Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hiệu quả chiến dịch “bàn tay sạch” trong việc cải thiện sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế và giảm nhiễm khuẩn bệnh viện tại Bệnh viện Hùng Vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.02 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

HIỆU QUẢ CHIẾN DỊCH “BÀN TAY SẠCH” TRONG VIỆC CẢI THIỆN  
SỰ TUÂN THỦ RỬA TAY CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ VÀ GIẢM NHIỄM 
KHUẨN BỆNH VIỆNTẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG 
Phan Thị Hằng*, Trần Thị Thúy Hằng* 

TÓM TẮT 
Đặt  vấn  đề:  Chiến dịch “Bàn tay sạch” là chương trình phối hợp nhiều biện pháp, được tổ chức định kỳ 
hàng năm nhằm cải thiện sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế (NVYT). Vì vậy việc đánh giá hiệu quả chiến 
dịch “Bàn tay sạch” là rất cần thiết. 
Mục tiêu: Đánh giá sự tuân thủ rửa tay của NVYT trước ‐ sau chiến dịch và xác định tỉ lệ nhiễm khuẩn 
bệnh viện (NKBV). 
Phương pháp: Giám sát định kỳ sự tuân thủ rửa tay của NVYT từ tháng 4/2010 đến 12/2012. Giám sát ca 
bệnh từ tháng 6/2010 đến 12/2012 thu nhận những trường hợp được chẩn đoán xác định là NKBV dựa theo tiêu 
chuẩn của CDC. 
Kết quả: Tổng số cơ hội rửa tay quan sát được là 24.892. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay tăng, từ 29% năm 2010 lên 
40% năm 2011 và 53% năm 2012. NKBV cũng giảm rõ rệt. Trong đó nhiễm khuẩn vết mổ giảm từ 1,5% năm 
2010 xuống 0,8% năm 2011 và 0,6% năm 2012. Nhiễm khuẩn sơ sinh giảm từ 16% năm 2010 xuống 11% năm 
2011 và 6% năm 2012. 
Kết luận: Chiến dịch “Bàn tay sạch” được triển khai định kỳ hàng năm đã giúp cải thiện sự tuân thủ rửa 
tay và giảm NKBV. 
Từ khóa: Tuân thủ rửa tay, chiến dịch “Bàn tay sạch”, nhân viên y tế. 

ABSTRACT 
EFFECTIVENESS OF “CLEAN HANDS” CAMPAIGN IN IMPROVEMENT IN HAND HYGIENE 
COMPLIANCE OF HOSPITAL STAFF AND INFECTION PREVENT AND CONTROLIN HUNG 


VUONG HOSPITAL 
Phan Thi Hang, Tran Thi Thuy Hang 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 634 ‐ 638 
Background:  The  “Clean  hands”  strategy,  a  multimodal  program,  is  held  annually  to  improve  the  hand 
hygiene compliance of hospital staff. Therefore, it’s necessary to evaluate the effectiveness of the campaign. 
Objectives:  To evaluate the hand hygiene compliance of hospital staff before and afterthe campaign andto 
determinethe proportion of hospital‐acquired infection.  
Methods:  Periodic surveillance of hospital staff‘s hand hygiene compliance was performed from 4/2010 to 
12/2012. The surveillance of hospital‐acquired infection case was performed from 6/2010 to 12/2012 and the case 
definition was based on CDC criteria. 
Result:  The  total  number  of  observed  hand hygiene practice  was  24,892.  The proportion  of hand hygiene 
compliance  increased  from  29%  in  2010  to  40%  in  2011  and  53%  in  2012.  The  number  of  hospital‐acquired 
infection cases decreased markedly. The proportion of nosocomial surgical site infection decreased from 1.5% in 
2010 to 0.8% in 2011 and 0.6% in 2012. The proportion of neonatal nosocomial infection decreased from 16% in 
Bệnh Viện Hùng Vương 
Tác giả liên lạc: CN. Trần Thị Thúy Hằng  ĐT: 0908 220 676 

*

634

Email:  

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học


 
2010 to 11% in 2011, and 6% in 2012. 
Conclusion:  ʺClean  Handsʺ  campaign,  which  was  launched  annually,  did  help  improve  hand  hygiene 
compliance and control hospital‐acquired infection. 
Keywords: Hand hygiene compliance, ʺClean Handsʺ campaign, hospital staff. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 

Rửa tay là bước cơ bản đầu tiên được chứng 
minh  là  có  hiệu  quả  trong  phòng  ngừa  nhiễm 
khuẩn bệnh viện. Một chiến lược phối hợp nhiều 
biện  pháp  can  thiệp  và  triển  khai  liên  tục  được 
chứng minh là hiệu quả hơn so với chỉ tiến hành 
một can thiệp riêng lẻ khi tác động để thay đổi 
thực hành rửa tay của NVYT(2). 

Thiết kế nghiên cứu, thời gian nghiên cứu 

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy 
việc cải thiện sự tuân thủ rửa tay của NVYT làm 
giảm  NKBV  một  cách  rõ  rệt(5,6,9).  Tại  Việt  Nam, 
nghiên cứu ở bệnh viện Bình Dân đã chỉ ra việc 
áp  dụng  rửa  tay  với  dung  dịch  sát  khuẩn  tay 
nhanh  chứa  cồn  đã  giúp  làm  giảm  NKBV  từ 
13,1%  xuống  còn  2,1%(5).  Một  nghiên  cứu  thử 
nghiệm lâm sàng ở bệnh viện Chợ Rẫy cũng ghi 
nhận sự thay đổi đáng kể, tỉ lệ nhiễm khuẩn vết 
mổ  giảm 54%(4).  Nghiên  cứu  đánh  giá  hiệu  quả 

của các biện pháp can thiệp về kiểm soát nhiễm 
khuẩn  tại  bệnh  viện  Hùng  Vương  (trong  đó  có 
nâng  cao sự  tuân  thủ  rửa tay)  cho thấy  vệ sinh 
tay đã góp phần làm giảm đáng kể nhiễm khuẩn 
bệnh  viện  tại  khoa  sơ  sinh(7).  Vì  vậy,  việc  nâng 
cao  tỉ  lệ  tuân  thủ  rửa  tay  trong  chăm  sóc  y  tế 
đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao 
chất lượng điều trị. 
Từ năm 2010, khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn 

Nghiên cứu can thiệp. Các can thiệp được áp 
dụng  dựa  trên  mô  hình  can  thiệp  đa  phương 
diện của Tổ chức y tế thế giới (WHO). Thời gian 
nghiên cứu từ 04/2010 – 12/2012. 

Đối tượng nghiên cứu 
Tất  cả  NVYT  đang  làm  việc  tại  bệnh  viện 
Hùng Vương. 

Tiêu chuẩn nhận vào 
Tất cả NVYT đang làm việc tại các khoa lâm 
sàng  và  cận  lâm  sàng  tại  bệnh  viện  Hùng 
Vương. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Những  NVYT  chỉ  làm công  tác  hành  chánh 
tại các khoa lâm sàng và cận lâm sàng tại bệnh 
viện Hùng Vương. 

Cỡ mẫu 

Đối  với  giám  sát  tuân  thủ  “5  thời  điểm  rửa 
tay”: tổng số cơ hội rửa tay (số lần cần phải thực 
hiện rửa tay) quan sát được là 24.892 cơ hội, chia 
làm 8 đợt giám sát. Trung bình mỗi đợt giám sát 
khoảng  3.000  cơ  hội  cho  toàn  bệnh  viện,  trung 
bình  mỗi  khoa  lâm  sàng  và  cận  lâm  sàng  quan 
sát 200 cơ hội (theo hướng dẫn của WHO). 

bệnh  viện  Hùng  Vương  đã  phát  động  chiến 

Đối với giám sát NKBV 

dịch  “Bàn  tay  sạch”  theo  khuyến  cáo  của  Tổ 

rửa  tay  của  NVYT  và  làm  giảm  tỉ  lệ  NKBV. 

Chọn  toàn  bộ  bệnh  nhân  được  sử  dụng 
kháng sinh điều trị hay kéo dài trong toàn bệnh 
viện,  có  những  triệu  chứng  lâm  sàng,  cận  lâm 
sàng thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán NKBV của CDC. 

Việc  đánh  giá  hiệu  quả  chương  trình  sau  một 

Phương pháp tiến hành 

thời  gian  triển  khai  là  cần  thiết  để  xác  định 

Tổ  chức  chương  trình  can  thiệp:  chiến  dịch 
“Bàn tay sạch” được tổ chức định kỳ vào tháng 5 
hàng  năm  từ  năm  2010,  phối  hợp  nhiều  biện 

pháp  nhằm  cải  thiện  sự  tuân  thủ  rửa  tay  của 
NVYT,  gồm  chương  trình  phát  động  rửa  tay 

chức  y  tế  thế  giới  (WHO)  định  kỳ  hàng  năm. 
Chiến  dịch  này  đã  giúp  nâng  cao  sự  tuân  thủ 

những  điểm  mạnh  và  những  hạn  chế  của  mô 
hình này qua đó cải tiến và xây dựng một mô 
hình can thiệp rửa tay phù hợp. 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

635


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
trong  toàn  bệnh  viện  (tổ  chức  thi  vẽ  tranh  cổ 
động  rửa  tay,  kỹ  thuật  vệ  sinh  tay,  đố  vui  có 
thưởng)  kết hợp  với  cung  cấp  những  kiến thức 
cơ bản về rửa tay, khảo sát kiến thức và nguyên 
nhân  không  tuân  thủ  rửa  tay  của  NVYT,  khảo 
sát trang thiết bị rửa tay, giám sát và phản hồi về 
sự tuân thủ rửa tay cho từng khoa phòng, thiết 
kế và phân phát các tranh ảnh cổ động rửa tay, 
khuyến khích sử dụng dung dịch sát khuẩn tay 
nhanh chứa cồn. 

Đối  với  giám  sát  tuân  thủ  “5  thời  điểm  rửa 
tay”:  sử  dụng  phương  pháp  giám  sát  trực  tiếp 
của  WHO.  Giám  sát  viên  sẽ  quan  sát  trực  tiếp 
các  tình  huống  trên  lâm  sàng  để  ghi  nhận  lại 
NVYT có thực hiện rửa tay theo 5 thời điểm hay 
không. 
Đối với giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện: áp 
dụng phương pháp giám sát chủ động dựa vào 
phần  mềm  quản  lý  bệnh  viện  và  phần  mềm 
Microsoft  Office  Access  để  lọc  những  trường 
hợp sử dụng kháng sinh điều trị, kháng sinh kéo 
dài.  Tất  cả  những  bệnh  nhân  trong  danh  sách 
này sẽ được theo dõi hồ sơ và nếu thỏa tiêu chí 
NKBV  của  CDC  thì  giám  sát  viên  sẽ  tiến  hành 
ghi  nhận  các  thông  tin  cần  thiết  từ  hồ  sơ  vào 
phiếu giám sát. 

giản  và  lặp  lại  trên  bệnh  nhân  (các  khoa  chăm 
sóc  bệnh  nội  trú)  (2).  Những  khoa  trọng  điểm 
thực hiện nhiều thủ thuật quan trọng với chuỗi 
thao  tác  liên  tục  và  phức  tạp  (khoa  Sanh,  Phẫu 
thuật, Cấp cứu) thì tỉ lệ tuân thủ ở tất cả các thời 
điểm dưới mức trung bình, trong đó tỉ lệ rửa tay 
trước  khi  thực  hiện  thủ  thuật  (tiêm  chích,  rửa 
bụng, đặt thông tiểu, đặt nội khí quản, gây tê tủy 
sống…)  chỉ  đạt  65%  dù  việc  rửa  tay  trước  thủ 
thuật là bắt buộc. Điều này cho thấy dường như 
NVYT còn lúng túng trong việc áp dụng các thời 
điểm rửa tay theo khuyến cáo. Khảo sát về kiến 
thức, thái độ và thực hành vệ sinh tay của NVYT 

tại bệnh viện Hùng Vương năm 2012 cho thấy có 
rất nhiều nguyên  nhân  khác  nhau  khiến  NVYT 
không  thực  hiện  rửa  tay  như  áp  lực  công  việc 
quá  lớn  (49,8%),  quên  (45,2%),  số  lượt  cần  rửa 
tay  quá  nhiều  (44,1%).  Ngoài  ra,  còn  một  số 
nguyên  nhân  chủ  quan  khác  như  dị  ứng  dung 
dịch rửa tay (30,8%), “nghĩ sử dụng găng có thể 
thay thế vệ sinh tay” (70,2%)(88). 

Tiêu chuẩn đánh giá: 
Tỉ lệ tuân thủ 5 thời điểm rửa tay của NVYT 
theo thời gian. 
Tỉ lệ NKBV. 

KẾT QUẢ 
Từ tháng 4/2010 đến 12/2012, 8 đợt giám sát 
tuân thủ rửa tay với 24892 cơ hội được quan sát. 
Tỉ  lệ  tuân  thủ  rửa  tay  tăng  dần  qua  từng  chiến 
dịch (hình 1). Sau 3 năm triển khai chiến dịch, tỉ 
lệ  tuân  thủ  rửa  tay  của  NVYT  tại  bệnh  viện 
Hùng  Vương  từ  mức  gần  như  không  tuân  thủ 
(9%)  đã  đạt  mức  trung  bình  (50%).  Nhưng  tỉ  lệ 
tuân thủ  của từng  khoa  trong đợt khảo sát  gần 
nhất  (12/2012)  có mức dao  động  rất lớn  từ 24% 
đến 83%. Hầu hết những khoa có tỉ lệ tuân thủ 
cao là các khoa chỉ thực hiện những thao tác đơn 

636

 

Hình  1:  Tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYTtheo thời 
gian 
Mặc  dù,  chiến  dịch  “Bàn  tay  sạch”  vẫn  còn 
nhiều khuyết điểm nhưng không thể phủ nhận 
hiệu  quả  của  nó  khi  đưa  tỉ  lệ  tuân  thủ  từ  mức 
kém  lên  mức  trung  bình,  đồng  thời  xây  dựng 
nền  tảng  vững  chắc  để  triển  khai  những  can 
thiệp tập trung hơn. Điều này cũng phù hợp với 
kết  luận  rút  ra  từ  nhiều  nghiên  cứu  khác  nhau 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
của WHO cho thấy những cơ sở y tế có nền tảng 

tuân thủ rửa tay của NVYT đóng vai trò rất quan 

tuân thủ tương đối khá sẽ cần những chiến lược 

trọng trong việc cải thiện tình trạng NKBV. 

tập  trung  vào  những  vấn  đề  còn  tồn  tại  để  đạt 
được sự cải thiện hơn nữa(1010). 
Hiệu  quả  của  chiến  dịch  không  chỉ  dừng  ở 
việc cải thiện sự tuân thủ rửa tay của NVYT mà 

còn cải thiện tình trạng NKBV. Khi tỉ lệ tuân thủ 
rửa tay của NVYT tăng thì tỉ lệ NKBV giảm dần 
(hình 2). 

 
Hình 3: So sánh tỉ lệ tuân thủ rửa tay tại khoa Phẫu 
thuật‐Gây mê hồi sức và khoa Nhi sơ sinh theo thời 
gian 
BÀN LUẬN 

 
Hình 2: Tỉ lệ NKBV và tỉ lệ tuân thủ rửa tay từ năm 
2010 đến 2012 
Tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện giảm dần hàng 
năm.  Nếu  so  sánh  với  từng  loại  tỉ  lệ  nhiễm 
khuẩn  bệnh  viện  của  năm  2010,  thì  tỉ  lệ  nhiễm 
khuẩn  vết  mổ  (NKVM)  sanh  và  tỉ  lệ  nhiễm 
khuẩn  sơ  sinh  (NKSS)  đều  giảm  có  ý  nghĩa 
thống kê (p<0,001). 
Trong  đó,  tỉ  lệ  NKSS  trên  tổng  số  bé  nhập 
nhi có mức cải thiện nhanh và nhiều hơn so với 
NKVM sanh và NKVM phụ. Điều này có thể lý 
giải là do tỉ lệ tuân thủ rửa tay của khoa Nhi khá 
cao, trong khi tỉ lệ tuân thủ tại khoa phẫu thuật 
chỉ  đạt  mức  trung  bình  (chỉ  khảo  sát  trên  đối 
tương  nhân  viên  khoa,  không  tính  phẫu  thuật 
viên) (hình 3). Do đó, việc nâng cao và duy trì sự 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay tăng vọt rất nhanh 
từ  9%  đến  50%  chỉ  trong  vòng  2  năm  sau  khi 
thay  đổi  hình  thức  tổ  chức  (hình  1).  Năm  đầu 
tiên  triển  khai  chiến  dịch  (2010),  tỉ  lệ  tuân  thủ 
tăng rõ rệt từ 9% lên 44%. Tuy nhiên, thời gian 
sau  chiến  dịch  càng  lâu  thì  tỉ  lệ  tuân  thủ  càng 
giảm, từ 44% sau 1 tháng xuống còn 43% sau 6 
tháng và 37% sau 1 năm. Do đó, việc phát động 
chiến dịch định kỳ hàng năm là cần thiết để duy 
trì  sự  tuân  thủ  của  NVYT.  Bên  cạnh  đó,  để  tạo 
cho NVYT thói quen rửa tay cần phải thực hiện 
giám  sát  và  phản  hồi  thường  xuyên.  Từ  năm 
2011, sau các đợt giám sát chính trong toàn bệnh 
viện  (trước  và  sau  chiến  dịch),  khoa  Kiểm  soát 
nhiễm khuẩn đã tiến hành giám sát và phản hồi 
định  kỳ  tại  một  số  khoa  trọng  điểm,  tần  suất 
thực  hiện  các  thủ  thuật  xâm  lấn  cao  như  khoa 
Sanh, khoa Phẫu thuật‐Gây mê hồi sức, khoa Sơ 
sinh. Thực hành này đã giúp duy trì sự tuân thủ 
ổn định. Sau đó, tỉ lệ tuân thủ cũng chỉ dao động 
quanh mức 52% đến 56% (hình 1). 
Báo  cáo  thực  trạng  rửa  tay  hàng  năm  cho 
thấy nguyên nhân chính khiến cho NVYT không 
rửa  tay  là  quá  bận,  không  đủ  thời  gian  và  xà 
phòng  có  mùi  khó  chịu  hoặc  gây  kích  ứng  da 
tay. Ngoài những lý do khách quan trên, vẫn còn 

637



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
những nguyên nhân chủ quan khác như NVYT 
quên,  không  nghĩ  đến,  thời  gian  tiếp  xúc  bệnh 
nhân ngắn hay do mang găng tay. Ngoài ra, kết 
quả khảo sát kiến thức về rửa tay cho thấy tỉ lệ 
NVYT  có  kiến  thức  đúng  hoàn  toàn  về  những 
vấn đề liên quan đến rửa tay chưa cao (<30%)(1). 
Tỉ  lệ  trả  lời  đúng  những  câu  hỏi  liên  quan  đến 
kiến thức cơ bản về rửa tay (tác nhân, đường lây 
truyền, năm thời điểm rửa tay, thời gian rửa tay) 
khá  cao.  Nhưng  những  câu  hỏi  về  tình  huống 
(lựa  chọn  phương  pháp  rửa  tay,  những  tình 
huống nào cần rửa tay) có tỉ lệ trả lời đúng chưa 
cao(1).  Điều  này  cho  thấy  phương  pháp  huấn 
luyện hiện tại chỉ dừng ở mức cung cấp các kiến 
thức cơ bản về rửa tay mà chưa giúp NVYT áp 
dụng các kiến thức đã được huấn luyện vào thực 
tế. Đồng thời, do huấn luyện kết hợp với chương 
trình phát động rửa tay nên thời gian dành cho 
huấn luyện ngắn, không thể đi sâu vào phân tích 
các  tình  huống  cụ  thể  cần  rửa  tay.  Tỉ  lệ  nhiễm 
khuẩn bệnh viện giảm rất đáng khích lệ là bằng 
chứng thiết thực của vai trò quan trọng trong vệ 
sinh tay trong chăm sóc y tế. 
Mặc dù tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện đã giảm 
có  ý  nghĩa  thống  kê  nhưng  việc  hướng  đến 

nhiễm  khuẩn  bệnh  viện  bằng  không  theo  phát 
động của Bộ Y tế và Tổ chức Y tế Thế giới, việc 
thay đổi trong cách thức tập huấn, khen thưởng 
và giám sát khuyến khích nhân viên vệ sinh tay 
theo đúng chỉ định rất cần thiết. 

luyện.  Không  chỉ  chú  trọng  vào  cung  cấp  kiến 
thức  đơn  thuần  về  tầm  quan  trọng,  các  thời 
điểm, kỹ thuật rửa tay mà còn phải giúp NVYT 
có  kỹ  năng  thực  hành  tốt,  nhận  thức  được 
những  tình  huống  cần  phải  rửa  tay  trên  lâm 
sàng. Ngoài ra, phải thực hiện huấn luyện đồng 
bộ cho tất cả NVYT để tạo một môi trường văn 
hóa rửa tay trong toàn bệnh viện. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Bệnh  viện  Hùng  Vương  (2012).  Báo  cáo  thực  trạng  rửa  tay. 
Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện Hùng Vương. Tr. 22‐
37.  

2.

Bệnh  viện  Hùng  Vương  (2013).  Báo  cáo  thực  trạng  rửa  tay. 
Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện Hùng Vương. Tr. 3‐
20.  

3.


Cherry  MG,  et  al.  (2012).  Features  of  educational  interventions 
that lead to compliance with hand hygiene in healthcare professionals 
within a hospital care setting. A BEME systematic review: BEME 
Guide No. 22. Med Teach. 34(6) e406‐20. 

4.

Le  TA,  et  al  (2007).  Reduction  in  Surgical  Site  Infections  in 
Neurosurgical  Patients  Associated  With  a  Bedside  Hand  Hygiene 
Program  in  Vietnam.  />Accessed on 12 May 2012. 

5.

Nguyen  KV,  Nguyen  PT,  Jones  SL  (2008).  Effectiveness  of  an 
alcohol‐based  hand  hygiene  programme  in  reducing  nosocomial 
infections  in  the  Urology  Ward  of  Binh  Dan  Hospital.  Vietnam. 
Trop Med Int Health. 13(10) 1297‐302. 

6.

Pessoa‐Silva CL, et al (2007). Reduction of Health Care Associated 
Infection Risk in Neonates by Successful Hand Hygiene Promotion. 
Pediatrics. 120(2) e382‐e390. 

7.

Phan Thị Hằng, Trần Thị Thúy Hằng, Huỳnh Thị Ngọc Hạnh, 
Nguyễn Thị Thu Hồng (2012). Hiệu quả của chương trình Kiểm 
soát nhiễm khuẩn làm giảm nhiễm khuẩn bệnh viện tại khoa sơ sinh 
Bệnh viện Hùng Vương. Tạp chí Y học thực hành. 831. 79‐84. 


8.

Trần  Thị  Mỹ  Hạnh,  Trần  Thị  Mỹ  Hạnh,  Ngô  Thị  Thanh 
Thắm, Trần Chiến Công (2013). Khảo sát kiến thức ‐ thái độ ‐ các 
yếu tố ảnh hưởng đến vệ sinh tay của nhân viên y tế tại Bệnh viện 
Hùng Vương. Tạp chí y học thực hành. 904. 96‐99. 

9.

Won SP, et al (2004). Handwashing program for the prevention of 
nosocomial  infections  in  a  neonatal  intensive  care  unit.  Infect 
Control Hosp Epidemiol. 25(9) 742‐6. 

10.

World  Health  Organization  (2009).  WHO  Guidelines  on 
Hand  Hygiene  in  Health  Care.  A  World  Alliance  For  Safer 
Health Care. WHO. Switzerland. Pp. 56‐99. 

KẾT LUẬN 
Chiến dịch “Bàn tay sạch” bước đầu đã giúp 
cải  thiện  thực  trạng  vệ  sinh  tay  tại  bệnh  viện 
Hùng Vương. Tuy nhiên, khi NVYT đã bắt đầu 
nhận thức được sự cần thiết của rửa tay và mức 
độ tuân thủ chung đã đạt được mức trung bình 
thì  chương  trình  can  thiệp  nên  có  sự  thay  đổi. 
Ngoài những can thiệp cơ bản như cung cấp các 
tranh ảnh cổ động, khuyến khích sử dụng dung 
dịch  sát  khuẩn  tay  nhanh,  xây  dựng  chương 

trình quảng bá thu hút sự chú ý của NVYT, cần 
có  sự  đổi  mới  về  cách  thức  và  nội  dung  huấn 

Ngày nhận bài báo:    

 

17/5/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:   18/6/2014 
Ngày bài báo được đăng:  

 

14/11/2014 

 

 
638

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 



×