Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

6 đánh giá ảnh hưởng ngắn hạn của canxi hydroxit lên độ vi cứng của ngà chân răng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.07 KB, 4 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

6 ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG NGẮN HẠN CỦA CANXI HYDROXIT  
LÊN ĐỘ VI CỨNG CỦA NGÀ CHÂN RĂNG  
Trần Nguyễn Anh Đào*, Đinh Thị Khánh Vân**, Bùi Huỳnh Anh** 
TÓM TẮT 
Mục  tiêu:  Đánh giá ảnh hưởng của canxi hydroxit lên độ vi cứng của ngà chân răng sau thời gian đặt 
canxi hydroxit trong ống tủy 7 ngày và 30 ngày. 
Phương pháp: Nghiên cứu in vitro được thực hiện trên 20 răng cối nhỏ vĩnh viễn một chân đã đóng chóp. 
Tất cả các răng được cắt ngay dưới đường tiếp nối men‐ xê măng và ống tủy được sửa soạn bằng trâm dũa K, 
bơm rửa trong quá trình sửa soạn bằng nước cất. Các răng được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm (n=10) ‐ nhóm 1 
được đặt canxi hydroxit trong ống tủy trong 7 ngày ‐ nhóm 2 được đặt canxi hydroxit trong ống tủy trong 30 
ngày. Các răng của mỗi nhóm được đo độ cứng theo thang đo độ cứng Vickers trước và sau thử nghiệm tại vị trí 
cách gờ ống tủy 100μm với tải lực 100g trong 10 giây. Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 với phép kiểm T độc lập 
và T bắt cặp để ghi nhận và xử lý kết quả. 
Kết quả: Độ vi cứng ngà chân răng trong mỗi nhóm sau thử nghiệm giảm so với trước thử nghiệm, sự thay 
đổi này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05); tuy nhiên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh độ vi cứng 
ngà chân răng của hai nhóm sau thử nghiệm (p > 0,05). 
Kết luận: Việc đặt canxi hydroxit ngắn hạn trong ống tủy làm giảm độ vi cứng của ngà chân răng. 
Từ khóa: canxi hydroxit, độ vi cứng, ngà chân răng. 

ABSTRACT 
SHORT TERM EFFECT OF CALCIUM HYDROXIDE 
ON THE MICROHARDNESS OF RADICULAR DENTIN 
Tran Nguyen Anh Dao, Dinh Thi Khanh Van, Bui Huynh Anh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 298 ‐ 301 
Objectives: The aim of this study was to evaluate the effect of calcium hydroxide on the microhardness of 
radicular dentin after various intervals of time ( 7 days, 30 days). 
Methods: In this in vitro study, 20 single rooted premolars were used. The crowns of the teeth were removed 


and  the  canals  were  prepared.  The  sample  were  then  divided  into  2  groups  of  10  roots  each;  group  1‐  having 
calcium application for 7 days; group 2‐ having calcium hydroxide application for 30 days. Dentin microhardness 
was measured with a Vicker’s indenter with a load of 100 g for 10 seconds before and after treatment. Data were 
statistically analyzed using independent t‐test and paired t‐test.  
Result: After 7 days, there was statistical reduction in dentin microhardness following the use of calcium 
hydroxide. After 30 days, there was also statistical reduction in dentin microhardness. There was no statistical 
difference in dentin microhardness between two groups. 
Conclusion: According to the result of this study, the use of calcium hydroxide as an intracanal dressing 
softens dentine. 
Key words: Calcium hydroxide, microhardness, root dentin 

*

 Bộ môn Chữa Răng‐Nội nha, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Trần Nguyễn Anh Đào ĐT: 01689251168 
Email:  

298

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Canxi  hydroxit  là  vật  liệu  được  dùng  để 
băng  trong  ống  tủy  trong  thời  gian  ngắn  hạn 
hay  dài  hạn  và  là  thành  phần  của  vài  xê  măng 
trám  bít  ống  tủy  (Holland  và  de  Souza,  1985). 
Việc  sử  dụng  các  sản  phẩm  có  canxi  hydroxit 
trong  ngành  nha  đạt  được  thành  công  đáng  kể 

trong việc điều trị nhiều tình trạng bệnh lý của 
răng như: hỗ trợ việc tạo ra ngà sửa chữa trong 
điều  trị  răng  bị  lộ  tủy,  kích  thích  đóng  chóp  ở 
những răng đã lấy tủy chưa phát triển hoàn tất 
(Fava  1994),  hỗ  trợ  sự  lành  thương  của  sang 
thương  quanh  chóp  (Crabb,  1965;  Kennedy  và 
Simpson  1969),  ngăn  ngừa  hay  làm  ngừng  lại 
quá  trình  tiêu  chân  răng  (Andreasen,  1971)  và 
sửa chữa chỗ thủng do nội tiêu chân răng (Frank 
và  Weine,  1973).  Ngày  nay,  canxi  hydroxit  là 
chất được lựa chọn để băng thuốc trong ống tủy 
khi  một  răng  không  thể  điều  trị  hoàn  tất  trong 
một lần hẹn (Bystrom và cs, 1985). 

Nghiên cứu Y học

thành ở người sau thời gian đặt thuốc 7 ngày và 
30 ngày. 

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
20 răng cối nhỏ vĩnh viễn một chân,  nhổ  vì 
lý  do  chỉnh  hình,  có  chân  răng  nguyên  vẹn, 
không  quá  cong,  không  bị  nội  tiêu  hay  ngoại 
tiêu,  được  rửa  sạch  và  bảo  quản  trong  nước 
muối sinh lý sau khi nhổ. 

Chuẩn bị mẫu  
Các răng được cạo vôi làm sạch; cắt bỏ thân 
răng bằng đĩa cắt kim cương và tay khoan tốc độ 

chậm  dưới  vòi  nước.  Sửa  soạn  ống  tủy  theo 
phương  pháp  bước  lùi,  bơm  rửa  trong  khi  sửa 
soạn  bằng  nước  cất.  Mẫu  chân  răng  được  vùi 
trong nhựa tự cứng với mặt cắt quay lên trên. Bề 
mặt  ngà  chân  răng  trong  mỗi  khối  nhựa  được 
làm nhẵn bằng giấy nhám với độ mịn tăng dần. 

Nhiều  nghiên  cứu  cho  thấy  việc  tiếp  xúc 
trong thời gian dài với canxi hydroxit làm giảm 
có ý nghĩa thống kê độ bền cơ học của ngà chân 
răng (độ bền uốn, độ bền kéo, môđun đàn hồi, 
độ  vi  cứng..)(2,5).  Tuy  nhiên  nhiều  tranh  cãi  vẫn 
tồn  tại  liên  quan  đến  thời  gian  ngà  chân  răng 
tiếp  xúc  với  canxi  hydroxit  bao  lâu  là  cần  thiết 
để  không  làm  ảnh  hưởng  các  tính  chất  cơ  học 
của ngà chân răng. Chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu  này  nhằm  xác  định  ảnh  hưởng  ngắn  hạn 
của canxi hydroxit lên độ vi cứng của ngà chân 
răng vĩnh viễn ở người với các mục tiêu cụ thể 
sau: 
1.  Đánh  giá  ảnh  hưởng  của  canxi  hydroxit 
lên  độ  vi  cứng  của  ngà  chân  răng  vĩnh  viễn 
trưởng thành ở người sau thời gian đặt thuốc 7 
ngày. 
2. Đánh giá ảnh hưởng của canxi hydroxit 
lên  độ  vi  cứng  của  ngà  chân  răng  vĩnh  viễn 
trưởng  thành  ở  người  sau  thời  gian  đặt  thuốc 
30 ngày. 
3. So sánh ảnh hưởng của canxi hydroxit lên 
độ vi cứng của ngà chân răng vĩnh viễn trưởng 


Răng Hàm Mặt 

Hình 1: Các mẫu chân răng vùi trong nhựa tự cứng. 
Các  mẫu  chân  răng  được  chia  ngẫu  nhiên 
thành 2 nhóm, mỗi nhóm gồm 10 mẫu. 
Nhóm  1:  đặt  canxi  hydroxit  trong  ống  tủy 
trong 7 ngày. 
Nhóm  2:  đặt  canxi  hydroxit  trong  ống  tủy 
trong 30 ngày. 

299


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

Qui  trình  đặt  canxi  hydroxit  vào  trong 
ống tủy 
Trộn canxi hydroxit với nước cất thành dạng 
bột nhão và đưa vào ống tủy bằng lentulo. Sau 
đó, bịt kín lỗ vào ống tủy bằng composite (theo 
phương pháp của Minu Koshi và cs, 2011). 

Phép  kiểm  T  bắt  cặp  để  đánh  giá  sự  khác 
biệt  độ  cứng  trước  và  sau  thử  nghiệm  của  các 
mẫu chân răng trong cùng một nhóm. 

KẾT QUẢ 

Bảng 1: Độ vi cứng ngà chân răng hai nhóm trước 
và sau thử nghiệm 
Thời điểm

Nhóm 1
TB ± ĐLC
(VHN)
Trước khi đặt 30,84 ± 1,92
canxi hydroxit
Sau khi đặt 29,93 ± 2,11
canxi hydroxit
P
0,024

Hình 2: Mẫu chân răng sau khi đã che kín lỗ vào ống 
tủy bằng composite. 

Đo độ vi cứng – phân tích số liệu 
Độ  vi  cứng  của  ngà  chân  răng  được  đo  tại 
trung tâm Kĩ Thuật Tiêu Chuẩn Đo Lường Chất 
Lượng 3 (QUATEST3) tại 3 điểm tách biệt nhau 
song  song  với  gờ  của  ống  tủy  chân,  ở  độ  sâu 
100μm từ tiếp nối ngà tủy, sử dụng tải lực 100g 
trong 10s (Hình 3). Độ vi cứng Vickers ghi nhận 
là giá trị trung bình của 3 giá trị đo được. 

100 μm

Hình 3: Hình minh họa 3 điểm đo độ cứng trước thử 
nghiệm (màu trắng) và sau thử nghiệm (màu đen). 

Áp  dụng  phép  kiểm  T  độc  lập  để  đánh  giá 
sự khác biệt giữa hai nhóm. 

300

Nhóm 2
TB ± ĐLC
(VHN)
32,94 ± 4,31

P

0,184 > 0,05

32,24 ± 4,13

0,133 > 0,05

0,002

Độ  vi  cứng  trung  bình  của  ngà  chân  răng 
nhóm  1  trước  và  sau  thử  nghiệm  lần  lượt  là 
30,84 ± 1,92 VHN và 29,93 ± 2,11 VHN, trong khi 
đó độ vi cứng trung  bình  nhóm  2  trước  và  sau 
thử nghiệm lần lượt là 32,94 ± 4,31 VHN và 32,24 
± 4,13 VHN. Sử dụng phép kiểm T bắt cặp cho 
thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ vi 
cứng  trung  bình  trước  và  sau  thử  nghiệm  của 
nhóm  1  (p=0,024)  và  nhóm  2  (p=0,002).  Tuy 
nhiên,  sử  dụng  phép  kiểm  T  độc  lập  cho  thấy 

không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ 
vi cứng của hai nhóm sau thử nghiệm. 

BÀN LUẬN 
Nhiều  tranh  cãi  vẫn  còn  tồn  tại  liên  quan 
đến  việc  canxi  hydroxit  có  làm  giảm  độ  bền  cơ 
học của ngà chân răng dẫn tới nguy cơ răng nứt 
gãy hay không, hay là ngà chân răng có thể tiếp 
xúc với canxi hydroxit trong thời gian bao lâu để 
không làm thay đổi các đặc tính cơ học của ngà 
răng.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  kết  quả 
cho  thấy  sau  7  ngày  và  sau  30  ngày  đặt  canxi 
hydroxit trong ống tủy, độ vi cứng của ngà chân 
răng đều giảm có ý nghĩa thống kê, độ vi cứng 
giảm 2,95% trong  nhóm  1  và  giảm  2,13%  trong 
nhóm  2.  Kết  quả  này  phù  hợp  với  nghiên  cứu 
của một số tác giả như Yoldas, Hasheminia MS, 
(2004, 2009)(1,6). Chưa có nghiên cứu in vitro nào 
đưa  ra  cơ  chế  chính  xác  để  canxi  hydroxit  làm 
thay đổi tính chất cơ học của ngà chân răng. Tuy 
nhiên Andreasen và cs (2002), White và cs (2002) 
đưa ra giả thuyết ảnh hưởng của canxi hydroxit 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
trên  ngà  răng  có  thể  do  độ  pH  kiềm  của  canxi 
hydroxit.  Độ  bền  của  ngà  răng  được  xác  định 
bởi  liên  kết  giữa  tinh  thể  hydroxyapatite  và 

collagen dạng sợi, liên kết này có thể bị phá hủy 
do độ  kiềm  mạnh  của  canxi  hydroxit,  điều  này 
gây  ra  sự  biến  tính  nhóm  carboxylate  và  nhóm 
phosphate dẫn tới sự phá hủy cấu trúc ngà răng. 
Sự biến đổi cấu trúc ngà răng có thể do sự trung 
hòa, sự tan rã hay biến tính của phân tử protein 
có tính axit và phân tử proteoglycans, hai phân 
tử đóng vai trò tác nhân kết nối giữa mạng lưới 
sợi  collagen  và  tinh  thể  hydroxyapatite  trong 
ngà  răng(4).  Kawamoto  và  cs  (2008)  đưa  ra  giả 
thuyết rằng tính kiềm của canxi hydroxit có thể 
gây  ra  sự  phá  hủy  các  cấu  trúc  vô  cơ  của  ngà 
chân  răng  hoặc  làm  biến  tính  các  sợi  collagen 
của  ngà  răng,  làm  cho  ngà  răng  dễ  bị  nứt  gãy 
hơn.  Sợi  collagen  chiếm  gần  90%  thành  phần 
khung hữu cơ của ngà răng, chiếm 30% thể tích 
ngà  răng.  Những  sợi  collagen  này  được  bao 
quanh bởi các tinh thể hydroxyapatite vô cơ. Do 
đó,  một  khoảng  thời  gian  là  cần  thiết  để  canxi 
hydroxit  có  thể  đi  xuyên  qua  các  tinh  thể  này 
đến tiếp xúc trực tiếp và gây ra sự biến tính các 
sợi collagen, hậu quả là ngà răng giòn và dễ nứt 
gãy hơn. Sự giải thích này có thể được củng cố 
qua một số nghiên cứu in vitro cho thấy cần một 
khoảng  thời  gian  tiếp  xúc  tương  đối  dài  trước 
khi canxi hydroxit có thể gây ra sự giảm đáng kể 
các tính chất cơ học của ngà răng(4). 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  kết  quả 
nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt có ý 
nghĩa  thống  kê  giữa  độ  vi  cứng  ngà  chân  răng 

sau khi đặt canxi hydroxit trong ống tủy 7 ngày 
và  30  ngày.  Kết  quả  này  cũng  phù  hợp  với 
nghiên cứu của Eun‐Jung Shin và cs(3), đánh giá 

Nghiên cứu Y học

sự  thay  đổi  độ  bền  kháng  vi  gãy  (MTFS)  của 
mẫu  chân  răng  sau  khi  băng  canxi  hydroxit 
trong  1  tuần  và  4  tuần  bằng  cách  sử  dụng  lực 
nén lên khối chân răng, kết quả cho thấy độ bền 
kháng gãy giảm 8,2% sau 4 tuần; kết quả nghiên 
cứu  cho  thấy  không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa 
thống kê giữa các nhóm thử nghiệm sau 1 tuần 
và sau 4 tuần và giữa MTFS của mẫu chân răng 
có đặt canxi hydroxide trong ống tủy với nhóm 
chứng (ống tủy để trống). 

KẾT LUẬN 
Việc sử dụng ngắn hạn canxi hydroxit trong 
ống  tủy  làm  giảm  có  ý  nghĩa  thống  kê  độ  vi 
cứng ngà chân răng. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.


5.

6.

Hasheminia MS, Norozynasab S, Feizianfard M (2009), “The 
effect of three different Calcium Hydroxide Combinations on 
root Dentin Microhardness”, Res. J. Biol. Sci, 4 (1), 121‐125. 
Koshy  M,  Prabu  M,  Prabhakar  V  (2011),  “Long  Term  Effect 
Of  Calcium  Hydroxide  On  The  Microhardness  Of  Human 
Radicular  Dentin  –  A  Pilot  Study”,  The  Internet  Journal  of 
Dental Science, 9(2), DOI: 10.5580/1b82. 
Shin  EJ,  Park  YJ,  Lee  BN  (2011),  “The  effects  of  short‐term 
application  of  calcium  hydroxide  on  dentin  fracture 
strength”, J Kor Acad Dent, 36(5), 435‐430. 
White JD, Lacefield WR, Chavers LS, Eleazer PD (2002), “The 
effect  of  three  commonly  used  endodontic  materials  on  the 
strength and hardness of root dentin”, J Endod, (28), 828–830. 
Yassen GH, Platt JA(2013), “The effect of nonsetting calcium 
hydroxide  on  root  fracture  and  mechanical  properties  of 
radicular  dentine:  a  systematic  review”,  International 
Endodontic Journal, (46), 112–118. 
Yoldaş  O,  Doğan  C,  Seydaoğlu  G  (2004),  “The  effect  of  two 
different  calcium  hydroxide  combinations  on  root  den‐tine 
microhardness”.  International  Endodontic  Journal,  (37),  828  –
831. 
 

Ngày nhận bài báo: 22/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 

Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

 

Răng Hàm Mặt 

301



×