Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu sự bộc lộ một số dấu ấn hóa mô miễn dịch và liên quan của chúng với các yếu tố tiên lượng trong ung thư vú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.1 KB, 8 trang )

NGHIÊN CỨU SỰ BỘC LỘ MỘT SỐ DẤU ẤN HÓA MÔ MIỄN DỊCH
VÀ LIÊN QUAN CỦA CHÚNG VỚI CÁC YẾU TỐ TIÊN LƢỢNG
TRONG UNG THƢ VÚ
Đặng Công Thuận*, Trần Văn Hợp**, Lê Đình Roanh***

TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu sự bộc lộ một số dấu ấn hoá mô miễn dịch và liên quan của chúng với các yếu tố
tiên lượng khác.
Phương pháp: 181 trường hợp ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập được nghiên cứu sự bộc lộ một số
dấu ấn hoá mô miễn dịch và liên quan của chúng với các yếu tố tiên lượng khác.
Kết quả: Nhóm tuổi mắc bệnh cao nhất là 40-49 tuổi (38,7%); U có kích thước từ >2 cm đến 5 cm là
hay gặp nhất (61,3%); Di căn hạch chiếm 40,9% các trường hợp; U có độ mô học II là 74,6% trường hợp.
Tỷ lệ dương tính với các dấu ấn miễn dịch ER, PR, Her-2/neu, Ki-67, PCNA, p53 và D2-40 lần lượt là:
55,2%; 39,2%; 44,2%; 52,5%; 74%; 43,6% và 16%. ER, PR có mối tương quan chặt chẽ với nhau
(p<0,001) và liên quan nghịch với Her-2/neu (p<0,01). Her-2/neu tương quan với các thụ thể steroid, với
các dấu ấn tăng sản tế bào, Ki-67 (p=0,011) và PCNA (p=0,017). Các dấu ấn tăng sản tương quan chặt chẽ
với nhau (p=0,005) và tương quan với Her-2/neu, p53, D2-40 (p<0,05). P53 tương quan nghịch với ER, Ki67 và PCNA. D2-40 chỉ tương quan với Ki-67 (r=0,162; p=0,029). Độ mô học tương quan có ý nghĩa với cả
7 dấu ấn sinh học. Nhóm tuổi chỉ tương quan với PR (r=-0,185; p=0,013). Tình trạng di căn hạch chỉ tương
quan với xâm nhập bạch mạch (r=0,178; p=0,016).

ABSTRACT
STUDY ON THE EXPRESSION OF SOME IMMUNOHISTOCHEMICAL MARKERS AND THEIR
RELATION WITH PROGNOSTIC FACTORS IN BREAST CANCER
Dang Cong Thuan, Tran Van Hop, Le Dinh Roanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 3 - 2007: 110 - 117
Objectives: Study on the expression of some immunohistochemical markers and their relations with
prognostic factors.
Method: One hundred and eighty one cases of female breast invasive carcinomas were studied for the
expression of some immunohistochemical markers and their relation with prognostic factors.
Results: Most patients are among the age of 41-49 (38,7%), the tumor size of >2-5 cm of cases. Lymph node
metastasis status presents at 40,9% of cases. SBR histological grade II was in highest rate (74,6%). Positive rates


with ER, PR, Her-2/neu, Ki-67, PCNA, p53 and D2-40 are 55,2%; 39,2%; 44,2%; 52,5%; 74%; 43,6% and 16%
of cases, respectively. ER, PR have an each other correlation (p<0,001) and invert correlation of Her-2/neu
(p<0,01). Her-2/neu correlated of steroid receptors and proliferative cell markers, Ki-67 (p=0,011) and PCNA
(p=1,017). The proliferative cell markers are correlated each other (p=0,005) and correlated of Her-2/neu, p53 and
D2-40 (p<0,05). P53 have an invert correlation of ER, Ki-67 and PCNA. D2-40 only show a statistically
significant correlation of Ki-67 (r=0,162; p=0,029). We found that there was a highly significant relation between
high histological grading and all the immunohistochemical markers. Age groups only correlated of PR (r= -0,185;
p=0,013). Lymph node status correlated of D2-40 (r=0,178; p=0,016).
* Bộ môn GPB - Đại học Y Huế
** Bộ môn GPB - Đại học Y Hà nội
*** Trung tâm nghiên cứu và phát hiện sớm ung thư


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú là ung thư thường gặp nhất và
là một trong những nguyên nhân chính gây tử
vong do ung thư ở phụ nữ.
Trên 30 năm qua, một số lượng các dấu ấn
tiên lượng tiềm tàng có liên quan đến các đặc
điểm sinh học hoặc sự tiến triển của ung thư vú
đã được nghiên cứu rộng rãi. Trong các dấu ấn
sinh học trong ung thư vú hiện nay, người ta có
xu hướng sử dụng các dấu ấn đo lường sự tăng
sản tế bào (Ki-67, PCNA) và các yếu tố liên
quan đến sự hoạt hoá plasminogen như là các
yếu tố tiên lượng và sử dụng tình trạng thụ thể
nội tiết steroid, Her-2/neu trong dự đoán đáp
ứng điều trị hỗ trợ và quản lý bệnh nhân ung
thư vú. Bên cạnh đó, p53 cũng là dấu ấn sinh

học được coi là có giá trị trong tiên lượng bệnh
và trong dự đoán đáp ứng điều trị hóa chất.
Với mục đích tìm hiểu giá trị dự đoán và tiên
lượng của các dấu ấn sinh học đang được quan
tâm trong ung thư vú; đồng thời đánh giá, tìm
mối tương quan giữa các yếu tố tiên lượng kinh
điển và các dấu ấn sinh học, chúng tôi tiến hành
đề tài này nhằm các mục tiêu sau:

Nghiên cứu Y học

- Có chẩn đoán mô bệnh học là ung thư
biểu mô tuyến vú thể ống xâm nhập.
- Đều được xét nghiệm 7 dấu ấn miễn dịch:
thụ thể estrogen (ER), thụ thể progesteron
(PR), Her-2/neu, Ki-67, PCNA, p53 và D2-40.

Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang

* Nghiên cứu về mô bệnh học
- Kỹ thuật mô học
Các bệnh phẩm được cố định trong formol
10%, sau đó chuyển, đúc trong paraffin, cắt và
nhuộm tiêu bản theo phương pháp nhuộm
Hematoxylin-Eosin (HE) thường quy.
- Cách đánh giá phân độ mô học
Áp dụng phân độ Scarff- Bloom Richardson cải biên bởi Elston và Ellis (1991).
Độ mô học được xếp như sau: Độ I, biệt
hoá rõ: 3-5 điểm; độ II, biệt hoá vừa: 6-7 điểm;

độ III, biệt hoá kém: 8-9 điểm.

* Nghiên cứu về hóa mô miễn dịch
-Kỹ thuật hóa mô miễn dịch
Nhuộm hoá mô miễn dịch theo phương
pháp phức hợp Avidin Biotin tiêu chuẩn.

1. Xác định các đặc điểm lâm sàng, mô học
và sự bộc lộ một số dấu ấn miễn dịch trong
ung thư biểu mô tuyến vú.

Địa điểm tiến hành
Khoa Giải phẫu bệnh - Đại học Stanford,
California, Hoa Kỳ.

2. Đánh giá mối liên quan và sự tương
quan giữa các yếu tố tiên lượng và các dấu ấn
sinh học.

Thời gian thực hiện
Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2006.

ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu gồm 181 bệnh nhân
ung thư biểu mô tuyến vú khám và điều trị tại
Bệnh viện K Hà nội.

Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
- Có ghi nhận các dữ kiện lâm sàng: họ tên,

tuổi, ngày vào viện, vị trí khối u<
- Được phẫu thuật cắt tuyến vú và phẫu
tích hạch nách.

- Cách đánh giá kết quả nhuộm hóa mô
miễn dịch
+ Đối với ER, PR
Tỷ lệ (TL): 0, 1 = 1/100, 2 = 1/10, 3 = 1/3, 4 =
2/3, 5 = 1/1
Cường độ (CĐ): 0 = không bắt màu, 1 =
yếu, 2 = vừa, 3 = mạnh
Tổng điểm = TL + CĐ (xếp từ 0 đến 8)
Phản ứng dương tính khi tổng điểm > 0
0: 0 điểm;
1+: 2 -4 điểm;
2+: 5 - 6 điểm;
3+: 7 - 8 điểm

111


+ Đối với Her-2/neu (C-erb-2)
0: Hoàn toàn không bắt màu.

* Xử lý số liệu
Bằng phần mềm SPSS 10.0.

1+: Không nhìn thấy hoặc nhuộm màng
bào tương dưới 10% tế bào u.


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

2+: Màng bào tương bắt màu từ yếu đến
trung bình được thấy trên 10% tế bào u.

Nhóm tuổi Số trường hợp
20-29
2
30-39
21
40-49
70
50-59
61
60-69
21
≥ 70
6
Tổng cộng
181

3+: Màng bào tương bắt màu toàn bộ với
cường độ mạnh được quan sát thấy trên 10%
các tế bào u.
Chỉ 2+ và 3+ mới được coi là dương tính.
+ Đối với Ki-67 và PCNA
0: Hoàn toàn không bắt màu.
1+: Nhuộm nhân tế bào từ 1 đến 10% tế bào u.
2+: Nhuộm nhân tế bào từ 10% đến 30% tế
bào u.

3+: Nhuộm nhân tế bào trên 30% tế bào u.
Dương tính khi từ 1+ trở lên.
+ Đối với p53
0: Hoàn toàn không bắt màu.
1+: Nhuộm nhân tế bào từ 1 đến 5% tế bào u.
2+: Nhân tế bào bắt màu yếu, trên 5% tế bào u.
3+: Nhân tế bào bắt màu mạnh, trên 5% tế bào u.
Dương tính khi từ 1+ trở lên.
+ Đối với D2-40
D2-40 dương tính nếu màng tế bào nội mô
bạch mạch bắt màu nâu đỏ.

- Cách đánh giá sự xâm nhập của tế bào ung
thư vào bạch mạch
Phải hội đủ cả 3 yêu cầu sau:
- Bạch mạch có nội mô dương tính với D240, bào tương bắt màu nâu đỏ.
- Có các tế bào giống tế bào biểu mô u hiện
diện trong lòng bạch mạch.
- Tế bào trong lòng bạch mạch được chứng
minh là tế bào u bằng các tiêu bản nhuộm HE
hoặc tiêu bản nhuộm dấu ấn miễn dịch khác.

Tuổi mắc bệnh
Tỷ lệ %
1,1
11,6
38,7
33,7
11,6
3,3

100,0

2

÷ = 135,343
p<0,001

Kích thƣớc u
Kích thước u Số trường hợp
≤2cm
57
>2-5cm
111
>5cm
13
Tổng cộng
181

Tỷ lệ %
31,5
61,3
7,2
100,0

2

÷ = 79,867
p<0,001

Tình trạng di căn hạch nách

Tình trạng di căn
hạch
Chưa di căn
Di căn 1-3 hạch
Di căn trên 3 hạch
Tổng cộng

Số trường
hợp
107
34
40
181

Tỷ lệ %
59,1
18,8
22,1
100,0

2

÷ = 54,442
p<0,001

Độ mô học của các khối u
Độ mô học Số trường hợp
Độ I
21
Độ II

135
Độ III
25
Tổng cộng
181

Tỷ lệ %
11,6
74,6
13,8
100,0

2

÷ = 138,74
p<0,001

Kết quả nhuộm HMMD
ER (+) PR (+)

Her-2 Ki-67 PCNA P53 (+) D2-40
(+)
(+)
(+)
(+)
55,2% 39,2% 44,2% 52,5% 74% 43,6% 16%

Tƣơng quan giữa các dấu ấn sinh học
ER
PR

Her-2
Ki67
PCNA
p53

ER
1

PR Her-2 Ki67
0,685 -0,201 -0,078
0,000 0,007 0,297
0,685
1 -0,202 -0,015
0,000
0,006 0,841
-0,201 -0,202 1
0,188
0,007 0,006
0,011
-0,078 -0,015 0,188
1
0,297 0,841 0,011
-0,050 -0,137 0,177 0,209
0,502 0,065 0,017 0,005
-0,207 -0,117 0,111 0,205
0,005 0,116 0,136 0,006

PCNA
-0,050
0,502

-0,137
0,065
0,177
0,017
0,209
0,005
1

P53
-0,207
0,005
-0,117
0,116
0,111
0,136
0,205
0,006
0,175
0,018
0,175
1
0,018

D2-40
0,138
0,064
0,046
0,535
0,025
0,735

0,162
0,029
0,092
0,217
0,134
0,071


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007
ER
PR Her-2 Ki67 PCNA P53 D2-40
0,138 0,046 0,025 0,162 0,092 0,134
1
D2-40
0,064 0,535 0,735 0,029 0,217 0,071

Tƣơng quan giữa các yếu tố tiên lƣợng kinh
điển và các dấu ấn sinh học
Tương
quan
ĐMH r
p
Tuổi r
p
KT u r
p
Di căn r
hạch p

ER


PR

-0,276 -0,185
0,000 0,013
-0,074 -0,185
0,323 0,013
-0,082 -0,058
0,275 0,441
0,003 0,006
0,968 0,933

Her2 Ki67 PCNA P53 D2-40
0,271
0,000
0,025
0,743
0,094
0,209
0,144
0,054

0,232
0,002
-0,046
0,538
0,128
0,086
0,078
0,296


0,318
0,000
-0,082
0,275
0,053
0,475
0,058
0,437

0,228
0,002
0,034
0,653
0,085
0,258
0,030
0,686

0,160
0,031
0,055
0,461
0,106
0,154
0,178
0,016

BÀN LUẬN
Về tuổi

Nhóm tuổi mắc bệnh cao nhất là nhóm từ
40 đến 49 tuổi (38,7%), đứng thứ hai là nhóm
tuổi 50-69 tuổi (33,7%), các nhóm tuổi khác ít
gặp hơn rõ rệt (p<0,01).
Tuổi mắc bệnh trung bình trong nghiên
cứu này là 49,3 ± 9,7 tuổi.
Nhóm tuổi mắc bệnh ung thư vú thường
gặp của nghiên cứu này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của các tác giả trong nước(9,13). Tuy
nhiên, khi so sánh với các tác giả nước ngoài,
đặc điểm này thay đổi. Tỷ lệ mắc bệnh ung
thư vú cao nhất ở phụ nữ Việt nam thường là
từ 40 đến 49 tuổi, trẻ hơn so với phụ nữ
phương Tây với nhóm tuổi mắc bệnh cao nhất
thường từ 50 đến 59 tuổi(2,5,6,7,8,12).

Về kích thƣớc u
Trong 181 trường hợp nghiên cứu, u có
kích thước từ >2 cm đến 5 cm, tương ứng với
T2, là hay gặp nhất (61,3%); u có kích thước
=<2 cm, tương ứng với T1, chiếm 31,5% và u
có kích thước trên 5 cm, tương ứng với T3 là
ít gặp nhất, 7,2%. Kích thước u trung bình là
3,2 ±1,8 cm.
Kết quả này tương ứng với kết quả nghiên
cứu của các tác giả trong nước với kích thước
u thường gặp nhất từ >2 cm đến 5 cm. Trong
khi đó, các nghiên cứu tại các nước phát triển

Nghiên cứu Y học


có kết quả về kích thước u thường gặp nhất là
=< 2cm, tương ứng với T1.

Về độ mô học
Đa số các trường hợp ung thư vú trong
nghiên cứu có độ mô học II (74,6%); u có ủoọ
mô học III chiếm 13,8% và u có độ mô học I
gặp ít nhất, 11,6% các trường hợp.
Kết quả này tương tự với các kết quả
nghiên cứu của Trần Hòa, ĐC. Thuận và A.
Verhest, Tạ Văn Tờ(13), Lê Quốc Sử(9) với độ mô
học II chiếm ưu thế, sau đó là độ III và thấp
nhất là độ I.
Nghiên cứu 431 trường hợp ung thư vú
được hoá trị hỗ trợ, Amat S. và cộng sự (2002)
cho kết quả: phân tích đơn biến và đa biến đều
cho thấy u có độ mô học III đáp ứng tốt hơn
với hoá trị hỗ trợ hơn so với u độ I (p<10-6). Và
không có đặc điểm nào khác của khối u hoặc
của bệnh nhân có liên quan với sự đáp ứng
điều trị(2).

Về kết quả nhuộm HMMD
* ER, PR
Trong những năm gần đây, nhiều tác giả
trong nước đã có nhiều nghiên cứu HMMD
trong ung thư vú. ER và PR là các đặc điểm
sinh học ưu tiên được khảo sát trong hầu hết
các nghiên cứu. Tỷ lệ dương tính của hai loại

thụ thể này thay đổi qua các nghiên cứu. Kết
quả nghiên cứu về ER, PR ở trong nước những
năm gần đây được tóm tắt trong bảng sau:
Kết quả nhuộm ER, PR dương tính qua các nghiên
cứu gần đây
Tác giả
Đặng Thế Căn
Lê Đình Roanh
Âu Nguyệt Diệu
Hứa Thị Ngọc Hà
Lê Quốc Sử
Tạ Văn Tờ
Trần Hòa
Nguyễn Sào Trung
Đặng Công Thuận
Nghiên cứu này

Năm
2000
2001
2003
2004
2004
2004
2005
2005
2006
2007

ER(+)(%)

53,63
60,7
60,3
50,3
49,7
59,1
48,7
49,7
52,3
55,2

PR(+)(%)
42,57
61,7
52,0
57,4
42,7
51,4
51,3
46,4
37,1
39,2

113


Các nghiên cứu trên cho thấy: đối với bệnh
ung thư vú ở nước ta, tỷ lệ ER(+) thay đổi từ
44,3% đến 60,7%, PR(+) từ 37,1% đến 61,7%.


giá bằng nhuộm miễn dịch topoisomerase II
alpha và Ki-67 là chỉ điểm hữu ích về tiên
lượng ung thư vú.

Điều này có thể được giải thích là do kết
quả nghiên cứu trên phụ nữ Việt nam nhưng
kỹ thuật HMMD được thực hiện ở các cơ sở y
tế khác nhau, trong nước (Hà nội, thành phố
HCM) và nước ngoài (Úc, Hoa Kỳ). Tại mỗi
nơi, tuỳ theo việc sử dụng nguồn kháng thể có
độ nhạy khác nhau của các hãng khác nhau
nên kết quả thay đổi. Tuy nhiên, nhận xét
chung của đa số các tác giả trong nước và
nước ngoài đều cho rằng tỷ lệ thụ thể nội tiết
dương tính cao ở các nước Âu Mỹ (70-80%),
khá cao ở các nước Châu Á (40-60%) và thấp
hơn nhiều ở các nước Châu Phi (30-40%).

Nói chung, Ki-67 có vai trò tiên lượng chủ
yếu đối với trường hợp ung thư vú chưa có di
căn hạch và có giá trị tiên lượng tái phát, tiên
lượng thời gian sống không bệnh.

Her-2/neu
Her-2/neu âm tính trong 55,8% các trường
hợp, dương tính chiếm 44,2%, trong đó dương
tính mạnh ở 24,3% các trường hợp. Đây là một tỷ
lệ khá cao so với kết quả của một số tác giả khác
trong nước nhưng tương tự so với y văn, theo đó,
sự khuyếch đại của Her-2/neu hiện diện trong

khoảng 10% đến 40% ung thư biểu mô ống xâm
nhập và bộc lộ quá mức Her-2/neu liên quan có ý
nghĩa với tỷ lệ sống thêm không bệnh tật và tỷ lệ
sống thêm chung ngắn hơn(10).
Trong 48 nghiên cứu về vai trò tiên lượng của
Her-2/neu thực hiện ở 15.000 bệnh nhân ung thư
vú, đa số nghiên cứu đều kết luận rằng sự khuếch
đại gen hoặc sự biểu hiện quá mức của Her-2/neu
có liên quan với tiên lượng xấu, nhất là ở bệnh
nhân ung thư vú có di căn hạch(12).
Ki-67
Được coi là chỉ điểm tốt nhất của sự tăng sản
tế bào, là yếu tố tiên lượng độc lập, được sử dụng
trong việc phân chia bệnh nhân thành 2 nhóm
tiên lượng tốt và xấu(12). Ki-67 cũng được báo cáo
là có liên quan với đáp ứng lâm sàng với hoá trị(11).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
Ki-67 dương tính ở 52,5% các trường hợp, trong
đó dương tính mạnh 13,3% các trường hợp.
Nghiên cứu 356 ung thư biểu mô ống xâm
nhập hạch âm tính, Rudolph và cộng sự (2005)
kết luận rằng hoạt động tăng sản được đánh

PCNA
PCNA âm tính trong 26% các trường hợp.
Dương tính chiếm 74%, trong đó dương tính
mạnh trong 21,5% các trường hợp. Kết quả này
phù hợp với kết quả nhuộm PCNA của Tery G.
và cộng sự (2007) khi nghiên cứu 451 trường hợp
là 69%(15). Sự tổng hợp PCNA liên quan chặt chẽ

với thời kỳ G1/S bình thường của chu kỳ tế bào
và protein này có thời gian bán huỷ khá dài. Do
đó, nó là một dấu ấn tốt để đo lường hoạt động
tăng sản trong các tổn thương vú mà các tế bào ở
các pha khác nhau của sự phát triển và bộc lộ rõ
rệt trong 94-100% các ung thư vú tại chỗ và xâm
nhập; thậm chí có 61% các trường hợp bệnh
tuyến vú lành tính không tăng sản cũng cho kết
quả dương tính với PCNA. Điều này phần nào
giải thích tại sao trong ung thư vú xâm nhập,
mặc dù tỷ lệ PCNA dương tính cao nhưng độ
đặc hiệu thấp(15).
Nhiều báo cáo khác cũng chứng minh rằng
PCNA có giá trị tiên lượng trong ung thư vú, đặc
biệt trong nhóm bệnh nhân có hạch âm tính.

p53
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ p53
dương tính là 43,7%. Kết quả này ở mức cao
so với y văn (30-40%) nhưng tương tự với kết
quả nghiên cứu trong nước của Tạ Văn Tờ
(2003), cũng nghiên cứu p53 trên các bệnh
nhân ung thư vú tại Bệnh viện K Hà nội.
Theo đó, p53 dương tính gặp ở 42,1% các
trường hợp(13). Trong khi đó, kết quả nghiên
cứu của Lê Quốc Sử tại Bệnh viện Đại học Y
Dược và Bệnh viện Ung bướu thành phố Hồ
Chí Minh (2004) về dấu ấn này là 29,7% (9).
Tan Puay-Hoon và cộng sự (1999) nghiên cứu
106 trường hợp ung thư vú xâm nhập tại

Bệnh viện tổng quát Singapore cho kết quả


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007
nhuộm hoá mô miễn dịch p53 dương tính
chiếm 53% các trường hợp(14).
Theo Allred và cộng sự, đã có hơn 57
nghiên cứu thực hiện ở hơn 13.000 bệnh nhân
ung thư vú nhằm xác định giá trị tiên lượng
và hoặc dự đoán đáp ứng với hóa trị của p53
trong ung thư vú. Đa số các nghiên cứu này
đều thấy có mối liên hệ giữa mức độ biểu
hiện p53 và tiên lượng xấu (1).
Nói chung, giá trị của p53 đối với tiên
lượng bệnh rõ ràng hơn đối với dự đoán điều
trị. Nhiều ý kiến đều cho rằng cần phải có
nhiều nghiên cứu hơn để khẳng định thêm giá
trị của p53 trong dự đoán đáp ứng điều trị(5).

D2-40
D2-40 dương tính trong xâm nhập bạch
mạch chiếm 16% các trường hợp.
Kết quả nghiên cứu về xâm nhập bạch mạch
của các tác giả khác trên thế giới cũng cho các kết
quả rất thay đổi tuỳ theo phương pháp nhuộm
và đối tượng nghiên cứu. Kết quả của Nime và
cộng sự (1977) là 8,8%, của D’Eredita là 15%(6),
của Alkarain (2007) là 27%(3), của Truong (2005)
là 27,5%(16), của Carol Woo (2002) là 28%(4), của
Van den Eynden (2006) là 69,5%(17) và của Kahn

(2002) là 86%(4).
Giá trị của D2-40 trong phát hiện bạch
mạch đã được khẳng định qua các nghiên
cứu. Kháng thể D2-40 có độ nhạy và độ đặc
hiệu với nội mô bạch mạch trên 95%
(Evangelou, 2005). Trong ung thư vú, D2-40
là dấu ấn tốt nhất cho nội mô bạch mạch
(Van der Auwera, 2005).
Mối liên quan giữa xâm nhập bạch mạch
qua nhuộm D2-40 và tình trạng di căn hạch
trong nghiên cứu của chúng tôi được thể hiện
qua bảng dưới đây:
Liên quan giữa tình trạng di căn hạch và xâm
nhập bạch mạch
Xâm nhập
Chưa
Có di căn hạch
bạch mạch di căn hạch 1-3 hạch >3 hạch Tổng

12
6
11
17
D2-40 (+)
11,2%
17,6%
27,5%
23%
Không
95

28
29
57

D2-40 (-)
Tổng

Nghiên cứu Y học
88,8%
82,4%
107
34
r=0,178 p=0,016

72,5%
40

77%
74

Xâm nhập bạch mạch được xác định ở
11,2% các trường hợp ung thư vú chưa di căn
hạch, trong khi đó, 23% các trường hợp ung
thư vú đã di căn hạch có biểu hiện xâm nhập
bạch mạch.
Yamauchi và cộng sự (2006) nghiên cứu
trên 151 trường hợp ung thư vú xâm nhập đã
kết luận rằng sự xâm nhập bạch mạch được
xác định bởi D2-40 có giá trị dự đoán chính
xác sự gia tăng có ý nghĩa với nguy cơ tái phát

hoặc tử vong của bệnh nhân, độc lập với tình
trạng thụ thể nội tiết và di căn hạch(18).
Gần đây nhất, Alkarain và cộng sự (2007)
sau khi phân tích 303 trường hợp ung thư vú
hạch âm tính đưa ra kết luận: xâm nhập bạch
mạch có giá trị dự báo tái phát xa và liên quan
với thời gian sống thêm toàn bộ ngắn hơn(3).

Về mối tƣơng quan giữa các dấu ấn miễn
dịch
Kết quả nghiên cứu về mối tương quan
giữa các dấu ấn miễn dịch cho giá trị p và hệ
số tương quan Pearson tương ứng. Qua đó,
các thụ thể steroid (ER, PR) có mối tương quan
chặt chẽ với nhau (p<0,001) và liên quan
nghịch với Her-2/neu (p<0,01). Tuy nhiên,
trong khi ER tương quan chặt chẽ với p53
(p=0,005) thì PR lại có tương quan yếu, không
có ý nghĩa thống kê (p=0,116).
Her-2/neu ngoài tương quan với các thụ
thể steroid như trên, còn tương quan có ý
nghĩa với các dấu ấn tăng sản tế bào, Ki-67
(p=0,011) và PCNA (p=0,017).
Các dấu ấn tăng sản (Ki-67, PCNA) ngoài
mối tương quan rất chặt chẽ với nhau
(p=0,005), chúng còn tương quan có ý nghĩa
với Her-2/neu và p53 (p<0,05). Hơn thế nữa,
Ki-67 còn tương quan với sự xâm nhập bạch
mạch, thể hiện qua dấu ấn D2-40 dương tính
với p<0,05.


115


P53 tương quan nghịch có ý nghĩa với ER
(r=-0,207; p=0,005), đa số các u có sự tích tụ p53
cao cũng dương tính mạnh mẽ với Ki-67
(r=0,205; p=0,006) và PCNA (r=0,175; p=0,018).

D2-40 chỉ tương quan duy nhất với Ki-67
(r=0,162; p=0,029).
- Về mối tƣơng quan giữa các yếu tố tiên
lƣợng kinh điển và các dấu ấn miễn dịch
Độ mô học tương quan có ý nghĩa với cả 7
dấu ấn sinh học được nghiên cứu. Trong đó,
tương quan nghịch với tình trạng bộc lộ thụ
thể steroid; tương quan thuận với Her-2/neu,
Ki-67, PCNA, p53 và D2-40.
Nhóm tuổi chỉ tương quan có ý nghĩa với
PR (r=-0,185; p=0,013).
Kích thước u có tương quan nghịch với sự
bộc lộ ER, PR; tương quan thuận với các dấu
ấn khác nhưng các mối tương quan này đều
không có ý nghĩa (p>0,05).
Tình trạng di căn hạch chỉ có tương quan
với xâm nhập bạch mạch thông qua dấu ấn
D2-40 (r=0,178; p=0,016).

KẾT LUẬN
1. * Nhóm tuổi mắc bệnh cao nhất là nhóm

từ 40 đến 49 tuổi (38,7%), đứng thứ hai là
nhóm 50-69 tuổi (33,7%). Tuổi mắc bệnh trung
bình là 49,3 ± 9,7 tuổi.

2/neu (p<0,01). ER tương quan chặt chẽ với
p53 (p=0,005).
Her-2/neu tương quan với các thụ thể
steroid, với các dấu ấn tăng sản tế bào, Ki-67
(p=0,011) và PCNA (p=0,017).
Các dấu ấn tăng sản ngoài mối tương
quan rất chặt chẽ với nhau (p=0,005), chúng
còn tương quan có ý nghĩa với Her-2/neu, p53
và với sự xâm nhập bạch mạch (p<0,05).
P53 tương quan nghịch có ý nghĩa với ER,
Ki-67 và PCNA.
D2-40 chỉ tương quan duy nhất với Ki-67
(r=0,162; p=0,029).
** Độ mô học tương quan có ý nghĩa với cả
7 dấu ấn sinh học: tương quan nghịch với tình
trạng bộc lộ thụ thể steroid; tương quan thuận
với Her-2/neu, Ki-67, PCNA, p53 và D2-40.
Nhóm tuổi chỉ tương quan có ý nghĩa với
PR (r=-0,185; p=0,013).
Tình trạng di căn hạch chỉ có tương quan
với xâm nhập bạch mạch (r=0,178; p=0,016).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.


U có kích thước từ >2 cm đến 5 cm là hay
gặp nhất (61,3%); u có kích thước =2 cm chiếm
31,5% và u có kích thước trên 5 cm, 7,2%. Kích
thước u trung bình: 3,2 ±1,8cm.

3.

Di căn hạch chiếm 40,9% các trường hợp,
trong đó, 22,1% có di căn trên 3 hạch.

4.

U có độ mô học II là 74,6%; u có độ mô
học III chiếm 13,8% và u có độ mô học I gặp ít
nhất, 11,6% các trường hợp.
** Tỷ lệ dương tính với các dấu ấn miễn
dịch ER, PR, Her-2/neu, Ki-67, PCNA, p53 và
D2-40 lần lượt là: 55,2%; 39,2%; 44,2%; 52,5%;
74%; 43,6% và 16% các trường hợp.
2. * ER, PR có mối tương quan chặt chẽ với
nhau (p=0,000) và liên quan nghịch với Her-

5.

6.

Allred D.C., Clark G.M., Elledge R. (1993). Association of
p53 protein expression with tumor cell proliferation rate
and clinical outcome in node-negative breast cancer. J

Natl Cancer Inst, 85: 200-206.
Amat S., Peunalt-Llorca F., Cure H et al. (2002). ScraffBloom-Richardson (SBR) grading: a pleiotropic marker of
chemosensitivity in invasive ductal breast carcinomas
treated by neoadjuvant chemotherapy. Int J Oncol, 20(4):
791-6.
Arnaout-Alkarain A., Kahn J.H. et al. (2007). Significance
of lymph vessel invasion identified by the endothelial
lymphatic marker D2-40 in node negative breast cancer.
Modern Pathology, 20: 183-191.
Carol S.Woo, Howard Silberman et al. (2002). Lymph
node status combined with lymphovascular invasion
creates a more powerful tool for predicting outcome in
patients with invasive breast cancer. The American
Journal of Surgery, 184: 337-340.
Clahsen P.C., van de Velde C.J.H., Duval C., Pallud C.,
Mandard A.M., Delobelle-Deroide A., van den Broek L.,
Sahmoud T.M., and Vander Vijver M.J. (1998). ỎP53
protein accumulation and response to adjuvant
chemotherapy in premenopausal women with nodenegative early breast cancer. Journal of Clinical
Oncology,16: 470-479.
D'Eredita G., Giardina C. et al. (2000). Prognostic factors
in breast cancer: the predictive value of the Nottingham
prognostic index in patients with a long-term follow-up


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007

7.

8.


9.

10.

11.

12.

that were treated in a single institution. European Journal
of Cancer, 37: 591-596.
Elzagheid A., Kuopio T. et al. (2006). Lymph node status
as a guide to selection of available prognostic markers in
breast cancer: the clinical practice of the future?.
Diagnostic Pathology, 1(41): 1-12.
Ferlay J, Autier P, Boniol M, Heanue M, Colombet M,
Boyle P (2007). Estimates of the cancer incidence and
mortality in Europe in 2006. Ann Oncol 18(3): 581-92.
Lê Quốc Sử (2004). Nghiên cứu một số đặc điểm di truyền
trong ung thư vú. Luận án tiến sĩ y học. Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh.
Li I.C., Daling R.J., Malone E.K. (2003). Incidence of
invasive breast cancer by hormone receptor status from
1992 to 1998. J Clin Oncol, 21: 28-34.
Petit T., Wilt M. and Velten M. et al. (2004). Comparative
value of tumor grade, hormonal receptors, Ki-67, HER-2
and topoisomerase II alpha status as predictive markers in
breast cancer patients treated with neoadjuvant
anthracycline-based chemotherapy. Eur J Cancer, 40: 205211.
Rehsma Ariga, Adil Zarif, Jocelyn Korasick (2005).

Correlation of Her-2/neu gene amplification with other
prognostic and predictive factors in female breast
carcinoma. The Breast Journal, 11: 278-280.

13.

14.

15.

16.

17.

18.

Nghiên cứu Y học

Tạ Văn Tờ (2004): Nghiên cứu hình thái học, hóa mô miễn
dịch và giá trị tiên lượng của chúng trong ung thư biểu
mô tuyến vú. Luận án Tiến sĩ y học. Đại học Y Hà nội.
Tan P., Ho G., Ji C. (1999). Immunohistochemical
expression of p53 protein in invasive breast carcinoma:
clinicopathologic correlations. Oncol Rep, 6(5): 1159-63.
Terry G., Ho L. et al. (2007). The expression of FHIT,
PCNA and EGFR in benign and malignant breast lesions.
British Journal of Cancer, 96: 110-117.
Truong
Pauline,
Young

Celina
et
al.(2005).
Lymphovascular invasion is associated with reduced
locoregional control and survival in women with nodenegative breast cancer treated with mastectomy and
systemic therapy. Journal of the American College of
surgeons, 200(6): 912-921.
Van de Eynden G.G., Van de Auwera I., Van Laere S.J.
(2006). Distinguishing blood and lymph vessel invasion in
breast cancer: a prospective immunohistochemical study.
British Journal of Cancer, 94: 1643-1649.
Yamauchi C., Hasebe T. et al. (2006). Accurate assessment
of lymph vessel tumor emboli in invasive ductal
carcinoma of the breast according to tumor areas, and
their prognostic significance. Hum Pathol, 20: 12-17.

117



×