Thrombolysis In Myocardial Infarction (TIMI) flow
and TIMI Myocardial Perfusion (TMP) grade improvement, major adverse cardiac event (MACE) rate of death,
MI, repeat intervention and bleeding at 1 and 6 months.
Results: There were 120 and 75 patients in regime A and B respectively. All patients were pretreated with
dual antiplatelet therapy. Low dose weight-adjusted heparin regimen of 50U/kg was administered. The baseline
clinical and procedural characteristics were comparable between the 2 groups. TIMI grade 3 flow achieved in
90% vs 89.3%, p=0.182 and TMP 3 grade achieved in 80% vs 74.7%, p=0.325. The maximal procedural
activated clotting time post PCI were 293.82±155.74s vs. 373.00±138.84s. p=0.388. At 1 month, TIMI major
bleeding occurred in 1.7% vs 1.3%, p=0.967 and the incidence of thrombocytopenia was 3.3% vs 2.7%, p=0.57.
The MACE rate of the regime A and B groups were 8.3% vs 2.7%, (p=0.134) at 1 month and 8.3% vs 5.3%,
(p=0.615) at 6 months.
Conclusions: Intracoronary bolus-only abciximab, in providing high local drug concentration, achieved
similar efficacy and safety outcomes as standard intravenous bolus and infusion abciximab and may be considered
a more cost-effective regimen during PPCI.
Key words: STEMI, Abciximab, Intracoronary

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiệu quả của abciximab, một chất ức chế thụ
thể glycoprotein IIbIIIa đơn dòng, trên bệnh
nhân nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên
(NMCTCSTCL) có can thiệp mạch vành tiên
phát đã được chứng minh(5,6). Thông thường,
abciximab được sử dụng liều nạp (0,25 mg/kg)
qua đường tĩnh mạch theo sau bởi liều truyền

duy trì (0,125 μg/kg/phút) trong 12 giờ. Tuy
nhiên, tỉ lệ biến chứng chảy máu, đặc biệt là khi
sử dụng chung với heparin và các thuốc chống
kết tập tiểu cầu khác, đã được ghi nhận. Hơn
nữa, chi phí cao khi sử dụng liều chuẩn vẫn là
rào cản lớn ở các nước đang phát triển. Thực tế
cũng cho thấy rằng, sử dụng liều nạp
clopidogrel cao giúp cho hiệu quả ức chế tiểu
cầu đạt được nhanh chóng. Kết quả là truyền
duy trì abciximab sau thủ thuật can thiệp trở nên
ít quan trọng hơn.

10

So sánh với điều trị chuẩn “liều nạp và
truyền duy trì”, “liều nạp đơn thuần”cũng đã
cho thấy an toàn và hiệu quả ở bệnh nhân được
can thiệp mạch vành theo chương trình(1,2,4). Bên
cạnh đó, với mong muốn là thuận tiện hơn cho
thủ thuật can thiệp mạch vành, một số tác giả
cũng đã sử dụng phương pháp cho thuốc vào
thẳng động mạch vành cũng đã cho thấy hiệu
quả hơn nhiều khi so sánh với cách cho qua
đường tĩnh mạch(7). Trong nghiên cứu này,
chúng tôi trình bày tính an toàn và hiệu quả của
hai cách sử dụng abciximab ở bệnh nhân
NMCTCSTCL có can thiệp mạch vành tiên phát:
(1) liều nạp cố định, duy nhất bơm trực tiếp
mạch vành (fixed-dose, intracoronary bolusonly), và (2) liều nạp và truyền qua đường tĩnh
mạch hiệu chỉnh theo cân nặng (weight-adjusted

dose, intravenous bolus and infusion).


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu này là nghiên cứu tiến cứu.
Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2001 – 2008
tại Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đại học
Quốc gia Singapore (National University Heart
Centre, Singapore: NUHC, S). Trong đó, 2001 –
2008 là thời gian tuyển chọn bệnh nhân vào
nghiên cứu, 2008 là thời gian theo dõi đến các
tiêu chí lâm sàng, viết báo cáo nộp hội nghị.
Tiêu chuẩn chọn bệnh: tất cả các bệnh nhân
bị NMCTCSTCL được can thiệp mạch vành cấp
cứu và có sử dụng thuốc ức chế thụ thể IIbIIIa
với chất lượng hình ảnh chụp mạch vành rõ
ràng được tuyển chọn vào nghiên cứu. Các bệnh
nhân nguy cơ cao có chỉ định sử dụng thuốc ức
chế thụ thể IIbIIIa được chia ngẫu nhiên vào
nghiên cứu theo quy trình sau: Các bác sĩ được
chia trực cấp cứu theo chu kỳ 4 ngày, học viên
(Fellow) và các bác sĩ can thiệp được chia ngẫu
nhiên trực theo các bác sĩ này để học và làm cấp
cứu. Điều trị theo phác đồ nghiên cứu mới này
(bơm trực tiếp mạch vành thủ phạm với liều cố
định) chỉ được thực hiện khi thủ thuật có nghiên
cứu viên và chủ nhiệm đề tài mà thôi. Đối với
các thủ thuật viên khác, nếu bệnh nhân có chỉ
định sử dụng thuốc ức chế thụ thể IIb IIIa, họ

thực hiện theo đường quy ước như trong các
hướng dẫn lâm sàng hiện thời (liều nạp qua
đường tĩnh mạch và truyền duy trì). Đây có thể
hiểu là cách chọn ngẫu nhiên, nhưng không mù
đôi và chỉ đơn trung tâm.
Các bệnh nhân được chia thành 2 nhóm:
Nhóm A sử dụng liều nạp cố định abciximab 10
mg và bơm trực tiếp mạch vành; Nhóm B sử
dụng liều nạp 0,25 mg/kg qua đường tĩnh mạch
và truyền duy trì liều 0,125 μg/kg/phút liên tục
12 giờ sau thủ thuật.
Tất cả các bệnh nhân được sử dụng chống
kết tập tiểu cầu kép với liều nạp clopidogrel từ
300 mg đến 600 mg và aspirin 300 mg. Điều trị
chống tiểu cầu kép gồm aspirin 100 mg và
clopidogrel 75 mg tiếp tục được duy trì liên tục
ít nhất 1 tháng sau đó. Liều heparin không
không phân đoạn được hiệu chỉnh còn 50 đơn

Nghiên cứu Y học
vị/kg ở nhóm A, ngược lại liều chuẩn là 100
đơn vị/kg vẫn được sử dụng ở nhóm B. Dữ
liệu nghiên cứu được trình dưới dạng trung
bình ± độ lệch chuẩn. Sự khác biệt giữa các
biến số liên tục được phân tích theo phép kiểm
Student's t test bằng phần mềm thống kê SPSS
13 (SPSS inc., Chicago, Ill, USA). Sự khác biệt
giữa các biến số định tính được kiểm định
bằng phép kiểm Chi bình phương có hiệu
chỉnh chính xác Fisher khi cần.

Tiêu chuẩn loại trừ: các bệnh nhân cũng
được can thiệp tiên phát nhưng có sử dụng
thuốc ức chế thụ thể IIbIIIa hoặc nếu có nhưng
chất lượng hình ảnh chụp mạch không rõ ràng
để phân tích đều bị loại ra khỏi nghiên cứu.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có tất cả 195 bệnh nhân bị NMCTCSTCL
được can thiệp mạch vành tiên phát có sử dụng
thuốc ức chế thụ thể IIbIIIa được tuyển chọn vào
nghiên cứu. Nhóm A có 120 bệnh nhân (61,5%)
sử dụng liều nạp cố định abciximab 10 mg và
bơm trực tiếp mạch vành; Nhóm B có 75 bệnh
nhân (38,5%) sử dụng liều nạp 0,25 mg/kg qua
đường tĩnh mạch và truyền duy trì liều
0,125μg/kg/phút liên tục 12 giờ sau thủ thuật.
Các đặc điểm nhân chủng học và lâm sàng
của tất cả các bệnh nhân tham gia nghiên cứu
được trình bày trong bảng 1. Có tất cả 14
(7,2%) bệnh nhân chóang tim lúc nhập viện.
Bệnh nhân nam giới chiếm đa số trong mẫu
nghiên cứu. Thành phần chủng tộc tương
đồng ở hai nhóm nghiên cứu. Không có sự
khác biệt đáng kể về mặt lâm sàng ở hai nhóm
A và B cho tới trước thủ thuật chụp và can
thiệp mạch vành cấp cứu (bảng 1, 2).
Bảng 1
Tuổi (năm)
Hoa
Ấn

Chủng tộc
Malay
Khác
Nữ
Giới
Nam

Nhóm A
(IC, n = 120)
55,1 ± 11,1
73 (60,8%)
19 (15,8%)
18 (15,0%)
10 (9,2%)
14 (11,7%)
106 (88,3%)

Nhóm B
(IV, n = 75)
53,9 ± 10,3
49 (65,3%)
10 (13,3%)
12 (16,0%)
4 (5,4%)
7 (9,3%)
68 (90,7%)

p
NS
NS


11


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

Cân nặng (kg)
Tăng huyết
áp
Đái tháo
Yếu tố
đường
nguy cơ tim
RLLP máu
mạch
Hút thuốc
Yếu tố gia
đình

Nhóm A
Nhóm B
(IC, n = 120) (IV, n = 75)
71,4±9,3
69,1±8,3

p
NS


Nhánh
mạch (%)

Loại tổn
thương (%)

Số mạch
bệnh (%)
Sốc tim (%)

IC (%)

90.7
78.3

IV (%)

80

53 (44,2%)

36 (48,0%)

NS

36 (30,0%)

17 (22,7%)

40


58 (48,3%)
77 (64,1%)

42 (56,0%)
40 (53,3%)

20

2 (1,7%)

5 (6,7%)

60

0

TIMI 0

8.3 2.7

2.5

TIMI 1

TIMI 2

2.7

10.8


4

TIMI 3

Biểu đồ 1: Dòng chảy TIMI trước can thiệp

Bảng 2

LMCA
LAD
LCx
RCA
A
B1
B2
C
SVD
DVD
TVD
7,5

100

Nhóm A
(IC, n = 120)
0,8
65,0
4,2
30,0

0,0
7,5
51,7
40,8
50,0
32,5
17,5
6,7

Nhóm B
(IV, n = 75)
0,0
80,0
2,7
17,3
1,3
1,3
65,3
32,0
69,3
16,0
14,7
NS

p

100

90


92

IC (%)
IV (%)

90
80

NS

70
60
50
40
30

NS

20
10
0

0,02

Hình ảnh chụp mạch được phân tích và
đánh giá kỹ càng cho từng bệnh nhân. Bệnh
nhân bị 3 nhánh mạch vành ở nhóm A nhiều
hơn nhóm B. Động mạch liên thất trước là động
mạch vành thủ phạm trong đa số các trường
hợp. Hút huyết khối chọn lọc được sử dụng cho

những trường hợp nhiều huyết khối và chiếm
50,8% (n = 61) ở nhóm A và 65,3% (n = 49) ở
nhóm B với p = 0,05. Thời gian hoạt hóa cục máu
đông trong quá trình làm thủ thuật lần lượt là
293 giây ở nhóm A và 373 giây ở nhóm B.
Dữ liệu về dòng chảy TIMI trước và sau
thủ thuật được được trình bày ở các biểu đồ
1,2,3,4. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa dòng chảy TIMI ban đầu và sau thủ
thuật giữa 2 nhóm. Dòng chảy TIMI 3 sau can
thiệp đạt được ở hai nhóm lần lượt là 90,0% và
89,3% với p = 0,14.

TMP 0

1.7 2.7

0.8

TMP 1

TMP 2

1.3

7.5

4

TMP 3


Biểu đồ 2: Dòng chảy TIMI sau can thiệp
80

80

IC (%)

74.7

IV (%)

70
60

p=NS

50
40

21.3

30

12.5

20
10
0


1.7

1.3

TMP 0

5.8

2.7

TMP 1

TMP 2

TMP 3

Biểu đồ 3: Dòng chảy TIMI TMP sau thủ thuật
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
90 89.3
90
80

IC (%)
IV (%)

70
60

p=N


50
40
30
20
10
0

10
0
TIMI 0

2

0
TIMI 1

2.7
TIMI 2

8

TIMI 3

Biểu đồ 4: Dòng chảy TIMI sau thủ thuật không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Mức độ tưới máu cơ tim sau thủ thuật 2-3/3
(TIMI myocardial perfusion grade) đạt 92,5% và

12



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011
96,0% lần lượt ở 2 nhóm và không có khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p = 0,45). Tất cả các bệnh
nhân đều có đặt stent. Việc sử dụng stent cũng
không khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 2 nhóm
(stent thường ở nhóm A là 91,7% so với 97,3% ở
nhóm B; stent thuốc ở nhóm A là 8,3% so với
2,7% ở nhóm B, p = 0,13). Tỉ lệ biến chứng xuất
huyết, được định nghĩa theo phân loại TIMI,
thấp và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa hai nhóm. Khoảng 3% bệnh nhân ghi
nhận có giảm tiểu cầu.
Kết quả theo dõi sau 1 và 6 tháng được trình
bày ở biểu đồ 5;6 và bảng 3. Tỉ lệ các biến cố tim
mạch nặng tương tự ở 2 nhóm A và B theo thứ
tự lần lượt là 8,3% và 5,3%, p = 0.62. Có 2 bệnh
nhân ở nhóm A và 1 bệnh nhân ở nhóm B được
xác định (theo Academic Research Consortium)
tắc trong stent do huyết khối. Các biến cố này
xảy ra vào các tháng 1, 2 và 4 sau thủ thuật.
Không có trường hợp nào nghi ngờ huyết khối
trong stent khác được ghi nhận.
MACE

8.3
10
8
2.7


6
4
2
0
IC (%)

IV (%)

Biểu đồ 5: MACE lúc 30 ngày
MACE

8.3
10
5.3

8
6
4
2
0
IC(%)

IV(%)

Biểu đồ 6: MACE lúc 180 ngày
Bảng 3:
MACE

Nhóm A
(IC) n=120


Nhóm B
(IV) n=85

p

Nghiên cứu Y học
MACE

Nhóm A
(IC) n=120
Thời
Tử vong
7 (5,8%)
điểm 1 Nhồi máu cơ tim 1 (0,8%)
tháng
Tái thông mạch đích 2 (1,7%)
Tổng
10 (8,3%)
Thời
Tử vong
0 (0,0%)
điểm 6 Nhồi máu cơ tim 0 (0,0%)
tháng
Tái thông mạch đích 0 (0,0%)
Tổng
10 (8,3%)

Nhóm B
(IV) n=85

2 (2,7%)
0 (0,0%)
0 (0,0%)
2 (2,7%)
1 (1,3%)
0 (0,0%)
0 (0,0%)
4 (5,3%)

p

0,13

0,62

BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này, có một số kết quả
quan trọng được rút ra liên quan đến cách
thức sử dụng thuốc IIbIIIa cho các bệnh nhân
NMCTCSTCL có can thiệp mạch vành tiên
phát. Liều cố định 10mg duy nhất bơm trực
tiếp nội mạch vành cho thấy kết cục an toàn và
hiệu quả khi so sánh với liều nạp và liều duy
trì 12 giờ qua đường tĩnh mạch dựa theo cân
nặng của bệnh nhân. Điều này được minh
chứng qua kết quả chụp mạch sau can thiệp,
các biến cố tim mạch nặng, biến chứng chảy
máu giữa hai nhóm.
Đối với liều heparin ở hai nhóm nghiên
cứu, sở dĩ có sự khác biệt khá lớn ở 2 nhóm (50

UI/kg so với 100 UI/kg) là vì: các nghiên cứu
để hình thành hướng dẫn lâm sàng thường
được thực hiện trên bệnh nhân Âu hay Mỹ có
cân nặng khác xa người châu Á, nhất là các
nước Đông nam Á. Theo các nghiên cứu này,
liều heparine những năm đầu được cho ở liều
100 UI/Kg. Tuy nhiên, liều này khi áp dụng
trực tiếp trên bệnh nhân có khổ người nhỏ
thường thấy có tỉ lệ xuất huyết cao trên lâm
sàng (chẳng hạn: nghiên cứu EPILOG). Đó
cũng là lý do ra đời những nghiên cứu đa
trung tâm tại một số nước trong đó có các
nước châu Á. Singapore và một số nước châu
Á khác đã thực hiện nghiên cứu thêm về vấn
đề này (Nghiên cứu RAPOR)(3). Liều sau đó
được khuyến cáo cho các bệnh nhân có sử
dụng ức chế thụ thể IIbIIIa là liều heparine đã
phải hiệu chỉnh để giảm tỉ lệ xuất huyết nhưng
vẫn đạt ACT cần thiết. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, liều heparin hiệu chỉnh xuống còn

13


Nghiên cứu Y học
50 UI/kg nhưng ACT giảm đáng kể so với
nhóm chứng nhưng vẫn duy trì ở mức hiệu
quả và an toàn cho thủ thuật (293 giây ở nhóm
A và 373 giây ở nhóm B).
Các nghiên cứu ngẫu nhiên đã chứng minh

rằng sử dụng thích hợp abciximab có hiệu quả
làm giảm biến chứng thiếu máu cơ tim ở những
bệnh nhân can thiệp mạch vành nguy cơ cao(5,6).
Ở những nghiêu cứu này, liều nạp và liều duy
trì abciximab theo cân nặng được thử nghiệm so
sánh với giả dược. Kết quả là thuốc này đã trở
thành một điều trị chuẩn. Gần đây, liều nạp
abciximab bơm trực tiếp mạch vành trong can
thiệp mạch vành tiên phát đã cho thấy vượt trội
so với điều trị chuẩn qua đường tĩnh mạch trong
việc giảm kích thước vùng nhồi máu, giảm tắc vi
mạch và cải thiện tưới máu cơ tim(7). Cơ sở của
liệu pháp điều trị này là liều cao khu trú của của
abciximab khi cho trực tiếp qua mạch vành thủ
phạm có thể giúp thuốc hòa tan trong cục máu
trắng đang cản trở dòng chảy mạch vành, cùng
với các cơ chế nội sinh của cơ thể dễ dàng hòa
tan huyết khối và vi huyết khối tại vị trí tổn
thương thủ phạm và vi tuần hoàn ở phần xa
đoạn mạch.
Một giả thuyết khác đã được phát hiện là
liều duy nhất, bơm tiêm trực tiếp nội mạch
vành và không cần liều duy trì, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xuất viện sớm mà không
gây nguy hiểm cho bệnh(1,2,4). Lý do căn bản là
ở chỗ ức chế tiểu cầu tối ưu khi sử dụng các
thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb IIIa chỉ
cần thiết nhiều ở thời điểm can thiệp mạch
vành qua da trong khi các dụng cụ can thiệp
đang ở trong lòng mạch, khi chấn thương nội

mô mạch máu cao nhất, vỡ mảng xơ vữa và
hoạt hóa tiểu cầu xảy ra. Truyển tĩnh mạch
duy trì kéo dài sau thủ thuật có thể không cần
thiết với các kỹ thuật đặt stent với áp lực cao
và liệu pháp chống tiểu cầu kép liều cao. Một
tiến bộ khác của liều abciximab cố định và duy
nhất bơm trực tiếp mạch vành là giúp tránh
rắc rối mà liệu pháp này gây ra sau đó có thể

14

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011
gây ảnh hưởng đến việc rút sheath, tăng biến
cố mạch máu và chi phí điều trị chung.
Nghiên cứu của chúng tôi có một số hạn
chế cần phải lưu ý và rút kinh nghiệm. Đây là
một nghiên cứu đơn trung tâm. Mẫu nghiên
cứu nhỏ và có độ mạnh chưa cao. Đây không
phải là nghiên cứu ngẫu nhiên và việc dùng
liều cố định và duy nhất bơm trực tiếp mạch
vành hay dùng liều nạp và truyền tĩnh mạch
theo cân nặng là tùy thuộc vào cá nhân từng
thủ thuật viên.

KẾT LUẬN
Abciximab liều nạp cố định, bơm trực tiếp
mạch vành, giúp cung cấp nồng độ thuốc cao
khu trú, đã đạt được hiệu quả và an toàn tương
tự với điều trị chuẩn bằng liều nạp và truyền
tĩnh mạch theo cân nặng và có thể được xem

như là một điều trị hiệu quả và rẻ tiền hơn trong
can thiệp mạch vành tiên phát. Liều cố định duy
nhất bơm trực tiếp mạch vành là một giải pháp
khả thi thay thế cho liệu pháp điều trị chuẩn ở
những bệnh nhân can thiệp mạch vành tiên phát
nguy cơ cao. Các nghiên cứu ngẫu nhiên, mù
đôi, đa trung tâm và có đối chứng về cách tiếp
cận lý tưởng này nên được thực hiện để đánh
giá thêm tính hiệu quả và an toàn của liệu pháp.
Lời cảm ơn: Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến cô Lee
Jieying (NUHC, Singapore), người là cầu nối ngôn ngữ để tôi
thực hiện nghiên cứu. Tôi xin có lời cảm ơn sâu sắc đến Gs Tan
Huay Cheem (NUHC,Singapore) đã tận tình hướng dẫn và chỉ
dạy cho tôi thực hiện và trình bày thành công nghiên cứu tại hội
nghị chuyên nghành can thiệp qua ống thông tại San_Francisco,
Hoa Kỳ, năm 2009 (Oral presentation, REF: 09-A-1468CRF_04743, TCT2009).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

Bertrand OF, De Larochellière R, Rodés-Cabau J, et al (2006).
Early Discharge After Transradial Stenting of Coronary
Arteries Study Investigators. A randomized study comparing
same-day home discharge and abciximab bolus only to
overnight hospitalization and abciximab bolus and infusion
after transradial coronary stent implantation. Circulation; 114:
2636-2643.
Kini AS, Chen VH, Krishnan P, et al (2008). Bolus-only versus

bolus + infusion of glycoprotein IIb/IIIa inhibitors during
percutaneous coronary intervention. Am Heart J; 156: 513519.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 1 * 2011
3.

4.

5.

Poh KK, Tan HC, Yip JWL, Lim YT (2005). ReoPro
Observational Registry: insights from the multicentre use of
abciximab in Asia RAPOR. Singapore Med J; 46(8):407-413.
Montalescot G, Barragan P, Wittenberg O, et al(2001). Platelet
glycoprotein IIb/IIIa inhibition with coronary stenting for
acute myocardial infarction. N Engl J Med; 344: 1895-1903.
Marmur JD, Poludasu S, Agarwal A, et al (2006). Bolus-only
platelet glycoprotein IIb-IIIa inhibition during percutaneous
coronary intervention. J Invasive Cardiol; 18: 521-526.

Nghiên cứu Y học
6.

7.

Stone GW, Grines CL, Cox DA, et al (2002). Comparison of
angioplasty with stenting, with or without abciximab, in acute
myocardial infarction. N Engl J Med; 346: 957-966.
Thiele H, Schindler K, Friedenberger J, et al (2008).

Intracoronary compared with intravenous bolus abciximab
application in patients with ST-elevation myocardial
infarction undergoing primary percutaneous coronary
intervention:
the
randomized
Leipzig
immediate
percutaneous coronary intervention abciximab IV versus IC
in ST-elevation myocardial infarction trial. Circulation; 118:
49-57.

NHIỄM KHUẨN HUYẾT DO VI NẤM P. MARNEFFEI
Ở BỆNH NHÂN AIDS
Cao Ngọc Nga*, Nguyễn Lê Như Tùng**, Phạm Thị Hải Mến**, Nguyễn Duy Phong*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, phân tích kết quả điều trị, xác định tỉ lệ tử vong và
phân tích nguyên nhân tử vong nhiễm khuẩn huyết (NTH) do vi nấm Penicillium marneffei ở bệnh nhân AIDS,
nhập viện tại BV Bệnh Nhiệt Đới, TP Hồ Chí Minh.
Phương pháp: thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, chọn những bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS người lớn
cấy máu có P. marneffei (+)
Kết quả nghiên cứu: 137 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Sốt 92,7%; gan to 75,9%; lách to 68,6%;
hạch to 59,8%; thiếu máu 56,2%; đặc biệt có đến 59,1% bệnh nhân có sang thương da đặc hiệu. Bạch cầu máu
bình thường hoặc giảm chiếm đến 93,8%; trong đó có 84,9% bệnh nhân lymphô bào <1200 /ml máu. Tử vong
27,7%; có liên quan đến các yếu tố như bệnh diễn tiến nhanh (< 7 ngày), có các biểu hiện nặng như rối loạn tri
giác, suy hô hấp, suy thận, sốc (OR ≥ 4,4; p > 0,00).

ABSTRACT
P. MARNEFFEI SEPTISEMIA IN THE HIV/AIDS PATIENTS

Cao Ngoc Nga, Nguyen Le Nhu Tung, Pham Thi Hai Men, Nguyen Duy Phong
* Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 – No. 1 – 2011: 15 - 20
Objectives: To discribe characteristics of symptoms, laboratory tests; to analyse treatments’ results, to
specify fatality rate and to analyse causes of fatalities in AIDS patients with septicemia due to Penicillium
marneffei treated at the Hospital for Tropical Diseases.
Method: Study design: cross-sectional study. Study samples: HIV/AIDS patients with positive blood
culture.
Resulst: 137 patients were enrolled. Fever: 92.7%; hepatomegaly: 75.9%; spleenomegaly: 68.6%;
ardenopathy: 59.8%; anemia: 56.2%; specific skin lesion of Penicillium marneffei: 59.1%. White blood cells:
normal or decreased: 93.8%; among which 84.9% patients with lymphocytes <1200/ml. Deaths: 27.7%; related to
rapid progress (< 7 days), dispnea, renal falure, septic shock (OR ≥ 4.4; p > 0.00).

* Bộ môn Nhiễm – ĐH Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Cao Ngọc Nga

** Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TP. HCM
ĐT: 0909755831
Email:

15



×