Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Xác định độ ổn định giá trị trung vị của các thông số tầm soát ở ba tháng đầu thai kỳ và tính tỷ lệ nguy cơ cao mang thai hội chứng down trên hệ thống autodelfia và phần mềm lifecycle (perki

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.06 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

XÁC ĐỊNH ĐỘ ỔN ĐỊNH GIÁ TRỊ TRUNG VỊ CỦA CÁC THÔNG SỐ 
TẦM SOÁT Ở BA THÁNG ĐẦU THAI KỲ VÀ TÍNH TỶ LỆ NGUY CƠ 
CAO MANG THAI HỘI CHỨNG DOWN TRÊN HỆ THỐNG 
AUTODELFIA  
VÀ PHẦN MỀM LIFECYCLE (PERKIN ELMER) 
Nguyễn Thanh Trầm*, Nguyễn Diệp Hà*, Đỗ Thị Thanh Thủy* 

TÓM TẮT 
Giới thiệu: Tầm soát trước sinh ở 3 tháng đầu thai kỳ nhằm phát hiện sớm những thai phụ có nguy cơ cao 
mang thai hội chứng Down (T21). Sự kết hợp siêu âm đo khoảng sáng gáy (NT: nuchal translucency), tuổi thai 
và  các  dấu  ấn  hóa  sinh  pregnancy‐associated  plasma  protein  A  (PAPP‐A)  và  free  β‐human  chorionic 
gonadotrophin (beta HCG tự do) sẽ nâng tỉ lệ phát hiện gần 90%. Hiệu quả của việc tầm soát phụ thuộc vào độ 
tin cậy và độ chính xác của việc siêu âm đo NT và giá trị trung vị (MoM) của PAPP‐A và beta HCG tự do.Việc 
sử dụng các phần mềm khác nhau sẽ dẫn đến việc ước tính các nguy cơ không giống nhau. Với hệ thống tầm soát 
trước sinh tự động AutoDelfia và phần mềm tính nguy cơ LifeCycle 3.2, chúng tôi xem xét tính ổn định của giá 
trị trung vị PAPP‐A và beta HCG tự do trong thời gian nghiên cứu.  
Mục tiêu: Xác định tính ổn định của giá trị trung vị PAPP‐A và beta HCG tự do trong tầm soát thai phụ 
có nguy cơ cao với chứng Down trong ba tháng đầu thai kỳ bằng hệ thống miễn dịch tự động Autodelfia và phần 
mềm Lifecycle và xác định tỉ lệ tầm soát thai phụ có nguy cơ cao mang thai hội chứng Down với ngưỡng cut off 
là 1:250.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Sử dụng dữ liệu hồi cứu của 5000 thai phụ mang thai từ 11 đến 
13 tuần 6 ngày tuổi tham gia tầm soát trước sinh ở 3 tháng đầu thai kỳ để xác định tính ổn định của giá trị 
trung vị của PAPP‐A và beta HCG tự do và tính tỉ lệ thai phụ có nguy cơ cao với hội chứng Down qua việc sử 
dụng hệ thống tầm soát trước sinh tự động AutoDelfia theo cơ chế miễn dịch huỳnh quang và phần mềm tính 
nguy cơ LifeCycle 3.2 trong khoảng thời gian từ 12/2011 đến 12/2012. 
Kết  quả:  Giá trị trung vị PAPP‐A và beta HCG tự do theo tuổi thai ở 3 tháng đầu thai kỳ đã được hiệu 
chỉnh và ổn định trong phạm vi ± 5% so với giá trị trung vị đích đã được thiết lập. Tỉ lệ tầm soát thai phụ có 


nguy cơ cao với hội chứng Down là 2,86%. 
Kết luận: Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy có thể sử dụng hệ thống tự động AutoDelfia và phần 
mềm LifeCycle để tầm soát cho những thai phụ có nguy cơ cao mang thai hội chứng Down ở 3 tháng đầu thai kì. 
Từ khóa: Beta HCG tự do, CRL, double test, NT, PAPP‐A, tầm soát ba tháng đầu thai kỳ 

ABSTRACT 
DETERMINATION OF THE STABILITY OF MEDIAN VALUES OF SCREENING PARAMETERS  
IN THE FIRST‐TRIMESTER AND HIGH RISK ASSESSMENT FOR DOWN SYNDROME  
BY AUTOMATED AUTODELFIA SYSTEMS AND LIFECYCLE SOFWARE (PERKIN ELMER)  
Nguyen Thanh Tram, Nguyen Diep Ha, Đo Thi Thanh Thuy 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 64 ‐ 70 
Background:  The  first‐trimester  screening  is  to  early  detect  high  risk  pregnanies  for  Down  Syndrome 
(T21). Combining NT (nuchal translucency), maternal age and biomarkers such as pregnancy‐associated plasma 
* Đại học Y Dược TP. HCM  
Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Thanh Trầm 

64

 ĐT: 0918012145 

Email:  

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

protein  A  (PAPP‐A)  and  free  β‐human  chorionic  gonadotrophin  (free  β‐hCG)  has  reached  a  detection  rate  of 

nearly  90%.  Effective  screening  depends  on  the  reliable  and  accurate  measurement  of  NT  ultrasoundly  and 
determination of median values of PAPP‐A and free β‐hCG. Using different software packages leads to diffirent 
risk calculation. With automated AutoDelfia and LifeCycle 3.2 sofware, we evaluated the stability of the median 
values of PAPP‐A and free β‐hCG during the time of our study.  
Objectives: The purpose of this study is to determine the stability of the median values of PAPP‐A and 
free  β‐hCG  in  the  first‐trimester  screening  with  automated  AutoDelfia  and  LifeCycle  software  3.2. 
Application  first‐trimester  combined  test  to  calculate  the  high  risk  of  Down  syndrome  for  each  pregnancy 
with cut‐off risk of 1 in 250. 
Method: Retrospective data from 5000 pregnancies at 11 through 13 week and 6 days of gestation was used 
for calculation the median values of PAPP‐A and free β HCG with automated AutoDelfia run by time‐resolved 
fluoroimmunoassay  method  and  LifeCycle  software  3.2  from  December  2011  to  December  2012.  Also,  we 
caculated the percentage of high risk of Down syndrome pregnancies.  
Results:  The  median  values  of  PAAP‐A  and  free  beta  HCG  were  adjusted  and  stable  within  5%  bias 
compared to target median. The percentage of high risk of Down syndrome pregnancies was 2.86%.  
Conclusion: We stated automated AutoDelfia and LifeCycle sofware could be used for high‐risk pregnancies 
screening with Down syndrome in the first trimester. 
Key words: CRL, double test, first‐trimester screening, Free Beta HCG, NT, PAPP‐A  

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội  chứng  Down  (Trisomy  21)  là  một 
trong những bất thường về số lượng nhiễm sắc 
thể  phổ  biến  nhất.  Tầm  soát  trước  sinh  ở  3 
tháng đầu thai kỳ thai kỳ nhằm tầm soát sớm 
những thai phụ có nguy cơ cao mang thai hội 
chứng  Down.  Sự  kết  hợp  siêu  âm  đo  khoảng 
sáng  gáy  (NT:  nuchal  translucency),  tuổi  thai 
và  các  dấu  ấn  hóa  sinh  pregnancy‐associated 
plasma  protein  A  (PAPP‐A)  và  free  β‐human 
chorionic  gonadotrophin  (beta  HCG  tự  do) 
trong  máu  thai  phụ  từ  khi  thai  từ  11  cho  đến 

13 tuần 6 ngày tuổi được xem như công cụ tầm 
soát hiệu quả với tỉ lệ phát hiện hơn 90% và tỉ 
lệ dương tính giả khoảng 5%(1,4).  
Việc sử dụng các phần mềm khác nhau sẽ 
dẫn  đến  việc  ước  tính  các  nguy  cơ  không 
giống  nhau.  Hệ  thống  tự  động  AutoDelfia  và 
phần  mềm  tính  nguy  cơ  LifeCycle  3.2  là  một 
hệ thống máy chuyên dụng cho tầm soát trước 
sinh  một  số  dị  dạng  bẩm  sinh  và  tầm  soát  sơ 
sinh một số bệnh lý chuyển hóa được tổ chức 

Sản Phụ Khoa

Y học phôi thai (FMF) công nhận(6,8). Hiệu quả 
của việc tầm soát phụ thuộc vào việc đo NT và 
độ  tin  cậy  của  các  xét  nghiệm  hóa  sinh.  Tuy 
nhiên, việc đo khoảng sáng gáy có thể cho kết 
quả  khác  nhau  giữa  các  chuyên  gia  và  các 
trung  tâm  khác  nhau,  nên  công  việc  này  phải 
được  thực  hiện  bởi  những  bác  sĩ  siêu  âm  đã 
qua huấn luyện hoặc phải có chứng chỉ của tổ 
chức  FMF(2).  Bên  cạnh  đó,  độ  đúng  và  độ  xác 
thực của thuốc thử cần được chú trọng để đảm 
bảo độ tin cậy cho các xét nghiệm hóa sinh (12). 
Tính  ổn  định  của  giá  trị  trung  vị  PAPP‐A 
và  beta  HCG  tự  do  đã  được  xác  lập  sẽ  ảnh 
hưởng  đến  kết  quả  tính  nguy  cơ  hội  chứng 
Down  cho  từng  thai  phụ.  Vì  vậy,  chúng  tôi 
thực  hiện  nghiên  cứu  xác  định  tính  ổn  định 
của giá trị trung vị PAPP‐A và beta HCG tự do 

trong  tầm  soát  hội  chứng  Down  ở  ba  tháng 
đầu  thai  kỳ  trên  hệ  thống  tự  dộng  Autodelfia 
và  phần  mềm  LifeCycle  (Perkin  Elmer)  với 
mục tiêu cụ thể: (1) xác định tính ổn định của 
giá  trị  trung  vị  PAPP‐A  và  beta  HCG  tự  do 
trong tầm soát thai phụ ở ba tháng đầu thai kỳ, 
(2) xác định tỉ lệ tầm soát thai phụ có nguy cơ 

65


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

cao  mang  thai  hội  chứng  Down  với  ngưỡng 
cut off là 1:250.  

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 

Đối tượng nghiên cứu 
Thai phụ có 1 thai ở tuần tuổi từ 11 tuần đến 
13 tuần 6 ngày, được xác định qua siêu âm chiều 
dài đầu mông CRL (từ 40‐79 mm). 

Cỡ mẫu 
Tất cả thai phụ tham gia tầm soát ba tháng 
đầu  thai  kỳ  từ  tháng  12/2011  đến  tháng 

12/2012. 

Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp 
hồi cứu  

Phương pháp nghiên cứu 
Các  dữ  liệu  về  khoảng  sáng  gáy,  chiều  dài 
đầu mông, tuổi thai được thu thập dựa vào dữ 
liệu do bác sĩ sản khoa cung cấp. 
Dữ liệu về nồng độ PAPP‐A và beta HCG 
tự  do  trong  huyết  thanh  thai  phụ  được  tiến 
hành trên hệ thống tự động Auto Delfia theo 
cơ  chế  miễn  dịch  huỳnh  quang.  Các  dữ  liệu 
đi  kèm  với  các  dữ  liệu  nội  kiểm  chuẩn 
Maternal Lymphocheck của Biorad đạt trong 
phạm vi ±2SD.  
Dữ  liệu  về  giá  trị  trung  vị  cho  của  NT, 
PAPP‐A  và  beta  HCG  tự  do  được  thiết  lập  và 
hiệu chỉnh theo cân nặng của thai phụ dưới sự 
hỗ trợ của các chuyên gia IT hãng Perkin Elmer. 
Giá trị trung vị của mỗi thông số được kiểm tra 
hàng tháng và nếu không chênh lệch hơn ± 5% 
(với NT, beta hCG tự do và PAPPA) so với giá 
trị  trung  vị  hiện  tại  thì  tiếp  tục  sử  dụng  (theo 
khuyến cáo của nhà sản xuất và tổ chức FMF). 
Sử dụng dữ liệu trên phần mềm LifeCycle 
3.2,  xác  định  tỉ  lệ  nguy  cơ  cho  tổng  thai  phụ 
với  ngưỡng  (cut‐off)  cho  T21  là  1:250.  Nếu 
nguy cơ ≥ 1:250 được xem là nguy cơ cao và < 

1:250 được xem là nguy cơ thấp. 

66

Đặc  điểm  dân  số  nghiên  cứu  và  tỉ  lệ  tầm 
soát nguy cơ cao dựa vào hàm thống kê mô tả 
trên SPSS 19.0. 

Đặc điểm chung của mẫu tầm soát 
Tuổi thai phụ 
Nguy cơ cho T21 tăng theo tuổi mẹ(5). Ví dụ 
như  mẹ  mang  thai  ở  tuổi  20  thì  nguy  cơ  mang 
thai bị T21 là 1:1000 thì mẹ ở tuổi 35 là nguy cơ 
sẽ là 1:250 khi thai được 12 tuần tuổi(11). 
 Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tuổi  mẹ 
nằm  trong  khoảng  16,34  đến  44,68  với  độ  tuổi 
trung  bình  là  29,17  ±  4,6,  tương  đương  với  độ 
tuổi trung bình của nghiên cứu khác trong nước 
là  29,3(10)  và  thấp  hơn  của  Hàn  Quốc(7)  và 
Croatian(15). Trong đó, đa phần là thai phụ dưới 
35 tuổi (87,8%). Số thai phụ trên 35 tuổi chiếm tỉ 
lệ nhỏ (8%).Tỉ lệ phân bố tuổi thai phụ thể hiện ở 
bảng 1. 
Bảng 1: Phân bố tuổi của thai phụ 
Tuổi
<35
≥35
Tổng

Số lượng (n)

4390
610
5000

Tỉ lệ (%)
87,8
12,2
100

Trước  đây,  số  thai  phụ  tham  gia  các  xét 
nghiệm  tầm  soát  trước  sinh  chủ  yếu  là  trên  35 
tuổi  và  đây  cũng  là  ngưỡng  chẩn  đoán  mang 
thai hội chứng Down cho các thai phụ trước đây 
ở các nước phương tây. Vào những thập niên 70, 
khi người ta chọn tuổi thai phụ làm xét nghiệm 
chẩn đoán hội chứng Down là >=35 tuổi, thì chỉ 
có  phát  hiện  được  khoảng  30%  thai  phụ  mang 
thai hội chứng Down. Như vậy có khoảng 70% 
thai phụ mang thai hội chứng Down <35 tuổi. Vì 
vậy,  Hiệp  Hội  Sản  Phụ  Khoa  Hoa  Kỳ  khuyến 
cáo tầm soát những bất thường về số lượng NST 
nên được áp dụng như một xét nghiệm thường 
qui cho tất cả thai phụ(6,13). 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  đa  phần 
thai  phụ  tham  gia  tầm  soát  có  độ  tuổi  dưới  35 
(87,8%) tỉ lệ này cao hơn so với các nghiên cứu 
trước đó là 69,3%(2) và 75,5%(3). Điều này chứng 
minh  xu  thế  tầm  soát  này  ngày  càng  được  thai 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
phụ ở mọi lứa tuổi quan tâm đồng thời thể hiện 
tính  hiệu  quả  của  công  tác  truyền  thông  trong 
việc nâng cao chất lượng dân số.  

Tuổi thai 
Bảng 2: Phân bố tuổi thai nhi 
Tuổi thai
11 tuần
(CRL từ 43-55mm)
12 tuần
(CRL từ 56-68 mm)
13 tuần
(CRL từ 69-82mm)
Tổng

Số lượng (n)
1145

Tỉ lệ (%)
22,9

2625

52,5

1230


24,6

5000

100

Trong tất cả các trường hợp, tuổi thai được 
xác  định  dựa  vào  chiều  dài  của  đầu  mông 
(CRL:  Crown  Crump  Length).  Đo  chiều  dài 
đầu mông sớm sẽ giúp xác định tuổi thai chính 
xác  hơn.  Tuy  nhiên,  phương  pháp  tính  tuổi 
thai dựa vào CRL cũng có mặt hạn chế do các 
bác sĩ siêu âm không dùng cùng dữ liệu tham 
chiếu khi chuyển từ CRL sang tuổi thai(12). Khi 
thực  hiện  tầm  soát  trong  3  tháng  đầu  thai  kỳ, 
tuổi  thai  để  đo  NT  qua  siêu  âm  tốt  nhất  là  từ 
11  đến  13  tuần  6  ngày.  Mặt  khác,  độ  nhạy  để 
phân  biệt  sự  thay  đổi  nồng  độ  PAPP‐A  giữa 
thai  phụ  bình  thường  và  thai  phụ  mang  thai 
bệnh  lý  là  từ  9‐12  tuần  và  có  xu  hướng  giảm 
dần  từ  tuần  thứ  13  còn  beta  HCG  tự  do  thay 
đổi từ tuần thứ 10 và có xu hướng tiếp tục tăng 
đến 3 tháng giữa thai kỳ(15). Như vậy, tuổi thai 
từ tuần 11 và 12 được xem là lý tưởng cho việc 
tầm soát trong 3 tháng đầu thai kỳ do thai phụ 
đến  khám  thai  kết  hợp  siêu  âm  và  lấy  máu 
cùng lúc, có thể tăng tỉ lệ phát hiện lên 95% và 
có thể tầm soát thêm những bất thường về số 
lượng  NST  khác  như  T13  và  T18(4,11).  Trong 
nghiên  cứu  này,  đa  phần  thai  phụ  tham  gia 

tầm  soát  mang  thai  12  tuần  (52,5%),  tương 
đương với kết quả của các đồng nghiệp trong 
nước(2,14),  Hàn  Quốc  và  Croatian(7,15).  Điều  này 
chứng  tỏ  các  thai  phụ  đã  được  tư  vấn  và  chỉ 
định bởi các bác sĩ có kiến thức tốt về việc tầm 
soát T21 trong 3 tháng đầu thai kỳ. 

Cân nặng của thai phụ 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

Trọng  lượng  của  thai  phụ  dao  động  từ  32 
đến 98 với cân nặng trung bình là 50,7±7,0. Cân 
nặng  trung  bình  của  các  thai  phụ  Việt  Nam  là 
tương  đương  với  các  nghiên  cứu  trước  đó(2,10). 
Tuy nhiên, cân nặng trung bình lại thấp hơn so 
với  của  các  nước  Châu  Á  như  Hàn  Quốc 
(57,5kg)(7)  và  các  nước  Châu  Âu  như  Croatian 
(66,1kg)(15).Trong  đó,  nhóm  thai  phụ  có  trọng 
lượng từ 40‐60 kg chiếm đa số với tỉ lệ 85,7%. 
Bảng 3: Phân bố cân nặng của thai phụ 
Cân nặng (kg)
<40
40-60
>60
Tổng

Số lượng (n)

145
4285
570
5000

Tỉ lệ (%)
2,9
85,7
11,4
100

Trọng  lượng  thai  phụ  là  môt  trong  những 
yếu  tố  ảnh  hưởng  nhiều  đến  giá  trị  của  các 
thông  số  sinh  hóa,  đặc  biệt  là  PAPP‐A.  Ở  các 
thai  phụ  nhẹ  cân  thì  nồng  độ  trung  bình  của 
PAPP‐A  và  beta  HCG  tự  do  sẽ  cao  hơn  ở 
những  thai  phụ  nặng  cân.  Vì  thế,  trong  việc 
tính giá trị trung vị cho các thông số tầm soát 
thì  các  giá  trị  này  luôn  được  hiệu  chỉnh  theo 
cân  nặng  để  tránh  ảnh  hưởng  đến  cách  tính 
nguy cơ tầm soát(12). 

Khoảng sáng gáy 
Giá trị qua siêu âm của khoảng sáng gáy tại 
tuần  thai  11‐14  được  xem  là  một  công  cụ  chẩn 
đoán hiệu quả những bất thường số lượng NST. 
NT  có  khuynh  hướng  tăng  dần  theo  tuổi  thai 
cùng với chiều dài đầu mông và khi đi kèm với 
những  bất  thường  NST.  Độ  chính  xác  của  việc 
đo NT phụ thuộc vào bác sĩ siêu âm, chất lượng 

của  hình  ảnh  trên  siêu  âm  cùng  với  việc  phân 
tích  và  đảm  bảo  chất  lượng  kết  quả  siêu  âm(12). 
Việc đo chính xác khoảng sáng gáy kết hợp với 
tuổi  thai  có  thể  tăng  tỉ  lệ  phát  hiện  những  bất 
thường  nói  trên  từ  70‐75%  và  giảm  tỉ  lệ  dương 
tính giả dưới 5%(14). Vì thế, việc đo khoảng sáng 
gáy  nên  được  tiến  hành  bởi  những  bác  sĩ  siêu 
âm đã qua huấn luyện. Hiện tại ở Việt Nam và 
các  quốc  gia  như  Anh,  Mỹ  thì  cần  chứng  chỉ 
hành nghề của Hiệp Hội Y Học về thai nhi FMF 
(Fetal  Medicine  Foundation)(2).  Trên  5000  thai 
phụ được khảo sát, giá trị NT trung bình thai nhi 

67


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

tăng dần theo tuần tuổi thai lần lượt là 1,41mm; 
1,59mm  và  1,82mm  cho  thai  11,  12  và  13  tuần 
tuổi. Giá trị trung vị tính theo MoM ở nhóm thai 
phụ mang thai bình thường có tuổi thai từ 11‐13 
tuần 6 ngày tuổi là 0,99 (SD là 0,25) cho thấy việc 
đo  NT  được  thực  hiện  bởi  các  bác  sĩ  siêu  âm 
được huấn luyện kỹ năng siêu âm khoảng sáng 
gáy(2). Giá trị NT ở nhóm thai phụ nguy cơ cao 
mang  thai  hội  chứng  Down  là  2,88mm  (SD  là 
1,62)  và  trung  vị  MoM  NT  là  1,96  cho  thấy 

những  thai  nhi  có  nguy  cơ  cao  với  hội  chứng 
Down thì khoảng sáng gáy rộng ra  và  trung  vị 
MoM NT tăng cao(2,12). 

0.000265  và  theo  cân  nặng  là  10(a+b*wt+  c*wt2)  với 
a=0.443887, b=‐0.010153 và c= 0.000028. 

 
a) PAPP‐A 

Tính  ổn  định  giá  trị  trung  vị  của  PAPP‐A 
và beta HCG 
Từ  12/2011  đến  tháng  12/2012,  dữ  liệu  tầm 
soát trước sinh của 5000 thai phụ đã được xem 
xét.Tại thời điểm tháng 12/2011, các giá trị trung 
vị  của  PAPP‐A  và  beta  HCG  tự  do  được  xác 
định trước đó theo các phương trình dưới đây.  

 

b) Beta HCG tự do 
Hình 1: Giá trị trung vị của PAPP‐A và beta HCG tự do 
ở thời điểm 05/2012 trước khi hiệu chỉnh 

Y(PAAP‐A) = 9900.4‐318.855*Day + 2.6895*Day^2 

Y(beta  HCG  tự  do)  =  10^(‐4.53412+0.270717*Day‐
0.00398489*Day^2+0.0000237835*Day^3‐
5.10437E‐8*Day^4) 
Với  sự  trợ  giúp  của  IT  hãng  Perkin  Elmer, 

xem xét tính ổn định của các giá trị trung vị tại 2 
thời  điểm  là  05/2012  và  tháng  12/2012  với  kết 
quả như sau: 

 

a) PAPP‐A 

Tại thời điểm tháng 05/2012, giá trị trung vị 
của PAPP‐A sau khi được hiệu chỉnh theo chiều 
cao và cân nặng của thai phụ theo tuần tuổi thai 
trong 6 tháng liên tiếp dao động trong giới hạn 
chấp nhận được là 95%‐105% so với giá trị trung 
vị  đích  nên  không  hiệu  chỉnh.  Giá  trị  trung  vị 
của  beta  HCG  tự  do  có  xu  hướng  tăng  nhẹ  tại 
thai  12  tuần  tuổi  là  1.08  và  13  tuần  tuổi  là  1.12 
MoM. Giá trị trung vị của beta HCG tự do theo 
dõi  trong  6  tháng  liên  tiếp  cũng  có  xu  hướng 
tăng  nên  cần  phải  hiệu  chỉnh.  Công  thức  hiệu 
chỉnh  beta  HCG  tự  do  với  theo  tuổi  thai  là  10 
  với  a=0803234,  b=  0.034651  và  c=‐

(a+b*ga+  c*ga2)

68

 

b) Beta HCG tự do 
Hình 2: Giá trị trung vị của PAPP‐A và beta HCG 

tự do ở thời điểm 5/2012 sau khi hiệu chỉnh. 
Tại  thời  điểm  12/2012,  giá  trị  trung  vị  của 
PAPP‐A và beta HCG tự do lần lượt là 1,050 và 
0,988 và dao động trong giới hạn 5% nên không 
cần hiệu chỉnh.  
Qua  hai  lần  kiểm  tra  và  hiệu  chỉnh,  chúng 
tôi  nhận  thấy  giá  trị  trung  vị  của  PAPP‐A  và 
beta HCG tự do ở mỗi tuần và tháng liên tiếp ổn 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
định nên chúng tôi sử dụng giá trị trung vị này 
để đánh giá nguy cơ mang thai hội chứng Down 
cho mỗi thai phụ tham gia tầm soát trước sinh ở 
3 tháng đầu thai kỳ. 

Tỉ  lệ  thai  phụ  nguy  cơ  cao  mang  thai  hội 
chứng Down 
Mục  tiêu  của  việc  tầm  soát  trước  sinh  ba 
tháng đầu thai kì là phát hiện những thai phụ có 
nguy  cơ  cao  mang  thai  hội  chứng  Down.  Các 
thai  phụ  này  sẽ  được  tư  vấn  để  làm  các  chẩn 
đoán xác định có thực sự là thai nhi bị hội chứng 
Down hay không. Chúng tôi chọn  ngưỡng  cut‐
off 1:250 để phân biệt mang thai nguy cơ cao và 
nguy  cơ  thấp  với  hội  chứng  Down.  Đây  là 
ngưỡng một số trung tâm tầm soát trên thế giới 
và tại Việt Nam lựa chọn(10,14). 

Hệ  thống  tự  động  AutoDelfia  theo  cơ  chế 
miễn dịch huỳnh quang và phần mềm tính nguy 
cơ LifeCycle 3.2 cho phép tính và hiệu chỉnh giá 
trị  trung  vị  của  PAPP‐A  và  beta  HCG  tự  do 
hàng tháng. Các giá trị trung vị này ổn định và 
dao  động  xung  quanh  ±  5%  so  với  giá  trị  đích 
nên chúng tôi tin tưởng sử dụng trong việc tính 
toán  nguy  cơ  cho  từng  thai  phụ  mang  thai  hội 
chứng Down. 
Với tổng số thai phụ tham gia tầm soát, thai 
phụ tham gia tầm soát <35 tuổi có tỉ lệ tầm soát 
có nguy cơ cao là 1,5% và thai phụ ≥ 35 tuổi là 
13%. Tỉ lệ nguy cơ cao trên toàn nhánh tầm soát 
là 2,86%. Tất cả các tỉ lệ này đều thấp hơn nhiều 
so  với  yêu  cầu  và  kết  quả  của  các  công  trình 
nghiên cứu của các đồng nghiệp trong nước và 
trên thế giới có cùng ngưỡng cut‐off (trừ nghiên 
cứu  của  Nguyễn  Minh  Hùng  và  cộng  sự  năm 
2012  với  tỉ  lệ  nguy  cơ  cao  là  1,66%).  Tỉ  lệ  phát 
hiện  thai  phụ  có  nguy  cơ  với  hội  chứng  Down 
khác nhau có thể do trang thiết bị máy móc, hóa 
chất, phần mềm phân tích và các sai số trong khi 
tiến hành hoặc cỡ mẫu chưa đủ lớn(10).  
Nếu ngưỡng cut off được mở rộng ra 1:300, 
1:350 và 1:400 là ngưỡng dùng để tầm soát sớm 
với  mục  đích  giảm  tỉ  lệ  âm  tính  giả,  tỉ  lệ  phát 
hiện  thai  phụ  có  nguy  cơ  cao  với  hội  chứng 
Down  lần  lượt  là  3,3%;  3,7%  và  4,1%.  Mặc  dù 

Sản Phụ Khoa


Nghiên cứu Y học

mục  tiêu  của  xét  nghiệm  tầm  soát  là  phát  hiện 
khoảng  5%  dân  số  tham  gia  tầm  soát  thuộc 
nhóm có nguy cơ cao nhưng nếu tỉ lệ này thấp 
quá sẽ dẫn đến tăng tỉ lệ âm tính giả và bỏ sót 
những  trường  hợp  những  thai  phụ  có  nguy  cơ 
cao  cần  được  tiến  hành  các  xét  nghiệm  chẩn 
đoán xác định. Ngược lại, nếu tỉ lệ phát hiện cao 
hơn 5% thì sẽ làm tăng tỉ lệ dương tính giả và sẽ 
có nhiều thai phụ phải bị chọc ối hay tiến hành 
các thủ thuật xâm lấn vốn được xem là tiềm ẩn 
những rủi ro cao cho cả thai phụ và thai nhi. Vì 
vậy,  việc  chọn  giá  trị  ngưỡng  để  tầm  soát  thai 
phụ  có  nguy  cơ  cao  hay  thấp  mang  thai  hội 
chứng Down phụ thuộc vào quá trình tầm soát, 
hiệu  quả  kinh  tế  và  tính  an  toàn  của  các  xét 
nghiệm xâm lấn cùng độ tuổi mang thai tại mỗi 
quốc  gia(9).  Sau  khi  có  kết  quả  sẽ  hiệu  chỉnh  lại 
sao cho tỉ lệ  phát  hiện  nhỏ  hơn  5%  dân  số  tầm 
soát.  Chúng  tôi  hy  vọng  khi  số  thai  phụ  tham 
gia sàng lọc nhiều hơn và có thể theo dõi đến khi 
sinh  một  cách  đầy  đủ  thì  có  thể  chọn  một 
ngưỡng cut‐off thích hợp hơn không những cho 
phòng xét nghiệm mà còn có thể là cơ sở tham 
chiếu  cho  các  phòng  xét  nghiệm  khác  có  cùng 
trang thiết bị và phần mềm tính nguy cơ(2).  
Bảng 4: Tỉ lệ tầm soát nguy cơ cao ở nhóm thai phụ 
<35 tuổi và ≥ 35 tuổi  

Tuổi

Số thai phụ

<35
≥ 35
Tổng

4390 (87,8%)
610 (12,2%)
5000

Ngưỡng cutoff
1:250
1:250
1:250

Nguy cơ
T21
66 (1,5%)
79 (13%)
145

Tóm lại, tỉ lệ tầm soát cho thai phụ có nguy 
cơ  cao  mang  thai  hội  chứng  Down  theo  phần 
mềm này là dưới 5% dân số tầm soát nên có thể 
sử dụng phần mềm này để tầm soát trước sinh ở 
3 tháng đầu thai kỳ. Tuy nhiên, tính hiệu quả và 
độ  chính  xác  của  chương  trình  tầm  soát  phụ 
thuộc  vào  việc  nâng  cao  tỉ  lệ  phát  hiện  và  hạn 

chế tỉ lệ dương giả đến mức thấp nhất. Để làm 
được điều này, cần phải tiến hành trên cỡ mẫu 
lớn hơn và phối hợp với xét nghiệm nhiễm sắc 
thể đồ để cho kết luận cuối cùng. 

69


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy có 
thể  sử  dụng  hệ  thống  tự  động  AutoDelfia  và 
phần mềm LifeCycle để tầm soát cho những thai 
phụ có nguy cơ cao mang thai Hội chứng Down 
ở  ba  tháng  đầu  thai  kỳ.  Tuy  nhiên,  cần  những 
nghiên  cứu  sâu  và  rộng  hơn  để  đánh  giá  tính 
hiệu quả của hệ thống này. 

2.

3.

4.

5.
6.


7.

8.

70

10.

11.
12.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

9.

Breathnach  FM,  Malone  FD,  Lambert‐Messerlian  G,  Cuckle 
HS, Porter TF, Nyberg DA, Comstock CH, et al.(2007), “First 
and  second‐trimester  screening:  detection  of  aneuploidies 
other than Down syndrome”, Obstet Gynecol, 110(3): 651‐7. 
Đỗ  Thị  Thanh  Thủy,  Bùi  Thi  Hồng  Nga,  Hà  Tố  Nguyên, 
Phùng Như Toàn, Trương Đình Kiệt.(2009), “Nghiên cứu ứng 
dụng test phối hợp(combined test) trong tầm soát trước sinh 
ba tháng đầu thai kỳ”, Tạp chí Y Học TP.Hồ Chí Minh, 13 (1), 
pp.190‐7. 
Đỗ  Thị  Thanh  Thủy,  Phan  Viết  Xuân,  Phùng  Như  Toàn. 
(2009), “Tầm soát trước sinh hội chứng Down ba tháng giữa 
thai kỳ bằng hệ thống tự động immulite 2000 và phần mềm 
Prisca”, Tạp chí Y Học TP.Hồ Chí Minh, 13 (1), pp.198‐203. 
Karadzov‐Orlic  N,  Egic  A,  Filimonovic  D,  Marinkovic  M, 

Damnjanovic‐Pazin  B,  Milovanovic  Z,  Joksic  I,  et  al  (2012), 
“Screening  for  aneuploides  by  maternal  age,  fetal  nuchal 
translucency  and  maternal  serum  biochemistry  at  11‐13+6 
gestational weeks”, Srp Arh Celok Lek, 140(9‐10), pp. 606‐11. 
Khalil A, Pandya P (2006), “Screening for Down syndrome”, J 
Obstet Gynecol India, 56(3), pp.205‐11. 
Koster  MP,  Heetkamp  KM,  de  Miranda  E,  Schielen  PC 
(2012),”  Comparison  of  risk  calculation  approaches  in  a  screening 
programme for Down syndrome”,J Perinat Med, 40(3), pp.259‐63. 
Kwon  JY,  Park  IY,  Park  IG,  Lee  Y,  Shin  JC(2011),”Korean 
specific  parameters  model  for  the  risk  of  down  syndrome  in  the 
second  trimester  of  Pregnancy”,  J  Korean  Med  Sci,  26(12), 
pp.1619–24. 
Lê  Phạm  Sỹ  Cường,  Hoàng  Thị  Ngọc  Lan,  Lê  Anh 
Tuấn.(2012),” Đánh giá độ nhạy của triple test trong tầm soát một 
 

13.

14.

15.

16.

số bất thường nhiễm sắc thể thai nhi trên hệ thống autodelfia bằng 
phần mềm lifecycle 3.2”, Tạp chí phụ sản, 10(2),pp. 29‐33. 
Lu  XQ,  Liu  LH  (2012).  “Statistic  analysis  on  relevancy  of 
screening factors in down’s syndrome”. Journal of Theoretical 
& Applied Information Technology, 46(2), pp.790‐3 

Nguyễn Minh Hùng, Phùng Như Toàn, Bùi Kiều Yến Trang, 
Trần Quang Vinh, Trần Thị Huyền Trâm. (2012),“Giá trị độ mờ 
da gáy và nồng độ các chất free β‐hCG, PAPP‐A trong tầm soát hội 
chứng Down tại bệnh viện Phụ Sản Quốc Tế Sài Gòn”,  Tạp  chí 
Phụ sản, 10 (2), pp. 34‐9. 
Nicolaides  KH(2011),  “Screening  for  fetal  aneuploidies  at  11 
to 13 weeks”, Prenat Diagn, 31, pp. 7–15. 
Palomaki  GE,  Knight  GJ,  Mc  Carthy  JE,  Haddow  JE, 
Donhowe  JM  (2009),  “Technical  standards  and  guidelines: 
prenatal screening for Down Syndrome that includes first‐trimester 
biochemistry and/or ultasound measurements”, Genet Med, 11 (9), 
pp.669–81. 
Shaw  SW,  Hsu  JJ,  Lee  CN,  Hsiao  CH,  Chen  CP,  Hsieh  TT, 
Cheng  PJ  (2008),  “First  and  second‐trisemster  Down  syndrome 
screening:  current  strategies  and  clinical  guidelines”,  Taiwan  J 
Obstet Gynecol, 47(2), pp.157‐62. 
Spencer K (2007). ”Aneuploidy Screening in the First Trimester”, 
American  Journal  of  Medical  Genetics  Part  C  (Seminars  in 
Medical Genetics), 145C, pp.18–32  
Tislarić‐Medenjak D, Zec I, Simundić AM, Sabolović‐Rudman 
S, Kos M, Megla ZB (2010), “The impact of temporal variability of 
biochemical markers PAPP‐A and free  β‐hCG  on  the  specificity  of 
the  first‐trimester  Down  syndrome  screening:  a  Croatian 
retrospective  study”,  BMC  Research  Notes,3,  pp. 194.  doi: 
10.1186/1756‐0500‐3‐194. 
Yang F, Wang H, Shi JC, Hu M (2013),” Validity of Different 
Methods to Prenatal Screening for Down’s Syndrom During 
First  and  Second  Trimester  Pregnancy  of  Chinese  Women”, 
Biomed Environ Sci, 26(2), pp. 87‐93 


 
Ngày nhận bài báo 

 

 

: 01/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

: 26/11/2013 

Ngày bài báo được đăng 
05/01/2014 

 

 



Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



×