Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng bệnh melioidosis tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TP.HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.63 KB, 10 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG
BỆNH MELIOIDOSIS TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TP.HCM
Lê Viết Nhiệm*, Đinh Thế Trung**, Phạm Thị Lệ Hoa**, Đông Thị Hoài Tâm**, Nguyễn Phú Hương Lan***,
Lê Bửu Châu**, Nguyễn Thị Tuyết Mai***, Nguyễn Quang Trung**, Nguyễn Văn Hảo**

TÓM TẮT
Mở đầu: Melioidosis là bệnh quan trọng vì tỷ lệ tử vong cao, khó chẩn đoán sớm, điều trị lâu dài và tốn kém.
Chưa có nhiều nghiên cứu về dịch tễ, lâm sàng melioidosis ở Việt Nam cũng như ở Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới
TPHCM.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của melioidosis tại BVBNĐ và tình trạng nhạy
cảm kháng sinh của vi khuẩn Burkholderia pseudomallei đối với các kháng sinh thường dùng trong điều trị
melioidosis.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả loạt ca hồi cứu và tiền cứu những bệnh nhân
melioidosis điều trị tại BVBNĐ từ tháng 1/2009 đến tháng 3/2014.
Kết quả: Trong thời gian khoảng 5 năm, tại BVBNĐ có 58 trường hợp melioidosis. Nam chiếm đa số (86%),
nhóm tuổi mắc bệnh nhiều nhất là 40-60 (53,5%), nghề nông chiếm 32,8%, đa số các trường hợp (67,2%) mắc
bệnh vào mùa mưa. Đái tháo đường là bệnh nền thường gặp nhất (67,2%), kế đến là bệnh gan mạn (17,3%).
Phân bố bệnh theo thể lâm sàng: 24,1% NTH lan tỏa, 63,8% NTH và 12,1% NT khu trú. Tổn thương ở phổi
thường gặp nhất, kế đến là ở da và mô mềm; nhiễm trùng niệu dục ít gặp nhất; 20,7% không tìm thấy tạng tổn
thương. Vi khuẩn B. pseudomallei nhạy cảm hoàn toàn với Imipenem, Meropenem, Ceftazidime và TMP-SMX.
Kết luận: Melioidosis vẫn là bệnh khá hiếm ở các tỉnh phía Nam. Biểu hiện bệnh rất đa dạng nhưng không
có các yếu tố dịch tễ và lâm sàng thật sự đặc hiệu, chẩn đoán sớm bằng lâm sàng còn khó khăn.Tuy nhiên có thể
hướng đến chẩn đoán melioidosis sớm khi bệnh nhân có yếu tố tiếp xúc, cơ địa bệnh nền gợi ý và một số yếu tố
lâm sàng phù hợp. Điều đáng mừng là Burkholderia pseudomallei còn nhạy cảm hoàn toàn với tất cả các kháng
sinh thường dùng trong điều trị tấn công và tiệt trừ.
Từ khóa: Melioidosis, B. pseudomallei, MIC.


ABSTRACT
EPIDEMIOLOGICAL, CLINICAL AND LABORATORY FEATURES OF PATIENTS WITH
MELIOIDOSIS AT THE HCMC HOSPITAL FOR TROPICAL DISEASES
Le Viet Nhiem, Dinh The Trung, Pham Thi Le Hoa, Dong Thi Hoai Tam, Nguyen Phu Huong Lan,
Le Buu Chau, Nguyen Thi Tuyet Mai, Nguyen Quang Trung, Nguyen Van Hao
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 504 - 513
Background: Melioidosis is an important disease due to high mortality rate, difficulty in making early
diagnosis as well as long-term and expensive treatment. There are very few studies about epidemiological and
clinical manifestations of melioidosis in Vietnam and at HCMC Hospital for Tropical Diseases.
Objectives: To describe epidemiological, clinical and laboratory features of melioidosis and status of

* Bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam
Bộ môn Nhiễm, Đại học Y Dược TPHCM
Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới, TPHCM
Tác giả liên lạc: Lê Viết Nhiệm
ĐT: 0985968137
Email:

Nhiễm

503


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

antibiotic susceptibility of Burkholderia pseudomallei to antibiotics recommended for melioidosis treatment.
Methods: case series of melioidosis patients admitted to HCMC HTD from January 2009 to March 2014.
Results: The majority of cases were male (86%), the most common age group was 40-60 (53.5%), 32.8%

patients were farmers; majority of cases (67.2%) were seen in the rainy season. Diabetes was the most common
underlying disease (67.2%), followed by chronic liver disease (17.3%). Range of clinical pictures: 24.1%
disseminated septicemic, 63.8% sepsis and 12.1% localized infection. In terms of organ affected, pneumonia was
most commonly seen, followed by skin and soft tissue lessions and genitourinary infectionwas least commonly
seen; 20.7% patients had no focus infection found. B. pseudomallei were completely sensitive to Imipenem,
Meropenem, Ceftazidime and TMP-SMX.
Conclusions: Melioidosis is still relatively rare in the southern provinces of Vietnam. Clinical
manifestations are diverse but without specific epidemiological and clinical factors, early diagnosis based on
clinical features is difficult. However, melioidosis could be suspected when patients presenting with appropriate
exposed factors, underlying diseases and clinical manifestations. Fortunately, the bacteria are completely sensitive
to all antibiotics recommended for active and eradication phases of treatment.
Key words: Melioidosis, B. pseudomallei, MIC.

MỞ ĐẦU
Bệnh Melioidosis do vi khuẩn Burkholderia
pseudomallei gây ra, được Whitmore và
Krishnaswami mô tả lần đầu tiên năm 1912(7,21).
Trong hơn 25 năm qua, bệnh nổi lên như một
nguyên nhân bệnh tật và tử vong quan trọng ở
vùng Đông Nam Á và Bắc Úc. Tỉ lệ tử vong khá
cao: 14% ở Bắc Úc(5) và lên đến 43% ở Đông Bắc
Thái Lan(10,15).
Việt Nam là vùng dịch tễ của melioidosis,
trường hợp đầu tiên được Pons và Advier báo
cáo năm 1925 trên một thai phụ trẻ ở Thủ
Đức(17). Sau đó, trong khoảng những thập niên
từ 1940 đến 1970, rất nhiều trường hợp
melioidosis trên lính Pháp và lính Mỹ tham
chiến ở Việt Nam đã được ghi nhận(2). Tuy
nhiên, cho đến nay, chỉ có một số ít báo cáo về

lâm sàng và vi sinh trên bệnh lý này ở người
Việt Nam. Kết quả các nghiên cứu gần đây cho
thấy thể bệnh thường gặp nhất là nhiễm trùng
huyết, vi khuẩn nhạy hoàn toàn với Imipenem
và Ceftazidime nhưng kháng TMP-SMX (bằng
phương pháp khuếch tán đĩa) đến 45,8% và tỷ
lệ tử vong vẫn cao trên 35%(12,14,16).
Tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới (BVBNĐ), có
khoảng từ 10 đến 15 trường hợp melioidosis mỗi
năm(13). Tuy nhiên, cho đến nay tại bệnh viện chỉ

504

báo cáo một vài trường hợp lâm sàng đặc biệt
mà chưa có tổng kết chi tiết về đặc điểm lâm
sàng, cận lâm sàng, vi sinh và kết quả điều trị
cho các bệnh nhân melioidosis.

Mục tiêu nghiên cứu
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận
lâm sàng của bệnh melioidosis.
2. Mô tả tình trạng nhạy cảm kháng sinh của
vi khuẩn Burkholderia pseudomallei đối với các
kháng sinh thường dùng trong điều trị
melioidosis.

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả loạt ca hồi cứu và tiền cứu, trong đó
hồi cứu từ 1/2009 đến 12/2012 và tiền cứu từ

1/2013 đến 3/2014.

Địa điểm nghiên cứu
Các khoa lâm sàng Bệnh viện Bệnh Nhiệt
Đới TpHCM

Đối tượng nghiên cứu
Dân số nghiên cứu
Bệnh nhân melioidosis.
Dân số chọn mẫu
Bệnh nhân melioidosis điều trị nội trú tại
BVBNĐ TP. Hồ Chí Minh trong khoảng thời

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
gian từ tháng 1/2009 đến 3/2014.

Phương pháp chọn mẫu
Lấy tất cả các trường hợp đủ tiêu chuẩn chọn
mẫu.

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân nội trú có kết quả cấy máu hoặc
dịch thể (mủ, đàm, nước tiểu,...) dương tính với
Burkholderia pseudomalleitrong khoảng thời gian
từ tháng 1/2009 đến 3/2014.
Các bệnh nhân tiền cứu được giải thích về
mục đích của nghiên cứu, lợi ích cũng như nguy

cơ khi tham gia nghiên cứu và lấy chấp thuận
tham gia nghiên cứu bằng văn bản.

Một số định nghĩa
- Phân loại theo thể lâm sàng theo Hiệp hội
bệnh truyền nhiễm Thái Lan(8): Nhiễm trùng
huyết lan tỏa: cấy máu (+) và >1 ổ nhiễm trùng
không liền kề; nhiễm trùng huyết: cấy máu (+)
và có ≤1 ổ nhiễm trùng ; nhiễm trùng khu trú: có
ổ nhiễm trùng tại chỗ và kết quả cấy máu (-) ; du
khuẩn huyết: cấy máu (+) nhưng không có triệu
chứng lâm sàng.
- Phân loại theo tạng tổn thương: phổi, gan,
lách…
- Phân loại theo thời gian diễn tiến bệnh(6):
Thể cấp tính: < 2 tháng, thể mạn tính: ≥ 2 tháng.

Phương pháp phân lập vi khuẩn
Burkholderia pseudomallei và đo MIC tại
khoa Vi sinh, BVBNĐ
Bệnh phẩm máu
Mẫu máu được cấy trong chai Bactec và
được ủ trong tủ cấy tự động của hệ thống cấy
máu Bactec. Kháng sinh đồ và MIC: đặt các đĩa
giấy Ceftazidime, Imipenem, Amoxicilline/Acid
Clavulanic, Doxycycline làm kháng sinh đồ và ủ
trong 18-24 giờ. Đo MIC các kháng sinh này
bằng
card
Vitek


MIC
của
Trimethoprim/Sulfamethoxazole bằng E-test của
hãng Biomérieux. Đọc kết quả kháng sinh đồ
theo hướng dẫn của Viện Tiêu chuẩn về lâm
sàng và xét nghiệm của Hoa Kỳ (CLSI).

Nhiễm

Nghiên cứu Y học

Bệnh phẩm đàm và các bệnh phẩm khác
quá trình cấy, định danh và thực hiện kháng
sinh đồ theo quy trình chuẩn của khoa Vi sinh,
BVBNĐ.
Đánh giá tình trạng nhạy cảm kháng sinh
của vi khuẩn Burkholderia pseudomallei theo
hướng dẫn CLSI(3).

Phân tích thống kê:
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
16.0 và EpiInfo 2002.

Vấn đề y đức
Đây là nghiên cứu mô tả, không can thiệp
vào quá trình chẩn đoán và điều trị. Đề cương
nghiên cứu đã được Hội đồng Đạo đức BVBNĐ
thông qua ngày 13 tháng 09 năm 2013.


KẾT QUẢ
Chúng tôi thu nhận được 58 trường hợp
melioidosis, trong đó có 41 ca hồi cứu (70,7%) và
17 ca (29,3%) tiền cứu.

Đặc điểm dân số và dịch tễ
Phái tính: nam chiếm đa số các trường hợp
với 50 bệnh nhân (86%), tỷ lệ nam: nữ là 6: 1.
Tuổi: tuổi nhỏ nhất là 21, lớn nhất là 79 tuổi.
Nhóm tuổi mắc bệnh nhiều nhất là 40-60, chiếm
53,5%.
Nghề nghiệp:làm nông có 19 trường hợp,
chiếm 32,8%. Hai phần ba các trường hợp còn lại
có nghề nghiệp khác không liên quan đến việc
tiếp xúc với đất hay nước như nhân viên văn
phòng, tiếp viên nhà hàng, tài xế xe khách, công
nhân may mặc,…
Địa dư: khu vực Đông Nam Bộ chiếm đa số
(60,3%). Trong đó, nhiều nhất là TpHCM với 15
ca, kế đến là Tây Ninh 7 ca, Bình Dương 6 ca và
Bình Phước 5 ca. Khu vực Tây Nam Bộ và Nam
Trung Bộ có số trường hợp bằng nhau, 10 ca
(17,3%) mỗi khu vực.
Mùa/tháng mắc bệnh trong năm: đa số các
trường hợp (67,2%) mắc bệnh vào mùa
mưa.Tháng 8 (giữa mùa mưa) có nhiều ca bệnh

505



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

nhất với 12 trường hợp (20,7%), kế đến là tháng 6
có 9 trường hợp (15,5%).
Bệnh nền và cơ địa: đái tháo đường (ĐTĐ) là
bệnh nền thường gặp nhất (67,2%). Trong số 39
trường hợp ĐTĐ, 22 ca đã biết tiền căn ĐTĐ
trước đó, 17 ca mới được phát hiện trong thời
gian nằm viện. Riêng về thông tin týp ĐTĐ, chỉ
có 1 trường hợp ĐTĐ týp 1; 17 trường hợp ĐTĐ
týp 2 và 5 trường hợp hồi cứu không rõ thông tin
về týp. Bệnh nền hay gặp kế đến là bệnh gan
mạn với 10 trường hợp (17,3%), trong đó có 6 ca
được phát hiện trong thời gian nằm viện và 4 ca
đã biết từ trước. Có 8 bệnh nhân (13,8%) không
tìm thấy bệnh nền hay cơ địa đặc biệt nào.

Phân bố bệnh cảnh lâm sàng
Phân bố theo thể lâm sàng: áp dụng phân
loại của hiệp hội bệnh truyền nhiễm Thái Lan,
chúng tôi ghi nhận có 14 trường hợp (24,1%)
nhiễm trùng huyết lan tỏa (NTH lan tỏa), 37
trường hợp (63,8%) nhiễm trùng huyết (NTH) và
7 trường hợp (12,1%) nhiễm trùng khu trú (NT
khu trú). Không có trường hợp nào được ghi
nhận là du khuẩn huyết (Bảng 1).
Bảng 1: Phân bố các thể lâm sàng và phân bố tổn
thương tạng trong từng thể lâm sàng (n = 58)

Thể bệnh

NT khu trú
NTH lan tỏa (n =
NTH (n = 37)
(n = 7)
14)
- Phổi (2
- Phổi–Gan–Lách (1
- Phổi (15 ca)
ca)
ca)
- Phổi– Da –Xương
- Da (5 ca) - Gan (2 ca)
(1 ca)
- Lách (2 ca)

Cơ quan
tổn
thương

- Phổi–Da (7 ca)

- Hệ niệu (2 ca) - Phổi–Xương (1 ca)
- Da (2 ca)

- Da–Xương (2 ca)

- Xương (2 ca)


- Gan–Lách (2 ca)

- Không thấy
tạng tổn thương
(12 ca)

Dạng NT khu trú được ghi nhận là nhiễm
trùng da mô mềm và viêm phổi (chỉ một tạng
tổn thương). Bệnh nhân NTH có biểu hiện tổn
thương tạng rất đa dạng (phổi, gan, lách, hệ
niệu, da mô mềm và xương), trong đó nổi trội

506

nhất là viêm phổi. Ngoài ra, khoảng 1/3 bệnh
nhân NTH (12/37 trường hợp) không ghi nhận
được tạng tổn thương. Trong số các bệnh nhân
NTH lan toả, 2/14 bệnh nhân (14,3%) có tổn
thương 3 tạng và 12 trường hợp còn lại có tổn
thương 2 tạng (tổn thương cùng lúc ở phổi và
da chiếm tỷ lệ hơn 50%).
Phân bố theo tạng tổn thương: 46 trường hợp
(79,3%) melioidosis có tổn thương tạng, trong đó
phổi là loại tạng tổn thương thường gặp nhất
(58,7%), kế đến là da và mô mềm (37%), xương
khớp (13%), gan (10,9%), lách (10,9%) và ít gặp
nhất là nhiễm trùng niệu dục (4,3%) (Bảng 1).

Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
Sốt hiện diện ở 100% trường hợp. Tính đến

thời điểm nhập viện BVBNĐ, thời gian sốt
ngắn nhất là 1 ngày, dài nhất là 90 ngày, trung
vị (IQR) là 11,5 (6 – 20,3) ngày. Chỉ 1/3 bệnh
nhân nhập viện trong tuần đầu tiên của bệnh.
Bệnh nhân nhập viện nhiều nhất (khoảng 1/2
bệnh nhân) khi sốt khởi phát từ 1 tuần – 1
tháng. Đặc biệt, có 3 bệnh nhân (5,2%) diễn
tiến bệnh mạn tính, nhập viện BVBNĐ sau khi
khởi phát sốt trên 2 tháng.

Biểu hiện lâm sàng theo cơ quan tổn thương
Viêm phổi
Đa số là viêm phổi nguyên phát (76%). Triệu
chứng cơ năng: ho là triệu chứng gặp ở gần một
nửa các trường hợp (44,4%), có thể là ho khan
hoặc kèm khạc đàm. Suy hô hấp (SHH) có tỷ lệ
khá cao (77,8%), đặc biệt thể viêm phổi có NTH
lan tỏa có đến 90% trường hợp có SHH. Đa số
các trường hợp SHH ở mức độ nặng, phải thở
máy 16/21 ca (76,2%).
Hình ảnh X-quang phổi: dạng tổn thương
chủ yếu là phế nang (88,9%), phần lớn là tổn
thương cả hai bên (77,8%). Về vị trí thùy tổn
thương, đa số là tổn thương thùy dưới (43,5%)
hoặc cả 2 thùy (43,5%), còn tổn thương thùy trên
đơn thuần chỉ có 13%. Tràn dịch màng phổi
thường lượng ít và chỉ ghi nhận ở 4 trường hợp
thể viêm phổi có NTH và NTH lan tỏa (14,8%).

Chuyên Đề Nội Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Về vi sinh: thực hiện cấy BAL ở 16 trường
hợp và cấy đàm 1 trường hợp nhưng chỉ có 3
trường hợp (+) với B. pseudomallei (17,6%). Cấy
dịch màng phổi cũng (+) B. pseudomallei trên 1
mẫu duy nhất được cấy.
Nhiễm trùng da, mô mềm
Đa số các trường hợp là tổn thương da, mô
mềm nguyên phát (62,5%). Dạng tổn thương
nhiều nhất là nhọt hay áp xe dưới da (35,4%), kế
đến là mụn mủ (23,5%) và viêm mô tế bào
(23,5%); đặc biệt tổn thương phối hợp mụn mủ
và áp xe dưới da cũng được ghi nhận ở 3 trường
hợp (17,6%). Số lượng tổn thương thường ≥ 2 ổ
(70,6%). Về vị trí, hay gặp là ở chân (52,9%) hoặc
nhiều nơi (chân, tay, đầu mặt, thân mình)
(35,3%), đặc biệt cả 6/6 trường hợp tổn thương
nhiều vị trí này là ở thể NT da, mô mềm có NTH
lan tỏa.
Tỷ lệ cấy phân lập được B. pseudomallei
tương đối cao ở loại bệnh phẩm là mủ hay dịch
vết thương da, mô mềm này (70,6%).
Nhiễm trùng niệu dục
Có 2 trường hợp nhiễm trùng niệu dục thể
áp xe tiền liệt tuyến có NTH: đều biểu hiện triệu
chứng niệu đạo (tiểu gắt, tiểu lắt nhắt), không
ghi nhận bí tiểu. Triệu chứng cơ quan lân cận ở
trực tràng như táo bón, cảm giác mót rặn hay

thốn hậu môn cũng thấy ở 1 trường hợp. Xét
nghiệm nước tiểu: tổng phân tích nước tiểu
thường qui phát hiện tế bào mủ ở 1 ca; cấy nước
tiểu (+) ở 1/2 ca. Mủ tiền liệt tuyến được chọc hút
qua ngã trực tràng ở 1 bệnh nhân và kết quả cấy
cũng dương tính với vi khuẩn này.
Áp xe nội tạng
7 bệnh nhân cấy máu (+) có áp xe nội tạng
bao gồm 2 ca áp xe gan, 2 ca áp xe lách và 3 ca áp
xe ở cả gan và lách. Không có trường hợp nào ở
thể NT khu trú.
Áp xe gan
đau hạ sườn phải và khám sờ thấy gan to
trên lâm sàng được thấy ở tất cả những trường
hợp được ghi nhận đầy đủ thông tin.Trên siêu

Nhiễm

Nghiên cứu Y học

âm và/hoặc CT scan bụng, có thể thấy áp xe gan
chủ yếu ở thùy phải (80%), phần lớn là áp xe đa
ổ (80%) và đa số là kích thước > 6cm (60%).
Áp xe lách
Đau hạ sườn trái và khám thấy lách lớn trên
lâm sàng được ghi nhận ở đa số trường hợp áp
xe lách (75% và 100%). Trên siêu âm và/hoặc CT
scan bụng ghi nhận áp xe đa số ở cực dưới của
lách (50%), ngoài ra áp xe có thể ở rốn lách (25%)
hay ở nhiều vị trí (25%). Dạng tổn thương chủ

yếu là đa ổ (80%). Đường kính khối áp xe đa số
là nhỏ ≤ 4 cm (60%).
Viêm khớp
Viêm khớp ghi nhận ở 2 trường hợp NTH và
4 trường hợp NTH lan tỏa. Đa số là tổn thương
thứ phát 5/6 trường hợp (83.3%). Triệu chứng
sưng đau và hạn chế vận động có ở tất cả các
trường hợp, tuy nhiên mức độ thường nhẹ. Vị trí
tổn thương thường gặp nhất là khớp gối 4/6
trường hợp (66,7%), thường là 1 bên (66,7%).

Biến chứng
Sốc nhiễm trùng
Sốc NT xảy ra ở 15 bệnh nhân: 4 trường hợp
NTH lan tỏa, 10 trường hợp NTH và 1 trường
hợp NT khu trú (viêm phổi). Tỷ lệ sốc NT tính
chung là 25,9%, ở nhóm cấy máu (+) là 23,5%
(28,6% ở nhóm NTH lan tỏa và 27% ở nhóm
NTH), ở nhóm nhiễm trùng khu trú là 14,3%. Đa
số các trường hợp sốc NT xảy ra vào ngày đầu
sau nhập viện (46,7%), có trường hợp xảy ra sốc
sau nhập viện 17 ngày; trung vị (IQR) của thời
điểm sốc là 5 (1-7) ngày sau nhập viện. Tỷ lệ tử
vong ở bệnh nhân sốc NT rất cao (86,7%).
Biến chứng khác
Suy hô hấp xảy ra ở 21 bệnh nhân (36,2%),
đa số là suy hô hấp nặng cần thở máy (76,2%).
Biến chứng tổn thương thận cấp xảy ra ở 23
trường hợp (39,7%) gồm 10 trường hợp
(43,5%) tổn thương thận cấp hồi phục và 13

trường hợp (56,5%) suy thận cấp không hồi
phục (tử vong).

507


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

Một số đặc điểm cận lâm sàng
Thay đổi dấu ấn nhiễm trùng lúc nhập viện
Bạch cầu: khoảng 1/2 trường hợp có BC
trong giới hạn bình thường, chỉ có 36,8% bệnh
nhân có BC tăng (≥ 11 K/µL). Đặc biệt, có 14%
trường hợp có BC giảm (< 4 K/µL), thường gặp
trong nhóm NTH hay NTH lan tỏa. Không có sự
khác biệt về sự thay đổi BC giữa các thể NTH lan
tỏa, NTH và NT khu trú (Kruskal-Wallis, p = 0,5).
Trị số BC ĐNTT: gần 1/2 trường hợp có trị
số BC ĐNTT nằm trong giới hạn bình thường,
1/2 bệnh nhân có BC ĐNTT tăng > 7,5 K/µL. Có 4
trường hợp NTH hoặc NTH lan tỏa (7%) có trị số
BC ĐNTT lúc vào viện rất thấp < 1,7 K/µL, trong
đó có 2 trường hợp giảm rất nặng (0,46 K/µL và
0,39 K/µL). Không có sự khác biệt giữa ba thể
lâm sàng (Kruskal-Wallis, p = 0,5).
Trị số BC Lympho: 77,2% các trường hợp có
BC Lympho giảm (< 1,5 K/µL). Không có sự khác
biệt trị số BC Lympho giữa 3 thể bệnh (KruskalWallis, p = 0,6).

Procalcitonin máu (PCT): trị số PCT thấp
nhất là 0,078 ng/mL, cao nhất là 75,5 ng/mL,
trung vị (IQR) là 3,91 (1,5-8,3) ng/mL. Có 2 ca
(12,5%) có trị số PCT từ 0,5 – 2 ng/mL và 11 ca
(68,8%) có PCT > 2 ng/mL. Không thấy sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê của nồng độ PCT giữa
ba thể bệnh (Kruskal-Wallis, p = 0,15).
C-reactive protein (CRP): không có trường
hợp nào ở thể NT khu trú được chỉ định CRP
trong 48 giờ đầu sau nhập viện. Có 15 trường
hợp NTH và NTH lan tỏa được đo CRP trong 48
giờ đầu sau nhập viện, trị số thấp nhất là 8 mg/L,
cao nhất là 524 mg/L, trung vị (IQR) là 224 (149345) mg/L; 80% các trường hợp có CRP tăng cao
> 100 mg/L. Trị số CRP tăng cao hơn đáng kể ở
thể NTH lan tỏa so với thể NTH (Mann-Whitney,
p = 0,04).

Đặc điểm vi sinh
Cấy định danh bệnh phẩm
- Thời gian có kết quả định danh: trung vị (IQR)
là 4 (3-5) ngày tính từ lúc lấy mẫu bệnh phẩm,

508

sớm nhất là 1 ngày và trễ nhất là 9 ngày. Trong
đó, bệnh phẩm mủ vết thương thường có kết
quả định danh chậm hơn bệnh phẩm máu.
Kháng sinh đồ theo theo phương pháp khuếch tán
đĩa: theo phương pháp khuếch tán đĩa, B.
Pseudomallei nhạy hoàn toàn với Amox + Clav

acid, Ceftazidime, Imipenem, Doxycycline và
Meropenem. Kháng TMP-SMX trong 1/3 các
trường hợp.
Kháng sinh đồ với phương pháp đo MIC
Bảng 2: Tình trạng nhạy cảm kháng sinh in vitro
đánh giá theo phương pháp đo MIC
MIC (µg/mL) Mức độ nhạy cảm n (%)
trung vị (IQR) Nhạy Kháng Kháng
TG
Ceftazidime (n = 1,5 (1,37-1,5)
25/25
0
0
25)
(100%)
Imipenem (n = 0,38 (0,25-0,5) 35/35
0
0
35)
(100%)
Meropenem (n 0,75 (0,5-1)
2/2
0
0
= 2)
(100%)
TMP-SMX (n = 0,064(0,04720/20
0
0
20)

(100%)
0,064)
Amox + Clav
1,5 (1-2)
13/14
1/14
0
acid (n=14 )
(92,9%) (7,1%)

Dựa trên MIC, B. pseudomallei nhạy cảm với
Amox + Clav acid trong 92,9% các trường hợp,
chỉ có 1 trường hợp (7,1%) kháng trung gian với
MIC = 12 µg/mL. Vi khuẩn nhạy cảm 100% với
TMP-SMX và các kháng sinh Imipenem,
Meropenem, Ceftazidime.MIC của TMP-SMX
thấp nhất là 0,0125 µg/mL, cao nhất là 0,125
µg/mL, trung vị (IQR) là 0,064 (0,047-0,064)
µg/mL (Bảng 2).

BÀN LUẬN
Về tính phổ biến của melioidosis, kết quả
nghiên cứu cho thấy số trường hợp mắc hàng
năm tại BVBNĐ tương đối ít, khoảng 10 - 15
trường hợp mỗi năm. Theo báo cáo tại BV Chợ
Rẫy năm 2006, hàng năm tại BV này nhận điều
trị khoảng 20 trường hợp bệnh(12). Điều này
cho thấy bệnh melioidosis vẫn là bệnh tương
đối hiếm gặp ở các tỉnh phía nam xung quanh
TP. HCM.


Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Đặc điểm dân số, dịch tễ và các yếu tố nguy
cơ mắc bệnh
Phái tính
Trong số các bệnh nhân nghiên cứu, nam
giới chiếm ưu thế (86%), điều này tương tự các
nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam(5,10,12,14).
Nguyên nhân bệnh ưu thế ở nam có lẽ do nam
giới thường tiếp xúc với môi trường đất, nước
nhiều hơn nữ nên nguy cơ phơi nhiễm với B.
pseudomallei nhiều hơn.

Nghề nghiệp
Nghề nông chiếm gần 1/3 các trường hợp,
thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu ở Thái Lan
(72%)(9) và nghiên cứu ở miền Bắc của Nguyễn
Quang Tuấn (66,9%)(14). Tuy nhiên, nghiên cứu
của Nguyễn Đình Cường ở miền Nam cũng cho
kết quả nghề nông chiếm tỷ lệ thấp (22,5%)(12).
Trong các trường hợp tiền cứu, chúng tôi chú ý
khai thác công việc cụ thể bệnh nhân thường
xuyên làm và ghi nhận khoảng 60% các trường
hợp có làm các công việc có tiếp xúc thường
xuyên với đất (bao gồm đất khô và đất bùn).

Bệnh nền và cơ địa

Trong nghiên cứu này, ĐTĐ là bệnh nền
thường gặp nhất (67,2%) bao gồm những ca
mới được phát hiện ĐTĐ trong thời gian nằm
viện và chủ yếu là ĐTĐ týp 2. Điều này tương
tự các báo cáo trên thế giới, tỷ lệ cơ địa ĐTĐ
từ 37-60% ở Úc và Thái Lan(2); 32-50% theo các
nghiên cứu trước đây ở Việt Nam(12,14). Tỷ lệ
ĐTĐ mới phát hiện khi nhập viện điều trị
melioidosis mà không được chẩn đoán trước
đó khá cao, lên đến 43,6% trong nhóm các
bệnh nhân có cơ địa ĐTĐ của chúng tôi, tỷ lệ
này cao hơn nhiều so với nghiên cứu ở Thái
Lan (dưới một phần ba các trường hợp)(10).
Bên cạnh đó, có 13,8% các trường hợp không
tìm thấy bệnh nền hay cơ địa đặc biệt nào, tỷ lệ
này thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu ở Úc
(20%), Thái Lan (24-36%) hay ở BV Chợ Rẫy
(31%)(7,5,12).

Nhiễm

Nghiên cứu Y học

Đặc điểm lâm sàng
Các thể lâm sàng
Bệnh cảnh lâm sàng và diễn tiến bệnh của
melioidosis rất đa dạng và phong phú, do đó có
nhiều cách phân loại khác nhau tùy theo mỗi tác
giả. Do đó, chúng tôi thực hiện phân loại các
trường hợp trong nghiên cứu này dựa trên cách

phân loại lâm sàng melioidosis của hiệp hội
bệnh truyền nhiễm Thái Lan. Kết quả cho thấy
thể bệnh được ghi nhận nhiều nhất là thể NTH
(63,8%), kế đến là NTH lan tỏa (24,1%) và ít nhất
là NT khu trú (12,1%), không có trường hợp nào
là du khuẩn huyết (Bảng 5). Trong khi đó, kết
quả nghiên cứu ở Thái Lan trên 345 trường hợp
melioidosis với cách phân loại tương tự cho thấy
tỷ lệ thể bệnh NTH lan tỏa là cao nhất (lên đến
45%), kế đến là NT khu trú với 42%, còn thể
NTH chỉ ghi nhận được 12%; đặc biệt tình trạng
du khuẩn huyết cũng được ghi nhận ở 0,3% các
trường hợp(7,8,20).
Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng
melioidosis theo cơ quan tổn thương
Nghiên cứu này ghi nhận 46 trường hợp
(79,3%) melioidosis có tổn thương tạng, trong đó
phổi là loại tạng tổn thương thường gặp nhất
(58,7%), kế đến là da và mô mềm, xương khớp,
gan, lách và ít gặp nhất là nhiễm trùng niệu dục.
Viêm phổi
Viêm phổi trong nghiên cứu này chiếm tỷ lệ
46,6% các trường hợp melioidosis và lên đến
58,7% nếu tính riêng các trường hợp melioidosis
có tổn thương tạng. Tỷ lệ này phù hợp với đa số
nghiên cứu trên thế giới như Úc (58%), Thái Lan
(45 – 60%), Malaysia (58%)(2). Ở Việt Nam,
nghiên cứu trước đây ở BV Chợ Rẫy cũng cho
kết quả tương tự với tỷ lệ viêm phổi là 60,5%(12)
và còn cao hơn nữa trong nghiên cứu ở BV Bạch

Mai (78,8%)(14).
Đa số các trường hợp viêm phổi có nhiễm
trùng huyết (92,6%). SHH chiếm tỷ lệ khá cao
trong nghiên cứu chúng tôi, gần đến 80% các
trường hợp viêm phổi; riêng viêm phổi trong thể
NTH lan tỏa có tỷ lệ SHH lên đến 90%. Đa số các

509


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

trường hợp SHH ở mức độ nặng, cần phải thở
máy (76,2%). So với tỷ lệ SHH trong nghiên cứu
ở bệnh nhân viêm phổi melioidosis của Thái Lan
chỉ 22,4%(19), tỷ lệ biến chứng này của chúng tôi
cao hơn gần 3,5 lần.
Hình ảnh tổn thương trên X-quang phổi đa
dạng và không đặc hiệu cho tác nhân B.
pseudomallei, trong đó thâm nhiễm phế nang là
dạng tổn thương chủ yếu (88,9%), phần lớn
trường hợp có tổn thương cả 2 bên (77,8%) và đa
số là tổn thương cả 2 thùy phổi (43,5%) hoặc đơn
thuần thùy dưới (43,5%), không thấy hình ảnh
hang trên X-quang trong các bệnh nhân nghiên
cứu này. Đặc biệt, có 8 trường hợp (29,6%) bệnh
nhân có hình ảnh tổn thương tiến triển nhanh
lan tỏa khắp 2 phế trường khiến bác sĩ lâm sàng

nghĩ đến viêm phổi do vi rút cúm hoặc vi khuẩn
tụ cầu khi chưa có kết quả định danh vi trùng.
Điều này cũng đã được báo cáo trong các nghiên
cứu của nhiều tác giả Thái Lan và Úc(1,11,19). Tuy
nhiên, chúng tôi không gặp trường hợp nào có
tổn thương dạng hang giống bệnh lao trên Xquang phổi như báo cáo của các tác giả Việt Nam
cũng như các tác giả Thái Lan(1,14,19). Áp xe phổi
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ghi
nhận được 1 trường hợp (3,7%).
Nhiễm trùng da, mô mềm
Nghiên cứu ghi nhận nhiễm trùng da và mô
mềm đứng hàng thứ hai sau viêm phổi trong các
trường hợp melioidosis của chúng tôi với 17
trường hợp, chiếm 29,3% và lên đến 37% nếu
tính riêng các trường hợp có tổn thương tạng.
Trong đó, đa số là tổn thương nguyên phát
(62,5%). Dạng tổn thương nhiều nhất là nhọt hay
áp xe dưới da (35,4%), kế đến là mụn mủ
(23,5%), viêm mô tế bào (23,5%) và tổn thương
nhiều dạng phối hợp (17,6%). Vị trí tổn thương
thường gặp nhất là ở chân (52,9%).Trong nghiên
cứu ở Úc, tác giả Bart J. Currie cũng thấy rằng
nhiễm trùng da và mô mềm cũng thường gặp
chỉ sau viêm phổi (16,1%)(5). Kết quả tương tự
cũng được ghi nhận ở Thái Lan và Malaysia với
tỷ lệ lần lượt là 13% và 24%, đứng thứ hai sau
viêm phổi(2,20).

510


Các yếu tố dịch tễ, lâm sàng gợi ý chẩn đoán
sớm melioidosis và thách thức trong chẩn
đoán
Chẩn đoán melioidosis dựa vào các yếu tố
dịch tễ và lâm sàng trước khi có kết quả định
danh vi khuẩn B. pseudomallei từ các mẫu bệnh
phẩm là một vấn đề khó bởi lâm sàng rất đa
dạng và phong phú. Tác giả Nguyễn Quang
Tuấn cho rằng chẩn đoán lâm sàng đúng
melioidosis ban đầu rất khó và trong nghiên cứu
của tác giả chỉ có 8,8% trường hợp được chẩn
đoán melioidosis trước khi có kết quả định danh
vi khuẩn(14). Ở Malaysia, trong một nghiên cứu
của Yee báo cáo không có trường hợp nào được
chẩn đoán trước khi có kết quả vi sinh(24). Trong
nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng không có
trường hợp nào trong số 25 bệnh nhân có nhập
viện tuyến trước được chẩn đoán đúng
melioidosis tại các bệnh viện này. Tại BVBNĐ, có
12 trường hợp (20,7%) được chẩn đoán
melioidosis dựa vào các yếu tố lâm sàng và dịch
tễ, trước khi có kết quả định danh vi khuẩn; 9/12
trường hợp này (75%) được chẩn đoán trong
vòng 3 ngày đầu nằm viện. Phân tích các trường
hợp này chúng tôi nhận thấy: bác sĩ lâm sàng có
kinh nghiệm sẽ hướng đến chẩn đoán
melioidosis khi bệnh nhân có các yếu tố dịch tễ
và lâm sàng sau:
Cơ địa ĐTĐ kèm theo một hay nhiều yếu tố
sau: sốt kéo dài; áp xe tạng, nhất là gan và/hoặc

lách; viêm phổi lan tỏa; sang thương da dạng
mụn mủ, áp xe hay viêm mô tế bào; nhiễm trùng
huyết +/- sốc nhiễm trùng kèm với tổn thương
nhiều tạng; dịch tễ: tiếp xúc với đất, nước, bụi;
tiền căn: nhiễm B. pseudomallei điều trị không
đầy đủ; vi sinh: soi nhuộm Gram bệnh phẩm
thấy trực trùng Gram âm và điều trị không đáp
ứng với kháng sinh thông thường như
Ceftriaxone, Amikacin, Oxacillin,...
Bệnh nhân càng có nhiều yếu tố trên càng
được nghĩ đến melioidosis trước tiên. Tuy nhiên,
không có yếu tố nào là đặc hiệu cho melioidosis,
vì vậy vấn đề chẩn đoán sớm tùy thuộc hoàn
toàn vào sự hiểu biết về melioidosis, kinh

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
nghiệm của bác sĩ lâm sàng. Nhiều tác giả trong
vùng dịch tễ lưu hành cao bệnh melioidosis cũng
cho rằng melioidosis là bệnh lý thật sự khó chẩn
đoán lâm sàng bởi vì bệnh cảnh lâm sàng quá đa
dạng và sự hiểu biết càng nhiều về bệnh lý này
của bác sĩ sẽ càng giúp chẩn đoán sớm và cứu
sống được nhiều bệnh nhân melioidosis(18,24). Vấn
đề chẩn đoán sớm bệnh lý này ở Việt Nam chắc
chắn sẽ khó khăn hơn nữa vì bệnh được xem là
khá hiếm.


Đặc điểm vi sinh và vấn đề nhạy cảm kháng
sinh của B. pseudomallei hiện nay
Chúng tôi nhận thấy:
- Bằng phương pháp khuếch tán đĩa cho thấy
vi khuẩn nhạy cảm hoàn toàn với các kháng
sinh: Ceftazidime, Imipenem, Meropenem và
Doxycycline; nhưng kháng với TMP-SMX ở 3/9
mẫu (33,3%) được đánh giá.
- Bằng việc khảo sát MIC ở các trường hợp
tiền cứu và một số trường hợp hồi cứu, cho thấy
vi khuẩn nhạy cảm hoàn toàn với các kháng sinh
Ceftazidime (MIC IQR 1,37-1,5 µg/mL),
Imipenem (MIC IQR 0,25-0,5 µg/mL),
Meropenem (MIC 0,5-1 µg/mL) với mức MIC
thấp. Điều thú vị là tất cả 20 trường hợp (100%)
được khảo sát MIC cho kháng sinh TMP-SMX
bằng Etest cho kết quả nhạy cảm hoàn toàn với
mức MIC thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn nhạy
cảm ≤ 2 µg/mL của CLSI(3) kể cả 3 trường hợp đã
được đánh giá là kháng với TMP-SMX bằng
phương pháp khuếch tán đĩa (MIC IQR
0,047/0,893-0,064/1,216 µg/mL). Ngoài ra, chúng
tôi cũng đánh giá thêm tình trạng nhạy cảm của
vi khuẩn với Amox/Clav acid do kháng sinh này
đã được thực hiện kháng sinh đồ bằng phương
pháp khuếch tán đĩa một cách thường quy cho vi
khuẩn B. pseudomallei ở khoa vi sinh của BVBNĐ
từ lâu nay, đồng thời khảo sát thêm MIC cho
một số trường hợp cho thấy chỉ có 1/14 trường
hợp (7,1%) có kháng trung gian với MIC = 12

µg/mL trong khi tất cả các trường hợp đều được
đánh giá là nhạy cảm với Amox/Clav acid với
phương pháp khuếch tán đĩa (Bảng 2).

Nhiễm

Nghiên cứu Y học

Kết quả này tương tự một nghiên cứu ở Úc
của tác giả Amy Crowe vừa công bố: vi khuẩn
nhạy hoàn toàn với Ceftazidime (MIC IQR 1,51,5 µg/mL) và Meropenem (MIC IQR 0,75-0,75
µg/mL), nhạy Doxycycline 96,6%; riêng TMPSMX thì còn nhạy 99,1%, tương tự nhiều nghiên
cứu trước đây ở Úc với tỷ lệ kháng TMP-SMX
≤ 2,5%(4,22). Trong khi đó, nghiên cứu ở Thái Lan
cho kết quả nhạy hoàn toàn với Carbapenem
(Imipenem hoặc Meropenem), nhạy 99,95% với
Ceftazidime(23) nhưng lại kháng TMP-SMX
khoảng 13%(22). Theo hiểu biết của chúng tôi,
trước nghiên cứu này tại Việt Nam chỉ có một
nghiên cứu do Đoàn Mai Phương và cộng sự
thực hiện ở BV Bạch Mai có đánh giá tình hình
nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn bằng việc
khảo sát MIC, tác giả thấy rằng các chủng phân
lập được đều nhạy hoàn toàn với Ceftazidime
(MIC ≤ 4 µg/mL), Imipenem MIC ≤ 2 µg/mL),
Meropenem (MIC ≤ 4 µg/mL) và đặc biệt là với
cả TMP-SMX (MIC ≤ 2/38 µg/mL)(16). Như vậy,
tình hình nhạy cảm đối với các kháng sinh được
khuyến cáo hiện tại là tốt, kể cả đối với kháng
sinh TMP-SMX vẫn còn nhạy cảm hoàn toàn

theo như kết quả nghiên cứu của chúng tôi và
tác giả Đoàn Mai Phương. Trên thực tế, các
trường hợp chúng tôi theo dõi được thì thấy
rằng chưa có trường hợp nào tái phát khi dùng
TMP-SMX trong 3 – 6 tháng sau xuất viện.

KẾT LUẬN
Bệnh melioidosis thường gặp ở nam, lứa tuổi
mắc bệnh nhiều nhất là 40 – 60. Tần suất mắc
melioidosis cao vào mùa mưa. Bệnh nền được
ghi nhận nhiều nhất là ĐTĐ. Thể lâm sàng
thường gặp nhất là NTH (63,8%), kế đến là NTH
lan tỏa (24,1%) và ít gặp nhất là NT khu trú
(12,1%). Tỷ lệ tử vong cao nhất ở thể NTH lan
tỏa (42,9%), kế đến là thể NTH (21,6%) và thể NT
khu trú (14,3%). Tổn thương tạng rất đa dạng,
viêm phổi là tổn thương tạng thường gặp nhất
(58,7%), phần lớn là viêm phổi nguyên phát
(76%). Biến chứng sốc nhiễm trùng gặp ở 1/4 các
trường hợp với tỷ lệ tử vong rất cao (86,7%).

511


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

BC máu lúc nhập viện bình thường trong 1/2
các trường hợp, các trường hợp BC tăng thì chỉ

tăng ở mức độ nhẹ. Các dấu ấn sinh học như
CRP, PCT cũng tăng cao trong các trường hợp
NTH hay NTH lan tỏa.
Phần lớn các trường hợp bệnh melioidosis
chẩn đoán vẫn nhờ vào kết quả định danh vi
khuẩn, chỉ khoảng 1/5 trường hợp được nghĩ
đến melioidosis trước khi có kết quả định danh.

11.

12.

13.

Tình trạng nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn
Burkholderia pseudomallei: vi khuẩn còn nhạy cảm
hoàn toàn đối với tất cả kháng sinh được khuyến
cáo cho giai đoạn tấn công (Ceftazidime,
Imipenem, Meropenem) và tiệt trừ (TMP-SMX,
Doxycycline).

14.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16.

1.

2.


3.

4.

5.

6.

7.

8.
9.

10.

512

Burivong W, Wu X, Saenkote W, Stern EJ (2012), "Thoracic
radiologic manifestations of melioidosis". Curr Probl Diagn
Radiol, 41(6), pp. 199-209.
Cheng AC, Currie BJ (2005), "Melioidosis: epidemiology,
pathophysiology, and management". Clin Microbiol Rev,
18(2), pp. 383-416.
Clinical and Laboratory Standards Institute (2007),
"Performance Standards for Antimicrobial Susceptibility
Testing; Seventeenth Informational Supplement ". 27(1).
Crowe A, McMahon N, Currie BJ, Baird RW (2014), "Current
antimicrobial susceptibility of first-episode melioidosis
Burkholderia pseudomallei isolates from the Northern

Territory, Australia". Int J Antimicrob Agents.
Currie BJ, Ward L, Cheng AC (2010), "The epidemiology and
clinical spectrum of melioidosis: 540 cases from the 20 year
Darwin prospective study". PLoS Negl Trop Dis, 4(11), pp.
e900.
Currie B. J., Fisher D. A., Anstey N. M., Jacups S. P. (2000),
"Melioidosis: acute and chronic disease, relapse and reactivation". Trans R Soc Trop Med Hyg, 94(3), pp. 301-4.
Currie Bart J (2010), "Burkholderia pseudomallei and
Burkholderia mallei: Melioidosis and Glanders". Mandell,
Douglas, and Bennett’s principles and practice of Infectious
diseases-7th Edition, 2 (Part III-Infectious diseases and their
etiologic agents ), pp. 2869-2879.
Leelarasamee A., Bovornkitti S. (1989), "Melioidosis: review
and update". Rev Infect Dis, 11(3), pp. 413-25.
Limmathurotsakul D, Kanoksil M, Wuthiekanun V, Kitphati
R, deStavola B, et al (2013), "Activities of daily living
associated with acquisition of melioidosis in northeast
Thailand: a matched case-control study". PLoS Negl Trop Dis,
7(2), pp. e2072.
Limmathurotsakul
D,
Wongratanacheewin
S,
Teerawattanasook N, Wongsuvan G, Chaisuksant S, et al

15.

17.
18.
19.


20.

21.

22.
23.

24.

(2010), "Increasing incidence of human melioidosis in
Northeast Thailand". Am J Trop Med Hyg, 82(6), pp. 1113-7.
Meumann EM, Cheng AC, Ward L, Currie BJ (2012), "Clinical
features and epidemiology of melioidosis pneumonia: results
from a 21-year study and review of the literature". Clin Infect
Dis, 54(3), pp. 362-9.
Nguyễn Đình Cường (2006), "Khảo sát đặc điểm lâm sàng và
điều trị Melioidosis tại Bệnh viện Chợ Rẫy thời gian từ 1/2003
đến 12/2005". Luận văn Thạc sĩ Y học-Chuyên ngành: Nội
khoa-Đại học Y dược TP.Hồ Chí Minh.
Nguyễn Phú Hương Lan (2013), "Đề kháng kháng sinh 20102012". Chuyên đề sinh hoạt khoa học thường kỳ ngày 07-052013, Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới Tp Hồ Chí Minh.
Nguyễn Quang Tuấn (2003), "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng,
tính nhậy cảm kháng sinh và kết quả điều trị Melioidosis ở
Viện Y học Lâm sàng các Bệnh Nhiệt Đới". Luận văn tốt
nghiệp Bác sĩ chuyên khoa II-Chuyên ngành: Truyền NhiễmTrường Đại học Y Hà Nội.
Peacock SJ, Limmathurotsakul D, Lubell Y, Koh GC, White LJ,
et al (2012), "Melioidosis vaccines: a systematic review and
appraisal of the potential to exploit biodefense vaccines for
public health purposes". PLoS Negl Trop Dis, 6 (1), pp. e1488.
Phuong DM, Trung TT, Breitbach K, Tuan NQ, Nubel U, et al

(2008), "Clinical and microbiological features of melioidosis in
northern Vietnam". Trans R Soc Trop Med Hyg, 102 Suppl 1,
pp. S30-6.
Pons R., Advier M. (1927), "Melioidosis in Cochin China". J
Hyg (Lond), 26 (1), pp. 28-30.
Raja NS, Ahmed MZ, Singh NN (2005), "Melioidosis: an
emerging infectious disease". J Postgrad Med, 51 (2), pp. 140-5.
Reechaipichitkul W (2004), "Clinical manifestation of
pulmonary melioidosis in adults". Southeast Asian J Trop Med
Public Health, 35 (3), pp. 664-9.
Sirisanthana T, Punyagupta S, Stapatayavong B (1989),
"Melioidosis: Review of 686 cases and presentation of a new
clinical classification". Bangkok Medical Publisher, pp. 217229.
Whitmore A, Krishnaswami CS (1912), "An account of the
discovery of a hitherto undescribed infective disease occurring
among the population of Rangoon". Indian Med Gaz, 47, pp.
262-267.
Wiersinga WJ, Currie BJ, Peacock SJ (2012), "Melioidosis". N
Engl J Med, 367(11), pp. 1035-44.
Wuthiekanun V, Amornchai P, Saiprom N, Chantratita N,
Chierakul W, et al (2011), "Survey of antimicrobial resistance
in clinical Burkholderia pseudomallei isolates over two
decades in Northeast Thailand". Antimicrob Agents
Chemother, 55(11), pp. 5388-91.
Yee KC, Lee MK, Chua CT, Puthucheary SD (1988),
"Melioidosis, the great mimicker: a report of 10 cases from
Malaysia". J Trop Med Hyg, 91(5), pp. 249-54.

Ngày nhận bài báo:


27/10/2014

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

30/10/2014

Ngày bài báo được đăng:

10/01/2015

Chuyên Đề Nội Khoa



×