Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin, giải pháp nhằm tăng cường tối đa khả năng ghép cho các ca ghép thận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.53 KB, 9 trang )

t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018

XÂY DỰNG NGÂN HÀNG DỮ LIỆU THÔNG TIN, GIẢI PHÁP
NHẰM TĂNG CƯỜNG TỐI ĐA KHẢ NĂNG GHÉP
CHO CÁC CA GHÉP THẬN
Phạm Lê Nhật Minh1,2; Nguyễn Thị Thu Hoài2
Trần Văn Bảo1; Nguyễn Trường Sơn1
TÓM TẮT
Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin của người cho - nhận thận, từ đó thực hiện các phản
ứng hòa hợp ảo dựa trên cơ sở dữ liệu này để chọn được cặp người nhận - cho thận phù hợp
nhất chính là giải pháp tối ưu đang được nhiều nước trên thế giới tiến hành. Phản ứng hòa hợp
ảo (virtual crossmatch) trong ghép thận được hiểu là phương pháp dự đoán kết quả hòa hợp
giữa người cho và nhận thận bằng cách so sánh và đối chiếu kết quả xét nghiệm kháng thể
kháng lại kháng nguyên bạch cầu người của người nhận với kết quả kháng nguyên bạch cầu
người của người cho. Phản ứng hòa hợp ảo giúp tiết kiệm thời gian, khối lượng công việc tại
phòng xét nghiệm miễn dịch ghép tạng và có độ chính xác tương đối cao. Ngoài ra, phản ứng
hòa hợp ảo giúp dự đoán các trường hợp ghép thận từ người cho chết não hoặc ngừng tuần
hoàn, đặc biệt phát huy hiệu quả trong trường hợp hoán đổi thận.
* Từ khóa: Phản ứng hòa hợp ảo; Kháng nguyên bạch cầu người; Kháng thể kháng lại
kháng nguyên bạch cầu người; Hoán đổi người cho - nhận thận.

Building Up a Bank of Data on Kidney Donor and Recipient, an Effective
Solution to Maximize the Opportunities for Transplanted Patients
Summary
Building up a bank of data on kidney donor and recipient and then, based on this database
to apply virtual crossmatch to find out the optimal compatible pair of donor-recipient for kidney
transplantation, is now considered as an effective solution to maximize the opportunities for
transplanted patients in the world. Virtual crossmatch is defined as the ability to predict the
outcome of the final crossmatch based on HLA antibody screening and HLA identification by
comparing the recipient anti-HLA antibodies with the donor HLA-alleles. The virtual crossmatch
decreases the workload in HLA-laboratories and facilitates the organ allocation. The virtual


crossmatch is considered as a reliable method to predict the outcome of pre-transplantation
crossmatch between live recipient and deceased donor, especially with cases on kidney paired
donation exchange.
* Key words: Virtual crossmatch; Human leucocyte antigen; Anti-HLA antibodies; Kidney
paired donation exchange.
1. Bệnh viện Chợ Rẫy
2. Trường Đại học Quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh
Người phản hồi (Corresponding): Phạm Lê Nhật Minh ()
Ngày nhận bài: 10/08/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/09/2018
Ngày bài báo được đăng: 02/10/2018

35


t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép tạng là một trong mười thành
tựu vĩ đại của nhân loại. Ghép tạng nói
chung hay ghép thận nói riêng là giải
pháp cứu sống bệnh nhân (BN), đặc biệt
BN ở giai đoạn cuối của bệnh, là lựa chọn
cuối cùng và mang lại chất lượng cuộc
sống tốt nhất cho BN so với những giải
pháp điều trị khác.
Trên thế giới, tại một số nước phát
triển, việc hiến thận từ người cho không
cùng huyết thống, từ BN chết não, ngừng
tuần hoàn hoặc những trường hợp hoán
đổi thận từ người sống chiếm > 90% [4,
5]. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế

giới, số ca ghép thận không cùng huyết
thống tăng dần theo từng năm (năm 2012
là 77.818 ca, năm 2013 là 79.325 ca).
Tuy số ca ghép thận và tạng khác tăng
đều mỗi năm, nhưng hiện vẫn chỉ đáp
ứng chưa đến 10% nhu cầu ghép tạng và
vẫn còn > 90% BN chờ được ghép tạng
nói chung [6, 7].
Tại Việt Nam, tình hình hiến thận còn
khó khăn hơn nhiều. Nguồn đăng ký hiến
thận từ người cho sống rất ít so với nhu
cầu, đa số đăng ký hiến cho người thân
[1, 2, 3]. Những trường hợp hiến thận từ
người cho chết não, ngừng tuần hoàn
càng hiếm hơn và thường phải trải qua
quá trình thuyết phục, vận động rất khó
khăn so với các nước khác trên thế giới.
Hiện nay, chúng ta vẫn chưa có phần
mềm quản lý cơ sở dữ liệu và tìm sự phù
hợp về mặt miễn dịch giữa người cho nhận tạng. Do vậy, xét nghiệm tìm sự phù
hợp giữa người cho - nhận thận vẫn còn
nhiều hạn chế và mất rất nhiều thời gian.
Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào
để tăng thêm cơ hội được ghép thận đối
36

với những trường hợp chờ nhận thận,
đặc biệt mở rộng các hình thức hoán đổi
thận cho nhau ở các cặp người cho nhận thận không phù hợp?.
Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin

của người cho - nhận thận, từ đó thực
hiện các phản ứng hòa hợp ảo dựa trên
cơ sở dữ liệu này để chọn được cặp
người nhận - cho thận phù hợp nhất
chính là giải pháp tối ưu đang được các
nước phát triển trên thế giới tiến hành
hiện nay.
GHÉP THẬN VÀ VIỆC ỨNG DỤNG
NGÂN HÀNG DỮ LIỆU THÔNG TIN
1. Trên thế giới.
Nghiên cứu của Paolo Ferrari tại Úc,
một trong những nơi áp dụng thành công
chương trình phản ứng hòa hợp ảo: phản
ứng hòa hợp ảo được thực hiện bởi máy
tính trên nền cơ sở dữ liệu của người cho
- nhận thận không phù hợp đã tạo thêm
nhiều cơ hội cho những người chờ nhận
thận tìm được người cho phù hợp ở mức
cao nhất, đặc biệt tạo thêm nhiều cơ hội
nhận thận của BN có độ nhạy cảm cao.
Tác giả thực hiện trên 53 cặp người cho nhận thận không phù hợp và 2 người cho
thận nhân đạo, kết quả sau khi áp dụng
phản ứng hòa hợp ảo cho thấy có 20 BN
(38%) tìm được người cho phù hợp và
được ghép thận theo chương trình hoán
đổi thận cho nhau, trong đó 35% BN có
PRA (Panel Reactive Antibody) > 90%
[8, 9, 10].
Theo Kristiaan Glorie, từ khi được
chấp nhận vào năm 1986 đến nay,

chương trình hoán đổi thận với sự hỗ trợ
của phản ứng hòa hợp ảo đã được áp
dụng ở nhiều nước trên thế giới nhằm tối


t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
ưu hóa cơ hội nhận thận của BN với
nhiều ưu điểm vượt trội, đồng thời việc
hoán đổi thận cho nhau đang thực hiện
trên quy mô quốc tế với người cho và
người chờ nhận thận sinh sống tại hai
quốc gia khác nhau [11].
Massie (Trường Đại học Johns Hopkins)
nhận xét: số lượng ca phẫu thuật ghép
thận từ chương trình hoán đổi thận tăng
dần theo từng năm với tỷ lệ tăng trưởng
3,2 lần (từ 494 ca lên 1.593 ca) nhờ mô
hình ghép thận đa trung tâm và chia sẻ
nguồn dữ liệu về người hiến và người
chờ nhận thận [12]. Gentry và CS (Khoa
Y, Trường Đại học Johns Hopkins) cho
rằng, nếu trước đây, chương trình hoán
đổi thận gặp một số hạn chế do bất đồng
nhóm máu giữa người cho thận, việc này
sẽ được cải thiện nếu có cặp người cho nhận thận phù hợp tham gia vào chương
trình hoán đổi thận sẽ tạo thêm nhiều cơ
hội cho người chờ nhận thận tìm được
người cho phù hợp. Theo quy mô quốc
gia, nếu có sự tham gia của những cặp
người cho - nhận thận phù hợp sẽ tạo cơ

hội cho cả nghìn người được ghép thận
so với việc không có sự tham gia của họ
[13].
Nhu cầu về ghép thận đang ngày một
gia tăng trên thế giới. Do vậy, việc xây
dựng một chiến lược mang tầm vóc quốc
gia trong điều phối cấy ghép thận cũng
như hoán đổi thận luôn là đích đến của
nhiều nước trên thế giới. Các quốc gia có
dân số ít như Hà Lan, Canada, Úc… đều
đã xây dựng chương trình quốc gia về
điều phối ghép tạng. Các trung tâm điều
phối về cấy ghép tạng có thể chia sẻ dữ
liệu cho nhau để tăng thêm cơ hội ghép
tạng cho BN, đồng thời giảm thời gian

chờ nhận tạng, nhằm giúp BN có chất
lượng cuộc sống tốt hơn [10].
2. Tại Việt Nam.
Theo số liệu thống kê tại Bệnh viện
Chợ Rẫy, phần lớn những trường hợp
đăng ký hiến và nhận thận là người cùng
huyết thống hoặc có quan hệ với người
nhận. Nếu tất cả các xét nghiệm ghép
tạng đều phù hợp thì cuộc phẫu thuật cho
- nhận thận sẽ tiến hành. Ngược lại, nếu
các xét nghiệm không phù hợp, họ phải
tìm một người cho thận mới. Việc này
mất rất nhiều thời gian và đôi khi người
chờ nhận thận sẽ mất luôn cơ hội ghép

thận vì không thể chờ quá lâu, trong khi
tình trạng suy thận mạn ngày càng tiến
triển nặng.
Đối với nguồn thận được hiến từ
người cho chết não hoặc ngừng tuần
hoàn cũng gặp khó khăn khi chọn người
nhận phù hợp. Giới hạn về thời gian từ
khi quả thận được lấy ra khỏi cơ thể BN
phải được ghép vào cơ thể mới càng
sớm càng tốt là một thách thức rất lớn đối
với người làm công tác ghép thận. Tất cả
giai đoạn tra cứu về phù hợp HLA của
người nhận và người cho, đối chiếu kết
quả kháng thể kháng HLA của người
nhận với kết quả HLA của người cho để
tìm người nhận phù hợp đều phải tiến
hành thủ công. Khi chọn được người
nhận thích hợp, việc mời họ đến bệnh
viện để xét nghiệm tìm sự phù hợp thật
sự giữa người cho và nhận thận mất rất
nhiều thời gian, ảnh hưởng đến quá trình
ghép thận.
Tại Việt Nam, hiện vẫn chưa có phần
mềm quản lý cơ sở dữ liệu và tìm sự phù
hợp về mặt miễn dịch giữa người cho nhận tạng. Do vậy, cần xây dựng phần
37


t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
mềm thiết kế mô phỏng để quản lý dữ liệu

của người cho - nhận thận và tìm sự phù
hợp về miễn dịch như nhóm máu hệ
ABO, Rhesus, HLA, kháng thể kháng
HLA… giữa người cho và người nhận
thận. Những người trong danh sách cho
thận còn sống, khoẻ mạnh hoặc nguồn
thận từ BN chết não, ngừng tuần hoàn
sau khi đã kiểm tra, tuyển chọn sẽ được
thực hiện các xét nghiệm liên quan đến
ghép thận như nhóm máu hệ ABO,
Rhesus, HLA... Tất cả kết quả lưu trong
chương trình quản lý và thường xuyên
được cập nhật.
XÂY DỰNG NGÂN HÀNG
DỮ LIỆU THÔNG TIN
1. Xây dựng cơ sở dữ liệu về người
cho - nhận thận.
Yếu tố then chốt để có thể chọn được
cặp người cho - nhận thận phù hợp từ
những cặp không phù hợp về mặt miễn
dịch ghép trước đó là cần phải xây dựng
cơ sở dữ liệu bao gồm: thông tin cá nhân,
kết quả nhóm máu, HLA của người cho,
người nhận; kết quả kháng thể kháng
HLA của người nhận. Ngoài ra, có thể bổ
sung những thông tin khác như: độ tuổi,
nơi sinh sống của người cho và người
nhận hoặc bệnh viện, trung tâm mà người
cho, nhận đăng ký hiến - nhận thận, cụ
thể như sau.

2. Xây dựng chương trình “thiết kế
mô phỏng”.
Chương trình được xây dựng trên cơ
sở ứng dụng kiến thức tin - sinh học vào
trong lĩnh vực y khoa để xây dựng ngân
hàng dữ liệu thu thập tất cả thông tin, kết
quả liên quan đến người cho thận và
người nhận thận với mục đích chọn được
cặp người cho và người nhận phù hợp
38

nhất về mặt miễn dịch để ghép thận và sử
dụng hiệu quả nhất nguồn thận được hiến
từ người sống hoặc người cho chết não,
ngừng tuần hoàn.
Trên thế giới đã áp dụng một hình
thức dự đoán kết quả hòa hợp trong ghép
thận gọi là phản ứng hòa hợp ảo trong
ghép thận nhằm gia tăng thêm nhiều cơ
hội cho những trường hợp chờ nhận thận.
Phản ứng hòa hợp ảo (virtual
crossmatch) trong ghép thận được hiểu là
phương pháp dự đoán kết quả hòa hợp
giữa người cho và nhận thận bằng cách
so sánh và đối chiếu kết quả xét nghiệm
kháng thể kháng lại kháng nguyên bạch
cầu người HLA (anti-HLA: Anti Human
Leucocyte Antigen) của người nhận với
kết quả kháng nguyên bạch cầu người
(HLA) của người cho để tìm xem có hay

không sự hiện diện của kháng thể chuyên
biệt ở người cho (DSA: Donor Specific
Antibody), vì kháng thể này xuất hiện
được xem là một chỉ thị cho hiện tượng
thải ghép qua trung gian kháng thể cũng
như đe dọa sự tồn tại của mảnh ghép.
Việc kết hợp so sánh kết quả xét nghiệm
khác như HLA, nhóm máu của người
nhận và người cho, có thể dự đoán phản
ứng hòa hợp trước ghép thận là âm tính
hoặc dương tính. Phản ứng hòa hợp ảo
âm tính cho thấy nguy cơ thải ghép thấp,
đồng thời dự hậu sự tồn tại lâu dài của
mảnh ghép trong cơ thể người nhận.
Ngược lại, phản ứng hòa hợp ảo dương
tính sẽ dự hậu cho nguy cơ thải ghép cao
và tỷ lệ nghịch với thời gian tồn tại của
mảnh ghép.
Phản ứng hòa hợp ảo giúp tiết kiệm
thời gian và khối lượng công việc tại
phòng xét nghiệm miễn dịch ghép tạng và
có độ chính xác tương đối cao. Ngoài ra,


t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
phản ứng hòa hợp ảo giúp dự đoán trong
những trường hợp ghép thận từ người
cho chết não hoặc ngừng tuần hoàn, đặc
biệt phát huy hiệu quả trong trường hợp
hoán đổi tạng cho nhau (KPD: Kidney

Paired Donation exchange), một giải pháp
hiệu quả cho phép các cặp người cho nhận thận không phù hợp về mặt miễn
dịch được hoán đổi với nhau để tìm ra
người nhận - cho thận tiềm năng, phù hợp
về miễn dịch và không có sự hiện diện
của DSA để tiến hành ghép thận [14].
3. Dữ liệu về nhóm máu.
Cặp người cho - nhận thận phải phù
hợp về nhóm máu ABO. Người cho có
nhóm O có thể cho người nhận có các
nhóm máu khác
4. Dữ liệu kết quả HLA và kháng thể
kháng HLA.
Người cho phải được xét nghiệm HLA
bằng kỹ thuật có độ phân giải cao cho các
locus HLA-A, -B, -Cw, -DRB1, -DPB1 và DQB1. Tốt nhất, nên sử dụng kỹ thuật
sinh học phân tử để định danh các locus
trên. Nếu có thể, nên xét nghiệm thêm các
locus HLA-DQA1, -DRB3, -DRB4 và -DRB5.
Người nhận phải được xét nghiệm
kháng thể kháng HLA ở cả hai lớp I và II
bằng kỹ thuật pha rắn, trong đó kỹ thuật
Luminex được khuyến nghị sử dụng do
có độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Các kỹ
thuật pha rắn đã và đang thay thế dần kỹ
thuật dựa trên tế bào và là “tiêu chuẩn
vàng” cho xét nghiệm định lượng kháng
thể kháng HLA. Kháng thể kháng HLA
được phát hiện trong huyết thanh người
nhận có chỉ số cường độ huỳnh quang

trung bình (MFI: Mean Fluorescence
Intensity) > 500 được ghi nhận là dương
tính. Đối với người nhận có độ nhạy cảm

cao, chỉ chấp nhận đưa vào chương trình
hoán đổi thận nếu chỉ có 1 alen của
1 locus không phù hợp với người cho
tương lai.
5. Tối ưu hóa chọn cặp người cho nhận thận phù hợp.
Ưu tiên chọn cặp người cho - nhận thận
phù hợp về nhóm máu, phù hợp các alen
của locus chính như HLA-DR, -B, -A
nhiều nhất; người nhận có kết quả antiHLA âm tính hoặc không có DSA. Ngoài
ra, có thể chọn thêm các điều kiện như:
độ tuổi, cùng một trung tâm ghép thận,
phạm vi sống của cặp người cho và nhận
gần nhau…
Với cơ sở dữ liệu về người cho - nhận,
máy tính sẽ chọn ra người cho - nhận thận
phù hợp nhất với các tiêu chí nêu trên.
Cặp người cho - nhận thận không phù
hợp ở vị trí đầu tiên của danh sách chờ
máy tính sẽ ưu tiên chọn trước. Cặp
người cho - nhận thận ở vị trí thứ hai
trong danh sách sẽ tiến hành tương tự,
việc tìm kiếm người cho - nhận thận thực
hiện cho đến khi không tìm được người
cho - nhận thận phù hợp. Sau khi đã chọn
xong, tiến hành làm phản ứng hòa hợp
trong phòng thí nghiệm để khẳng định và

kết quả phản ứng hòa hợp phải là âm tính
để thực hiện ghép thận. Với những cặp
được chọn có kết quả âm tính, tiến hành
lên kế hoạch ghép thận, đồng thời thông
tin của những người này sẽ đưa ra khỏi
danh sách chờ. Bằng cách này, định kỳ,
cơ sở dữ liệu được bổ sung thêm thông
tin của cặp người cho - nhận thận mới,
khi đó máy tính sẽ tiến hành chọn lựa một
lần nữa để chọn ra cặp người cho nhận thận phù hợp nhất với cơ sở dữ liệu
vừa bổ sung.
39


t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
6. Các phương cách hoán đổi để chọn
lựa các cặp cho - nhận thận tối ưu.
Ý tưởng hoán đổi thận được Felix
Rapaport đề xuất năm 1986, đến năm
1991, ca hoán đổi thận đầu tiên thực
hiện tại Hàn Quốc. Sau đó, các nước
châu Âu và Mỹ cũng bắt đầu thực hiện
và mở rộng số ca hoán đổi thận trên thế
giới [15]. Theo Adam W Bingaman (2010),
khoảng 6.000 người trong danh sách chờ
nhận thận ở Mỹ đã tìm được người cho

thận sống phù hợp nhờ chương trình
hoán đổi thận. Qua đó cho thấy, việc
hoán đổi thận ghép giữa những cặp

người cho - nhận thận là một giải pháp
hiệu quả, ít tốn kém hơn các phương
pháp giải mẫn cảm khác.
Có nhiều phương cách hoán đổi để
lựa chọn cặp người cho - nhận thận tối
ưu, dưới đây là một số phương cách
chọn phổ biến, hầu hết đang áp dụng
rộng rãi tại các nước trên thế giới:

Phương cách đổi 3 chiều

Phương cách đổi kiểu liệt kê

Phương cách đổi 2 chiều

Phương cách đổi theo kiểu Domino

Phương cách đổi có sự tham gia của
cặp phù hợp

Phương cách đổi kiểu chuỗi NEAD

Hình 1: Các phương cách hoán đổi thận để chọn cặp cho - nhận thận tối ưu [15].
(Nguồn: Bradley Wallis và CS, 2011)
40


t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
- Phương cách (A): hai cặp người cho
- nhận thận không phù hợp đổi chéo với

nhau còn gọi là đổi hai chiều.
- Phương cách (B): đổi 3 chiều giữa ba
cặp người cho - nhận thận không phù
hợp.
- Phương cách (C): đổi theo dạng tuần
tự, trong đó người cho khác nhóm máu
với người nhận ở cặp đầu tiên sẽ hiến
tạng cho người nhận phù hợp trong danh
sách chờ nhận thận theo thứ tự, sau đó
người nhận sẽ đưa vào danh sách ưu
tiên chờ nhận thận khi có người cho phù
hợp.
- Phương cách (D): được thiết kế
giống domino, người cho thận nhân đạo
sẽ hiến thận cho người nhận ở cặp thứ
nhất, sau đó người cho ở cặp thứ nhất sẽ
tiếp tục chuỗi này hoặc hiến thận cho
người nhận trong dánh sách chờ nhận
thận.
- Phương cách (E): vận động một cặp
người cho - nhận thận phù hợp tham gia
vào chương trình hoán đổi thận để giúp
giải quyết những trường hợp khó tìm
người cho - nhận thận phù hợp.
- Phương cách (F): giống một phần với
phương cách domino, tuy nhiên, người
cho ở chuỗi thứ nhất sẽ làm cầu nối và
chờ để hiến cho người nhận phù hợp ở
chuỗi thứ hai.
7. Thiết lập ngân hàng dữ liệu

thông tin trong ghép thận.
Đối với những trường hợp người cho
thận là BN chết não, ngừng tuần hoàn,
sau khi thân nhân BN hoặc chính BN
đồng ý hiến thận trước khi qua đời và
được Hội đồng Ghép tạng chấp thuận,
phòng xét nghiệm sẽ lấy mẫu máu của

BN để thực hiện các xét nghiệm ghép
tạng như nhóm máu hệ ABO, Rhesus,
HLA… Sau khi có kết quả, kỹ thuật viên
xét nghiệm nhập vào chương trình quản
lý. Máy tính sẽ chọn ra những người có
kết quả nhóm máu hệ ABO, Rhesus,
HLA, kháng thể kháng HLA phù hợp nhất
với kết quả miễn dịch của người cho
thận. Tiếp theo, kỹ thuật viên xét nghiệm
thực hiện phản ứng hòa hợp thực tế giữa
mẫu huyết thanh của người trong danh
sách chờ nhận thận đã được chọn với tế
bào lympho B và T của người cho thận.
Những trường hợp có kết quả hòa hợp
âm tính sẽ chọn và gửi về cho Hội đồng
Ghép tạng để tiếp tục chọn lựa người phù
hợp tối ưu nhất cho ghép thận.
Đối với những trường hợp người cho
thận cùng huyết thống với người nhận
cũng tiến hành như trên. Nếu kết quả xét
nghiệm của người cho thận và người
nhận thận có cùng huyết thống không

phù hợp với nhau, chương trình sẽ tự
động tìm trong cơ sở dữ liệu sẵn có
người chờ nhận thận và người cho thận
có kết quả phù hợp miễn dịch với cặp
người cho và nhận thận. Bác sỹ điều trị
sẽ mời các cặp đôi đến để trao đổi hoán
đổi thận cho nhau, nếu họ đều đồng ý, xét
nghiệm hòa hợp chéo giữa người cho và
nhận thận sẽ thực hiện để tìm sự phù
hợp thật sự trước khi tiến hành ghép.
Nếu kết quả hòa hợp chéo âm tính đối
với cả hai cặp người cho và nhận thận,
cuộc phẫu thuật lấy thận và ghép thận
giữa hai cặp sẽ diễn ra cùng một thời
điểm tại cùng một bệnh viện [14].
Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, từ tháng 3 2018, chúng tôi đã bắt đầu xây dựng
ngân hàng dữ liệu thông tin của người
41


t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
cho - nhận thận, cũng như chương trình
thiết kế mô phỏng để tiến hành phản ứng
hòa hợp ảo nhằm tìm ra cặp người cho nhận thận phù hợp trên nền cơ sở dữ liệu
thu thập được.

trước đó. Đã đến lúc cần phải áp dụng
chương trình này tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO


KẾT LUẬN

1. Phạm Gia Khánh. Tiến bộ ghép tạng ở
Việt Nam: từ giấc mơ đến hiện thực. Tạp chí
Y học TP. Hồ Chí Minh. 2016, 20 (4), tr.1-5.

Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin
của người cho - nhận thận được xem là
vấn đề quan trọng hàng đầu với những
thông tin cơ bản như:

2. Trần Ngọc Sinh. Phát triển thêm trung
tâm ghép tạng ở nước ta, vấn đề chiến lược.
Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 2016, 20 (4),
tr.6-9.

- Thông tin cá nhân của người cho nhận thận.

3. Dư Thị Ngọc Thu, Nguyễn Trọng Hiền,
Nguyễn Thị Thái Hà, Trần Trọng Trí, Hoàng
Khắc Chuẩn, Châu Quý Thuận, Dương
Quang Vũ, Thái Minh Sâm, Chu Văn Thuận,
Trần Ngọc Sinh. Người hiến tạng chết não:
các trường hợp đầu tiên tại Việt Nam. Kỷ yếu
Công trình ghép thận. Bệnh viện Chợ Rẫy
2011 - 2016. 2016, tr.118-120.

- Kết quả xét nghiệm nhóm máu của
người cho - nhận thận.
- Kết quả HLA của người cho - nhận thận

thực hiện bằng các kỹ thuật có độ phân
giải cao.
- Kết quả kháng thể kháng HLA của
người nhận thận được thực hiện bằng
các kỹ thuật pha rắn như kỹ thuật
Luminex để tăng độ nhạy và độ đặc hiệu.
Bằng việc ứng dụng phản ứng hòa
hợp ảo trong ghép thận dựa trên cơ sở
dữ liệu của ngân hàng dữ liệu thông tin,
người ta đã tạo thêm nhiều cơ hội cho
những cặp người cho - nhận thận: sớm
tìm được người nhận - người cho phù
hợp, an toàn để có thể ghép thận ngay;
sử dụng hiệu quả nguồn thận hiến, giải
quyết phần nào tình trạng khan hiếm
thận, ngăn ngừa tình trạng buôn bán
thận…
Nhiều kết quả thuyết phục được ghi
nhận trên thế giới đã chứng minh hiệu
quả của chương trình này. Ngoài ra, nếu
có thêm các cặp người cho - nhận phù
hợp tham gia vào chương trình hoán đổi
thận sẽ gia tăng thêm cơ hội cho người
chờ nhận thận ở các cặp không phù hợp
42

4. Vivek B Kute, Aruna V Vanikar, Pankaj
R Shah, Manoj R Gumber, Himanshu V Patel,
Divyesh P Engineer, Pranjal R Modi, Veena
R Shah, Hargovind Trivedi. Review article:

Increasing access to kidney transplantation in
countries with limited resources: The Indian
experience with kidney paired donation.
2014 Asian Pacific Society of Nephrology.
Nephrology. 2014, 19, pp.599-604.
5. Vivek B Kute, Priyadarshini S Shah,
Aruna V Vanikar, Manoj R Gumber, Himanshu
V Patel, Divyesh P Engineer, Pankaj R Shah,
Pranjal R Modi, Veena R Shah, Syed Jamal
Rizvi, Hargovind L Trivedi. Increasing access
to renal transplantation in India through our
single-center kidney paired donation program:
A model for the developing world to prevent
commercial transplantation. Steunstichting ESOT.
2014, 27, pp.1015-1021.
6. WHO. Donation and transplantation.
2012.
7. WHO. Donation and transplantation.
2013.


t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
8. Paolo Ferrari, Willem Weimar, Rachel J
Johnson, Wai H Lim, Kathryn J Tinckam.
Kidney paired donation: Principles, protocols
and programs. Nephrol Dial Transplant. 2015,
30, pp.1276-1285.
9. P Ferraria, S Fidler, J Wrightf, C
Woodroffe, P Slater, A Van Althuis-Jones,
R Holdsworth, F.T Christiansen. Virtual

crossmatch approach to maximize matching
in paired kidney donation. American Journal
of Transplantation. 2011, 11, pp.272-278.
10. Paolo Ferrari, Samantha Fidler, Rhonda
Holdsworth, Claudia Woodroffe, Gabriella
Tassone, Narelle Watson, Linda Cantwell,
Greg Bennett,
Alycia Thornton, Frank T
Christiansen, Lloyd D’Orsogna. High transplant
rates of highly sensitized recipient s with
virtual crossmaching in kidney paired donation.
Transplantation. 2012, 94, pp.744-749.
11. Kristiaan Glorie, Bernadette HaaseKromwijk, Joris van de Klundert, Albert
Wagelmansand Willem Weimar. Review:

Allocation and matching in kidney exchange
programs. Transplant International. Steunstichting
ESOT. 2014, 27, pp.333-343.
12. Massiea, S.E Gentry, R.A Montgomerya,
A.A Bingamand, D.L Segev. Center-level
utilization of kidney paired donation.
American Journal of Transplantation. 2013,
13, pp.1093-1322.
13. S.E Gentry, D.L Segeva, M Simmerling,
R.A Montgomery. Expanding kidney paired
donation through participation by compatible
pairs. American Journal of Transplantation.
2007, 7, pp.2361-2370.
14. Guillermo Garcia Garcia, Paul Harden,
Jeremy Chapman. Global role of kidney

transplantation. Hong Kong Journal of
Nephrology. 2012, 14, pp.1-6.
15. Bradley Wallis, Kannan P Samy, Alvin
E Roth, Michael A Rees. Kidney paired
donation. Nephrol Dial Transplant. 2011, 26,
pp.2091-2099.

43



×