Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phát hiện đột biến gen KRAS trong ung thư đại trực tràng bằng kỹ thuật COLD‐PCR và giải trình tự DNA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.99 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

PHÁT HIỆN ĐỘT BIẾN GEN KRAS TRONG UNG THƯ ĐẠI TRỰC 
TRÀNG BẰNG KỸ THUẬT COLD‐PCR VÀ GIẢI TRÌNH TỰ DNA 
Hoàng Anh Vũ*, Hứa Thị Ngọc Hà** 

TÓM TẮT 
Giới  thiệu:  Tăng biểu hiện của thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô thường gặp trong ung thư đại trực 
tràng (UTĐTT) và là đích điều trị của kháng thể đơn dòng. Tuy nhiên, sự kháng thuốc xảy ra khi có đột biến gen 
KRAS trong tế bào ung thư. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mô tả đột biến trên codon 12 và 13 của gen 
KRAS, giúp quyết định chỉ định kháng thể đơn dòng cho bệnh nhân. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 01/2011 đến tháng 05/2013, 173 bệnh nhân UTĐTT 
được khảo sát đột biến codon 12 và 13 của gen KRAS tại Trung tâm Y Sinh học Phân tử – Đại học Y Dược 
TPHCM.  Chúng  tôi  sử  dụng  kỹ  thuật  COLD‐PCR  (co‐amplification  at  lower  denaturation  temperature 
polymerase chain reaction) để khuếch đại exon 2 của gen KRAS từ bệnh phẩm là mô vùi nến. Sau đó, đột biến 
của gen KRAS được xác định bằng kỹ thuật giải trình tự chuỗi DNA. 
Kết quả: 62 trường hợp có đột biến của gen KRAS (35,8%), trong đó 4 trường hợp mang đột biến ở cả hai 
codon  12  và  13.  Có  tất  cả  7  dạng  đột  biến  được  phát  hiện,  bao  gồm  5  dạng  đột  biến  ở  codon  12  (Gly12Asp, 
Gly12Val, Gly12Ser, Gly12Ala và Gly12Cys) và 2 dạng đột biến ở codon 13 (Gly13Asp và Gly13Ser). 
Kết luận: Đột biến codon 12 và 13 của gen KRAS thường gặp trên bệnh nhân Việt Nam bị UTĐTT. Kết 
hợp kỹ thuật COLD‐PCR và giải trình tự chuỗi DNA phù hợp cho khảo sát các đột biến này từ bệnh phẩm giải 
phẫu bệnh. 
Từ khóa: ung thư đại trực tràng, đột biến gen KRAS, giải trình tự chuỗi DNA, COLD‐PCR 

ABSTRACT 
DETECTION OF KRAS MUTATIONS IN COLORACTAL CANCER USING COLD‐PCR  
AND DNA SEQUENCING 
Hoang Anh Vu, Hua Thi Ngoc Ha 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 51 ‐ 55 


Background:  Commonly  over‐expressed  in  colorectal  cancer,  EGFR  is  an  ideal  target  for  monoclonal 
antibody  therapy.  However,  drug‐resistance  was  observed  in  patients  whose  tumor  cells  harbored  KRAS 
mutations. We conduct this study to describe KRAS mutations at codons 12 and 13 for selecting patients suitable 
for monoclonal antibody indication. 
Materials  and  methods:  From  January  2011  to  May  2013,  173  patients  with  colorectal  cancer  were 
analyzed for KRAS mutations at Center for Molecular Biomedicine – University of Medicine and Pharmacy, Ho 
Chi Minh City. COLD‐PCR (co‐amplification at lower denaturation temperature polymerase chain reaction) was 
used to amplify KRAS exon 2 from paraffin‐embedded tissue samples. Mutations were identified by direct DNA 
sequencing. 
Results: KRAS mutations were detected in 62 patients  (35.8%)  including  4  patients  who  carried  double 
mutations  at  both  codons  12  and  13.  In  total,  7  types  of  mutations  were  found,  of  which  5  were  at  codon  12 
* Bộ môn Giải Phẫu Bệnh, Đại học Y Dược TPHCM 
 
** Trung tâm Y sinh học Phân tử, Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: TS. Hoàng Anh Vũ  ĐT: 0122 299 3537  Email:  

50

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

(Gly12Asp, Gly12Val, Gly12Ser, Gly12Ala and Gly12Cys) and 2 at codon 13 (Gly13Asp and Gly13Ser). 
Conclusion: High frequency of KRAS mutations were found in Vietnamese patients with colorectal cancer. 
COLD‐PCR  in  combination  with  direct  DNA  sequencing  is  suitable  for  detecting  KRAS  mutations  from 
pathological samples. 
Keywords: colorectal cancer, KRAS gene mutation, DNA sequencing, COLD‐PCR 

chất  truyền  tin  hạ  nguồn  của  EGFR,  KRAS  có 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
vai  trò  quan  trọng  trong  việc  khởi  phát  và  tiến 
Rối loạn các thụ thể tyrosine kinase, trong đó 
triển  của  một  số  ung  thư  như  carcinôm  tuyến 
có  thụ  thể  yếu  tố  tăng  trưởng  biểu  mô  (EGFR: 
của đại tràng, phổi và tụy. Khi đột biến xảy ra sẽ 
epidermal  growth  factor  receptor),  thường  gặp 
làm  mất  hoạt  tính  ATPase  và  giữ  phân  tử 
trong  ung  thư  ở  người,  trở  thành  những  đích 
protein KRAS ở trạng thái gắn ATP liên tục, dẫn 
nhắm phân tử hiệu quả trong điều trị. Hoạt tính 
đến hậu quả là các phân tử truyền tin hạ nguồn 
tyrosine  kinase  của  EGFR  đóng  vai  trò  quan 
luôn hoạt động để  duy  trì  tín  hiệu  tăng  sinh  tế 
trọng trong sự điều khiển sự tăng sinh và sống 
bào(13). 
còn  của  tế  bào,  thông  qua  quá  trình  tự 
Tại Việt Nam, kháng thể đơn dòng đã được 
phosphoryl hóa thụ thể EGFR hoặc thông qua 2 
chỉ  định  cho  UTĐTT  giai  đoạn  tiến  xa.  Nghiên 
con đường truyền tín hiệu trung gian hạ nguồn 
cứu này được tiến hành nhằm xác định tần suất 
là  con  đường  PIK3CA/AKT/mTOR  và 
đột biến tại codon 12 và 13 của gen KRAS ở bệnh 
RAS/RAF/MAPK(4).  Sự  hoạt  hóa  của  protein 
nhân  UTĐTT  bằng  kỹ  thuật  COLD‐PCR  (co‐
EGFR khởi động cho các dòng thác tín hiệu nội 
amplification 
at 

lower 
denaturation 
bào, có liên quan đến một số con đường truyền 
temperature)  kết  hợp  với  giải  trình  tự  DNA, 
tin  để  gây  ra  những  đáp  ứng  tế  bào  vô  cùng 
giúp  quyết  định  lựa  chọn  kháng  thể  đơn  dòng 
quan trọng bao gồm tăng sinh tế bào, biệt hóa tế 
cho  bệnh  nhân  một  cách  phù  hợp.  Kỹ  thuật 
bào,  sự  di  động  và  sinh  tồn  của  tế  bào.  Trong 
COLD‐PCR  cho  phép  khuếch  đại  ưu  thế  dòng 
ung  thư  đại  trực  tràng  (UTĐTT),  protein  EGFR 
alen mang đột biến, giúp cải thiện độ nhạy của 
thường  biểu  hiện  quá  mức  trên  bề  mặt  tế  bào, 
kỹ  thuật  giải  trình  tự  chuỗi  DNA(10).  Trong  kỹ 
được  coi  là  nguồn  gốc  khởi  phát  các  tín  hiệu 
thuật này, sau khoảng 10 chu kỳ luân nhiệt đầu 
tăng  sinh  tế  bào  quá  độ  trong  khối  u.  Ức  chế 
tiên với kỹ thuật PCR chuẩn, người ta sử dụng 
hoạt tính tyrosine kinase của EGFR là một chiến 
nhiệt độ biến tính thấp trong khoảng 80 – 900C 
lược  điều  trị  thích  hợp,  đã  được  nghiên  cứu 
chỉ đủ cho các mạch đôi dị hợp tử có mang đột 
nhiều  trong  UTĐTT.  Tuy  nhiên  kháng  thể  đơn 
biến  trong  sản  phẩm  PCR  duỗi  ra  để  được  ưu 
dòng  ức  chế  đặc  hiệu  sự  hoạt  hóa  EGFR  như 
tiên khuếch đại. Với những điều kiện tối ưu hóa, 
cetuximab hay panitumumab được chứng minh 
COLD‐PCR  có  thể  giúp  cho  giải  trình  tự  DNA 
chỉ có hiệu quả trong điều trị UTĐTT giai đoạn 
đạt độ nhạy <1%, tương đương pyrosequencing 

tiến  xa  trên  nhóm  bệnh  nhân  không  mang  đột 
mà không cần trang bị thêm hệ thống mới(18). 
biến  gen  KRAS,  giúp  kéo  dài  thời  gian  sống 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
thêm và thời gian sống không bệnh(2,8). Hiệp hội 
ung thư Châu Âu và Hiệp hội ung thư Hoa kỳ 
Đối tượng nghiên cứu 
đều  khuyến  cáo  chỉ  điều  trị  cetuximab  hay 
Chúng  tôi  tiến  hành  khảo  sát  đột  biến  gen 
panitumumab  cho  những  bệnh  nhân  không 
KRAS cho những bệnh nhân UTĐTT có nhu cầu 
mang đột biến gen KRAS(1,16,17). Gen KRAS là một 
được điều trị bằng cetuximab trong thời gian từ 
thành  viên  của  gia  đình  gen  RAS,  mã  hóa  cho 
tháng  01/2011  đến  tháng  05/2013.  Bệnh  nhân 
một guanosine triphosphate GTPase vốn có hai 
được  chẩn  đoán  xác  định  UTĐTT  bằng  tiêu 
trạng  thái:  trạng  thái  bất  hoạt  có  gắn  GDP  và 
chuẩn  giải  phẫu  bệnh  tại  Bô  môn  Giải  phẫu 
trạng  thái  hoạt  động  có  gắn  với  GTP.  Là  một 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 

51


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013


bệnh  –  Đại  học  Y  Dược  Thành  phố  Hồ  Chí 
Minh. 

Tách chiết genomic DNA 
Bệnh phẩm là mô vùi nến đã dùng để chẩn 
đoán giải phẫu bệnh. Trường hợp là bệnh phẩm 
phẫu  thuật,  vùng  mô  ung  thư  được  đánh  dấu 
trên  tiêu  bản  để  phân  biệt  với  vùng  mô  lành 
xung  quanh,  rồi  được  cạo  vào  tube  ly  tâm  1,5 
mL bằng các lưỡi dao mỏng riêng biệt (từ 2 – 4 
tiêu  bản).  Những  trường  hợp  bệnh  phẩm  sinh 
thiết  quá  nhỏ  không  thể  đánh  dấu  phân  biệt 
vùng ung thư và mô lành, nếu phần mô ung thư 
chiếm ít nhất 30% thì được thu toàn bộ vào tube 
ly tâm. Chúng tôi không đưa vào nhóm nghiên 
cứu nếu mẫu sinh thiết chứa <30% lượng tế bào 
ung thư để tránh khả năng âm tính giả do hạn 
chế về độ nhạy của kỹ thuật giải trình tự chuỗi 
DNA. Genomic DNA được ly trính bằng bộ kít 
ReliaPrep™  FFPE  gDNA  Miniprep  System 
(Promega, Mỹ) theo hướng dẫn sử dụng của nhà 
sản xuất. 

Khuếch đại exon 2 của gen KRAS bằng kỹ 
thuật COLD‐PCR 
Cặp  mồi  được  thiết  kế  bằng  phần  mềm 
Oligo 4.1 dựa trên trình tự chuẩn của gen KRAS 
mang  accession  number  NG_007524  (mồi  xuôi: 
5’‐  AGGCCTGCTGAAAATGACTGAATA‐3’; 
mồi 

ngược: 
5’‐ 
CTGTATCAAAGAATGGTCCTGCAC‐3’). 
Trong mỗi tube PCR có tổng thể tích 50 μL, các 
thành phần gồm có PCR buffer, dNTP (250 μM 
cho mỗi loại), 2 loại mồi xuôi và ngược (0,5 μM 
cho  mỗi  loại),  1,25  unit  TaKaRa  TaqTM  HotStart 
Polymerase  (Takara,  Nhật  Bản)  và  50  –  100  ng 
genomic DNA. Chu kỳ luân nhiệt theo kỹ thuật 
COLD‐PCR  được  thực  hiện  trên  máy 
GeneAmp®  PCR  system  9700  (Applied 
Biosystems,  Mỹ)  bao  gồm  giai  đoạn  biến  tính 
ban  đầu  ở  980C  trong  3  phút,  theo  sau  bằng  10 
chu kỳ gồm biến tính ở 980C trong 10 giây, gắn 
mồi ở 600C trong 15 giây, tổng hợp chuỗi DNA ở 
720C  trong  40  giây.  Tiếp  theo,  phản  ứng  tổng 
hợp  chuỗi  DNA  được  thực  hiện  với  40  chu  kỳ 
gồm  5  bước:  biến  tính  ở  980C  trong  10  giây,  tái 

52

bắt cặp các sản phẩm PCR ở 700C trong 2 phút, 
phân  tách  các  sản  phẩm  PCR  ở  800C  trong  10 
giây, gắn mồi ở 600C trong 15 giây và tổng hợp 
chuỗi DNA ở 720C trong 40 giây. Phản ứng được 
kết thúc bằng giai đoạn kéo dài sản phẩm ở 720C 
trong  5  phút.  Sản  phẩm  PCR  được  phát  hiện 
bằng điện di trên thạch agarose 1,5% có nhuộm 
ethidium bromide và quan sát dưới màn soi gel 
Pringraph  (Atto,  Nhật  Bản).  Sản  phẩm  PCR 

được tinh sạch bằng QIAquick Gel Extraction kit 
(Qiagen, Mỹ) và được kiểm tra lại bằng điện di 
trên  thạch  agarose  1,5%.  Trong  mỗi  đợt  thực 
nghiệm  luôn  có  một  tube  chứng  âm,  trong  đó 
genomic DNA được thay bằng nước cất đã dùng 
để pha master mix. 

Thực hiện giải trình tự chuỗi DNA 
Sản  phẩm  PCR  đã  được  tinh  sạch  sẽ  được 
thực  hiện  phản  ứng  cycle  sequencing  với 
BigDye  Terminator  Version  3.1  từ  Applied 
Biosystems,  theo  2  chiều  xuôi  và  ngược.  Sản 
phẩm sau đó được kết tủa bằng ethanol, hòa tan 
trong Hi‐Di formamide, biến tính ở 950C trong 2 
phút trước khi làm lạnh đột ngột. Trình tự DNA 
được đọc bằng máy ABI 3130 Genetic Analyzer, 
với POP‐7 polymer và capillary 50 cm (Applied 
Biosystems,  Mỹ).  Kết  quả  được  phân  tích  bằng 
phần  mềm  SeqScape.  Quy  trình  chẩn  đoán  đột 
biến  gen  được  thực  hiện  tại  Trung  tâm  Y  Sinh 
học Phân tử, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Có  tất  cả  173  bệnh  nhân  được  chọn  vào 
nghiên cứu, gồm 95 nam và 78 nữ (tỷ lệ nam/nữ 
là 1,2/1). Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 19 tuổi, lớn 
nhất 100 tuổi, với trị số trung vị là 54 tuổi. Khối 
u  ở  đại  tràng  chiếm  nhiều  hơn  so  với  ở  trực 
tràng: 122 trường hợp ở đại tràng (70,5%) và 51 

trường  hợp  ở  trực  tràng  (29,5%).  Hầu  hết  bệnh 
nhân đã được ghi nhận tổn thương có xâm nhập 
đến  lớp  thanh  mạc  (38,7%)  hoặc  khối  u  ở  giai 
đoạn tiến xa (36,4%). 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Đột biến gen KRAS 
KRAS  đột  biến  đóng  vai  trò  quan  trọng  cả 
trong hình thành ung thư cũng như sự đề kháng 
với  điều  trị.  Trong  ung  thư  đại  trực  tràng,  sự 
hiện diện của đột biến gen KRAS là một yếu tố 
tiên  lượng  xấu  độc  lập  và  tiên  đoán  kháng  với 
điều  trị  chống  EGFR(8).  Đột  biến  KRAS  thường 
tập trung ở codon 12 và 13, ngoài ra cũng có thể 
gặp ở codon 61 và 146 với tần suất rất thấp(7,12). 
Tại  codon  12  và  13,  có  14  kiểu  đột  biến  khác 
nhau của gen KRAS đã được ghi nhận  trên  thế 
giới.  Vì  chưa  có  số  liệu  nào  về  đột  biến  gen 
KRAS trên bệnh nhân Việt Nam, chúng tôi chọn 
kỹ thuật giải trình tự chuỗi DNA để có thể phát 
hiện  được  tất  cả  các  kiểu  thay  đổi  nucleotide  ở 
codon 12 và 13. 
Nhằm tăng khả năng phát hiện đột biến gen 
KRAS,  chúng  tôi  thực  hiện  đồng  thời  2  giải 
pháp. Trước tiên, trong bước nhận mẫu nghiên 
cứu  chúng  tôi  chỉ  khảo  sát  đột  biến  khi  bệnh 
phẩm  có  ít  nhất  30%  số  lượng  tế  bào  ung  thư. 

Tiếp  đó,  kỹ  thuật  COLD‐PCR  được  dùng  để 
khuếch đại exon 2 có chứa codon 12 và 13. Đây 
là  kỹ  thuật  được  phát  minh  bởi  Li  và  cộng  sự, 
giúp phát hiện được đột biến gen bằng giải trình 
tự DNA ngay cả khi chỉ có <1% tế bào mang đột 
biến trong mẫu khảo sát(10). 
Trong  tổng  số  173  trường  hợp  đã  khảo  sát, 
chúng tôi phát hiện 62 bệnh nhân có mang đột 
biến gen KRAS, chiếm tỷ lệ 35,8%. Tần suất đột 
biến này tương đồng với hầu hết các nghiên cứu 
trước  đây,  vốn  dao  động  trong  khoảng  27  – 
43%(2,3,5,11). Đặc biệt, trong nghiên cứu này, chúng 
tôi phát hiện có 4 bệnh nhân mang đột biến ở cả 
2  codon  12  và  13.  Đây  là  những  minh  họa  về 
tính đa dòng tế bào trong ung thư nói chung và 
UTĐTT nói riêng. Chúng tôi không thấy có mối 
liên quan giữa tình trạng đột biến gen KRAS với 
vị trí khối u, nhưng đột biến có khuynh hướng 
thường  gặp  hơn  trên  bệnh  nhân  nam  so  với 
bệnh nhân nữ (Bảng 1). Bệnh nhân trẻ tuổi (dưới 
40  tuổi)  cũng  ít  gặp  đột  biến  gen  KRAS  hơn  so 
với nhóm bệnh nhân lớn tuổi. Đây là những ghi 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 

Nghiên cứu Y học

nhận mới, cần được nghiên cứu thêm trong thời 
gian tới. 
Bảng 1: Tương quan giữa đặc điểm bệnh nhân và đột 

biến KRAS. 
Đặc điểm

Đột biến gen Không đột biến gen
KRAS
KRAS
P
Số trường hợp
Số trường hợp
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Giới: Nam
40 (42,1%)
55 (57,9%)
<
0,01
Nữ
22 (28,2%)
56 (71,8%)
Tuổi: ≤40
4 (16,7%)
20 (83,3%)
<
0,01
>40
58 (38,9%)
91 (61,1%)
Vị trí: trực
20 (36,4%)
35 (63,6%)

0,44
tràng
42 (35,6%)
76 (64,4%)
đại tràng
Tổng cộng
62
111

Có tất cả 7 kiểu đột biến tại codon 12 và 13 
được phát hiện trên 62 bệnh nhân trong nghiên 
cứu này (Bảng 2 và Hình 1). Thường gặp nhất là 
các  đột  biến  Gly12Asp  và  Gly12Val  của  codon 
12  và  Gly13Asp  của  codon  13.  Các  số  liệu  này 
hoàn toàn tương đồng với các nghiên cứu trước 
đây  trên  thế  giới(6,9).  Kết  quả  nghiên  cứu  của 
chúng tôi giúp ích cho việc xác định những bệnh 
nhân phù hợp cho chỉ định kháng thể đơn dòng, 
đồng thời cũng là cơ sở quan trọng cho việc thiết 
kế  các  bộ  kít  chẩn  đoán  bằng  ASO‐PCR  (allele‐
specific  oligonucleotide‐PCR)  để  phát  hiện 
những đột biến gặp trên bệnh nhân Việt Nam. 
Bảng 2: Phân phối các đột biến gen KRAS. 
Kiểu đột biến
Số trường
Thay đổi
Thay đổi amino
hợp
nucleotide
acid

19
c.35G>A
Gly12Asp

c.35G>T
c.38G>A
c.34G>T
c.35G>C
c.34G>A
c.37G>A

Gly12Val
Gly13Asp
Gly12Cys
Gly12Val
Gly12Ser
Gly13Ser

Tỷ lệ
(n =
173)
10,9

18

10,4

15

8,6


4

2,3

4

2,3

3

1,7

3

1,7

Cần chú ý rằng tình trạng không đột biến ở 
codon 12 và 13 của gen KRAS chưa đủ đảm bảo 
cho  bệnh  nhân  có  đáp  ứng  với  cetuximab  hoặc 
panitumumab. Các yếu tố kháng thuốc khác bao 
gồm  đột  biến  codon  61  và  146  của  gen  KRAS, 
đột biến codon 12, 13 và 61 của gen NRAS, đột 

53


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013


biến  codon  600  của  gen  BRAF,  đột  biến  exon  9 
và  20  của  gen  PIK3CA(3,14,15)  nên  được  khảo  sát 
trong các nghiên cứu tiếp theo. 

6.

7.

8.

9.

10.

11.

 

KẾT LUẬN 
Đột  biến  gen  KRAS  thường  gặp  trong 
UTĐTT  ở  bệnh  nhân  Việt  Nam.  Phát  hiện  đột 
biến  gen  KRAS  bằng  kỹ  thuật  COLD‐PCR  kết 
hợp giải trình tự chuỗi DNA nên được thực hiện 
cho bệnh nhân muốn được được trị bằng kháng 
thể đơn dòng cetuximab. 

12.

13.


14.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.
5.

Allegra  CJ,  Jessup  JM,  Somerfield  MR,  Hamilton  SR, 
Hammond  EH,  Hayes  DF,  et  al  (2009).  American  Society  of 
Clinical  Oncology  provisional  clinical  opinion:  testing  for 
KRAS  gene  mutations  in  patients  with  metastatic  colorectal 
carcinoma to predict response to anti‐epidermal growth factor 
receptor  monoclonal  antibody  therapy.  J  Clin  Oncol; 
27(12):2091‐6. 
Amado  RG,  Wolf  M,  Peeters  M,  Van  Cutsem  E,  Siena  S, 
Freeman  DJ,  et  al  (2008).  Wild‐type  KRAS  is  required  for 
panitumumab  efficacy  in  patients  with  metastatic  colorectal 
cancer. J Clin Oncol.;26(10):1626‐34. 
Benvenuti  S,  Sartore‐Bianchi  A,  Di  Nicolantonio  F,  Zanon  C, 
Moroni M, Veronese S, et al (2007). Oncogenic activation of the 
RAS/RAF  signaling  pathway  impairs  the  response  of 
metastatic  colorectal  cancers  to  anti‐epidermal  growth  factor 
receptor antibody therapies. Cancer Res;67(6):2643‐8. 
Ciardiello  F,  Tortora  G  (2008).  EGFR  antagonists  in  cancer 

treatment. N Engl J Med;358(11):1160‐74. 
Di Fiore F, Blanchard F, Charbonnier F, Le Pessot F, Lamy A, 
Galais  MP,  et  al  (2007).  Clinical  relevance  of  KRAS  mutation 

15.

16.

17.

18.

detection in metastatic colorectal cancer treated by Cetuximab 
plus chemotherapy. Br J Cancer;96(8):1166‐9. 
Domagala  P,  Hybiak  J,  Sulzyc‐Bielicka  V,  Cybulski  C,  Rys  J, 
Domagala  W  (2012).  KRAS  mutation  testing  in  colorectal 
cancer as an example of the pathologistʹs role in personalized 
targeted  therapy:  a  practical  approach.  Pol  J  Pathol;63(3):145‐
64. 
Edkins S, OʹMeara S, Parker A, Stevens C, Reis M, Jones S, et 
al.  (2006)  Recurrent  KRAS  codon  146  mutations  in  human 
colorectal cancer. Cancer Biol Ther;5(8):928‐32. 
Karapetis CS, Khambata‐Ford S, Jonker DJ, OʹCallaghan CJ, Tu 
D, Tebbutt NC, et al (2008). K‐ras mutations and benefit from 
cetuximab  in  advanced  colorectal  cancer.  N  Engl  J 
Med;359(17):1757‐65. 
Kristensen  LS,  Kjeldsen  TE,  Hager  H,  Hansen  LL  (2012). 
Competitive  amplification  of  differentially  melting  amplicons 
(CADMA)  improves  KRAS  hotspot  mutation  testing  in 
colorectal cancer. BMC Cancer.12:548. 

Li J, Wang L, Mamon H, Kulke MH, Berbeco R, Makrigiorgos 
GM  (2008).  Replacing  PCR  with  COLD‐PCR  enriches  variant 
DNA sequences and redefines the sensitivity of genetic testing. 
Nat Med;14(5):579‐84. 
Lievre A, Bachet JB, Boige V, Cayre A, Le Corre D, Buc E, et al 
(2008). KRAS mutations as an independent prognostic factor in 
patients  with  advanced  colorectal  cancer  treated  with 
cetuximab. J Clin Oncol;26(3):374‐9. 
Oliveira  C,  Westra  JL,  Arango  D,  Ollikainen  M,  Domingo  E, 
Ferreira A, et al (2004). Distinct patterns of KRAS mutations in 
colorectal  carcinomas  according  to  germline  mismatch  repair 
defects  and  hMLH1  methylation  status.  Hum  Mol 
Genet;13(19):2303‐11. 
Roberts  PJ,  Der  CJ  (2007).  Targeting  the  Raf‐MEK‐ERK 
mitogen‐activated protein kinase cascade for the treatment of 
cancer. Oncogene;26(22):3291‐310. 
Sartore‐Bianchi  A,  Martini  M,  Molinari  F,  Veronese  S, 
Nichelatti  M,  Artale  S,  et  al  (2009).  PIK3CA  mutations  in 
colorectal  cancer  are  associated  with  clinical  resistance  to 
EGFR‐targeted monoclonal antibodies. Cancer Res;69(5):1851‐
7. 
Sullivan KM, Kozuch PS (2011). Impact of KRAS Mutations on 
Management  of  Colorectal  Carcinoma.  Patholog  Res 
Int:219309. 
Van  Cutsem  E,  Nordlinger  B,  Cervantes  A  (2010).  Advanced 
colorectal  cancer:  ESMO  Clinical  Practice  Guidelines  for 
treatment. Ann Oncol;21 Suppl 5:v93‐7. 
Van Cutsem EJ, Oliveira J, Kataja VV (2005). ESMO Minimum 
Clinical  Recommendations  for  diagnosis,  treatment  and 
follow‐up of advanced colorectal cancer. Ann Oncol;16 Suppl 

1:i18‐9. 
Zuo Z, Chen SS, Chandra PK, Galbincea JM, Soape M, Doan S, 
et al (2009). Application of COLD‐PCR for improved detection 
of KRAS mutations in clinical samples. Mod Pathol.;22(8):1023‐
31. 

 

Ngày nhận bài báo 
 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 
  

08‐06‐2013 
20‐06‐2013 
15–07‐2013 

 
 

54

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh  



×