Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA GÂY MÊ PROPOFOL
KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH CHO CÁC CAN THIỆP
TIẾT NIỆU NGOẠI TRÚ
Tạ Đức Luận*, Nguyễn Thị Quý**
TÓM TẮT
Mục đích nghiên cứu: Đánh giá sự hiệu quả và tính an toàn của gây mê propofol KSNĐĐ cho các can
thiệp ngoại khoa tiết niệu ở bệnh nhân ngoại trú.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả cắt ngang. Từ tháng 4 đến tháng 12/2012, tại khoa PT‐GMHS
BVĐHYD TP. HCM, 65 BN được lựa chọn cho can thiệp tiết niệu về trong ngày, ASA I/II, được gây mê tĩnh
mạch với propofol KSNĐĐ, thông khí MTQ, không dùng dãn cơ. Ghi nhận nồng độ đích tại các thời điểm, diễn
biến của sinh hiệu và cách xử trí. Trong mổ đánh giá độ mê bằng thang điểm PRST, sự hài lòng của PTV bằng
thang điểm VAS (tính ngược). Tại PHT đánh giá độ an thần của BN bằng thang điểm OAA/S. Tại PHP đánh
giá sự hài lòng của BN bằng VAS.
Kết quả: Nồng độ đích (mcg/ml) trung bình lúc mất tri giác: 1,3±0,31 (0,6‐2,0); đặt MTQ: 3,64 ± 0,35(2,6‐
4); trong can thiệp: 3,87 ± 0,37(3‐5); khi HT: 1,18 ± 0,31(0,4‐2,6).Thời gian mất tri giác(giây): 46,02±7,71(34‐
78); thời gian HT(phút): 13,95±5,20(7‐35). Điểm PRST luôn ≤1; sự hài lòng PTV: 9,83±0,52. Điểm OAA/S khi
về PHT: 5đ 33 ca (50,7%); 4đ 25 ca (38,5%); 3đ 7 ca (10,8%). Sự hài lòng của BN: 0,46±0,82đ. Các phiền nạn:
tụt HA phải sử dụng ephedrine: 5 ca (7,7%); mạch chậm: 11ca (16,9%). Không có trường hợp nào suy HH
trong và sau mổ.
Kết luận: Phương pháp gây mê tĩnh mạch bằng propofol KSNĐĐ với thông khí MTQ dễ sử dụng, có thể
áp dụng cho các can thiệp tiết niệu trung bình và ngắn, về trong ngày với hiệu quả và an toàn cao.
Từ khóa: gây mê tĩnh mạch, kiểm soát nồng độ đích, gây mê ngoại trú, can thiệp tiết niệu
ABSTRACT
STUDYING EFFICACY AND SAFETY OF INTRAVENOUS ANESTHESIA WITH TARGET
CONTROLLED INFUSION PROPOFOL FOR UROLOGICAL PROCEDURES IN OUTPATIENTS
Ta Duc Luan, Nguyen Thi Quy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 88 - 94
Objective: Studying efficacy and safety of intravenous anesthesia with TCI propofol for urologycal
procedures in outpatients.
Methods: Prospective, descriptive and cross‐sectional study. From 4/2012 to 8/2012, at surgery
anesthesiology department, university medical centre, 65 patients were selected for ambulatory surgery,by ASA
I/II to undergo urological procedures, received intravenous anesthesia with TCI propofol, LMA ventilation
without muscle relaxants. The study recorded TCI at different times as well as vital signs and solutions. During
operation, anesthesia depth was evaluated by PRST, the satisfaction of practioners was evaluated by VAS (in
reverse). In the recovery room, hypnosic was evaluated by OAA/S, and the satisfaction of patients was avaluated
by VAS
Result: Mean target concentration (mcg/ml) at losing awareness: 1.33±0.31 (0.6‐2.0); LMA insertation:
* Bệnh viện 30/4
** Viện tim TP. HCM
Tác giả liên lạc: BS Tạ Đức Luận
ĐT: 0903 953 874
88
Email:
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
3.64 ± 0.35(2.6‐4);intervene: : 3.87 ± 0.37(3‐5);recovery: 1.18 ± 0.31(0.4‐2.6); losing awareness time (second):
46.02±7.71 (34‐78);recovery time (minute): 13.95±5.20 (7‐35). PRST score allways stays below 1; the
satisfaction of practioner : 9.83±0.52; OAA/S when arriving at recovery room:5 points for 33 cases ( 50.7%); 4
points for25 cases (38.5%); 3 points for 7 cases (10.8%). The satisfaction of patients:
0.46±0.82.Complications:blood pressure fall needs the use of ephedrine: 5 cases (7.7%);slow pulse: 11cases
(16.9%). There was no respiratory failure during and after procedure.
Conclutions: Intravenous anesthesia with propofol TCI, together with LMA ventilation is easy to use and
able to apply to medium and short urologycal procedures for outpatients with high efficacy and safety.
Key words: intravenous anesthesia, target controlled infusion(TCI),anesthesia for outpatients, urologycal
procedure
MỞ ĐẦUPhẫu thuật trong ngày (PTTN) được
Ralph Water mô tả đầu tiên vào năm 1918.
PTTN mang lại nhiều lợi ích như mức độ hài
lòng cao của bệnh nhân, giảm nguy cơ nhiễm
trị cũng
trùng,
giảm
chi
phí điều
như giảm được số lượng bệnh nhân chờ mổ.
Trong chiều hướng đó, gây mê hồi sức
(GMHS) cũng phát triển đáng kể để đáp ứng
kịp thời với nhu cầu phát triển ngoại khoa. Với
sự ra đời của nhiều loại thuốc mê mới có tác
dụng nhanh, êm dịu; nhiều phương pháp
phẫu thuật ít xâm lấn và kỹ thuật GM mới làm
cho số lượng và tỉ lệ của gây mê phẫu thuật
ngoại trú không ngừng tăng lên.
Gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích
(TCI) được ra đời và phổ biến nhanh ở nước ta
với nhiều ưu điểm như kiểm soát mê nhanh, an
toàn, ổn định, dự báo được thời gian hồi tỉnh.
Mặt nạ thanh quản (MNTQ) cũng đang được sử
dụng rộng rãi với nhiều tính năng ưu việt như
kỹ thuật đặt nhanh, không cần dãn cơ, đảm bảo
thông khí tốt, ít xâm lấn. Sự phối hợp
GMKSNĐĐ với thông khí với MNTQ phát huy
được những ưu điểm tinh tế, mang lại sự an
toàn và hiệu quả, đặc biệt trong trường hợp gây
mê cho bệnh nhân ngoại trú.
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm
xác định hiệu quả và tính an toàn của gây mê
propofol KSNĐĐ kết hợp với thông khí MNTQ
trong các can thiệp ngoại khoa về tiết niệu ở
bệnh nhân ngoại trú.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Niệu Khoa
Tiền cứu, mô tả cắt ngang
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân có chỉ định can thiêp ngoại
khoa tiết niệu, tuổi từ 16 đến 70, ASA I, II, dự
kiến cuộc mổ không kéo dài hơn 90 phút. BN
được giải thích rõ và tự nguyện đồng ý tham gia
PTTN trong thời gian từ tháng 4/2012 đến tháng
8/2012 tại khoa PT‐GMHS bệnh viện Đại Học Y
Dư thiệp
(phút)
Thời gian HT (phút)
Thời gian nằm PHT
(phút)
Nhanh
nhất
34
Lâu nhất Trung bình
78
46,02
4,0
8,0*
4,86 ± 0,83
19
105
41,18 ±
17,33
5
90
7
15
35
60
26,43 ±
17,09
13,95 ± 5,20
38,74 ±
11,44
* Những BN phải đặt đến lần thứ 2, 3.
Niệu Khoa
Biểu đồ 1: Mạch, huyết áp tâm thu (HATT), huyết
áp tâm trương (HATTr) tại các thời điểm:
To: mất TG; T1,2: trước và sau đặt MTQ; T3,4:
trước và sau rạch da; T5: trong can thiệp; T6: cuối
can thiệp; T7: HT; T8,9: trước và sau rút MTQ
Bảng 6: Tụt HA và sử dụng ephedrine; mạch chậm
và sử dụng atropine:
Tụt HA
Sử dụng ephedrine
Mạch chậm
Sử dụng atropine
Số ca
29
5
11
11
Tỷ lệ %
44,6
7,7
16,9
16,9
Bảng 7: Điểm an thần OAA/S khi về phòng hồi tỉnh:
OAA/S
3
4
5
Tổng
Số ca
7
25
33
65
Tỷ lệ %
10,8
38,5
50,7
100
Bảng 8: Các biến chứng khác ở HP:
Biến chứng
Tụt SpO2 < 95%
Thở chậm<10 hoặc thở
nhanh >25
Chóng mặt
Mất định hướng
Nôn ói
Tần số
0
0
Tỷ lệ %
0
0
1
0
1
1,5
0
1,5
91
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
BÀN LUẬN
Sự thay đổi nồng độ đích của Propofol qua
các giai đoạn phẫu thuật
Theo Paul F. White(8, PTTN nên giới hạn ở
các loại PT ngắn với thời gian mổ < 90 phút.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các
kỹ thuật GM và PT mới, ít xâm lấn, thời gian
không hẳn còn là yếu tố giới hạn cho PT trong
ngày. Tuy nhiên, do có mối liên quan giữa thời
gian GM – PT và thời gian hồi tỉnh sau PT, các
PT kéo dài hơn nên thực hiện sớm trong ngày.
Các PT kéo dài có thể gây mất nhiều máu, dự
kiến phải truyền máu thì không nên thực hiện
PT ngoại trú. Wong và cs(9) đã báo cáo 324 TH
PTTN có thời gian mổ thay đổi từ 15 đến 165
phút đạt kết quả tốt, không gây biến chứng
đáng kể nào. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
thời gian can thiệp thủ thuật trung bình là
26,43 ± 17,09 (5 – 90) phút, nằm trong giới hạn
an toàn của nhiều tác giả.
Propofol là một trong các loại thuốc mê tĩnh
mạch thích hợp để đặt MNTQ do khả năng làm
dãn cơ hàm và ức chế các phản xạ vùng hầu
họng. Do đó có thể đặt MNTQ với propofol
mà không cần sử dụng thuốc dãn cơ. Hơn nữa,
do đặc điểm có thời gian khởi phát nhanh, thời
gian tác dụng ngắn, thức tỉnh sớm và tỷ lệ nôn
và buồn nôn sau mổ thấp, nên thích hợp cho các
loại PTTN. Kết hợp với tiền mê midazolam
và fentanyl giúp cho việc khởi mê êm dịu hơn
và giảm bớt nồng độ Propofol. Tuy nhiên, theo
các tài liệu y văn khi khởi mê bằng Propofol cần
lưu ý giảm liều theo tuổi của BN. Servin khảo
sát trên 562 BN từ 18 – 85 tuổi nhận thấy nồng
độ đích khởi mê giảm theo tuổi, phân loại ASA,
khi có tiền mê và kết hợp nhóm morphine
trước đó(7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ
mất tri giác trung bình là 1,3 ± 0,31 mcg/ml.
Nồng độ mất tri giác ở những bệnh nhân ≥ 60
tuổi thấp hơn so với BN trẻ nhưng không có ý
nghĩa thống kê (p=0,209‐bảng 3). Ngược lại,
nồng độ mất tri giác ở các bệnh nhân nữ thấp
hơn có ý nghĩa so với BN nam (p=0,004‐bảng 4).
92
Kết quả này tương tự với các nghiên cứu của
Châu Thị Mỹ An(1): 1,3±0,4 mcg/ml, nhưng thấp
hơn so với Nguyễn Quốc Khánh(5): 1,7±0,3
mcg/ml và Hiroko Iwakiri MD(3): 2,0±0,9 mcg/ml.
Nồng độ đích lúc đặt MNTQ trung bình của
chúng tôi là 3,64±0,35 mcg/ml, cao hơn so với
nghiên cứu của Phạm Văn Hùng và cộng sự:
2,4±0,6 mcg/ml. Tuy nhiên chúng tôi dùng liều
fentanyl thấp hơn, chỉ 1,5‐2 mcg/kg so với 4
mcg/kg(7).
Chúng tôi duy trì nồng độ đích trong can
thiệp trung bình là 3,96±0,27 (3‐5 mcg/ml). Kết
quả này cao hơn so với nghiên cứu của Gustavo
Lugo‐Goytia(2): 3,5‐4,0 mcg/ml cho các PTNS
bụng. Sự khác biệt này được giải thích do chúng
tôi không dùng dãn cơ trong khởi mê cũng như
trong toàn cuộc mổ.
Vì đa số các can thiệp trong nghiên cứu của
chúng tôi là tán sỏi nội soi (bảng 1), không có thì
rạch da thực sự nên chúng tôi không cần tăng
nồng độ đích vào thời điểm này. Tuy nhiên, để
tránh các phản xạ có thể xảy ra, chúng tôi đều
cho thêm 50 mcg fentanyl trước khi các phẫu
thuật viên tiến hành thủ thuật.
Trong tán sỏi nội soi, nhất là tán sỏi nội soi
niệu quản đoạn lưng, bệnh nhân cần được ngủ
đủ sâu để phẫu thuật viên dễ dàng thao tác.
Trong tán sỏi nội soi cũng hầu như không có
khái niệm cuối cuộc mổ. Nhiều khi cuộc mổ
kết thúc rất nhanh khi nồng độ đích đang ở
giới hạn cao. Trong nghiên cứu của chúng tôi
lại không dùng dãn cơ, nên để an toàn, chúng
tôi luôn duy trì nồng độ này trong suốt cuộc
mổ. Với nồng độ đích này bệnh nhân hoàn
toàn nằm yên, đủ dãn cơ, số lần điều chỉnh
máy TCI rất ít, chỉ 1‐1,5 lần/cuộc mổ. Qua đó
thể hiện tính ưu việt của hệ thống TCI là duy
trì độ mê ổn định, sự hài lòng của phẫu thuật
viên (theo thang VAS tính ngược) đạt
9,83±0,52, điểm PRST trong mổ luôn ≤1. Chúng
tôi cũng không ghi nhận trường hợp nào bệnh
nhân nhớ trong mổ. Nồng độ đích lúc hồi tỉnh
trung bình trong nghiên cứu này là 1,18±0,31
(0,4‐2,6) mcg/ml, thấp hơn nồng độ mất tri
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
giác. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu
của Gustavo Lugo – Goytia: 1,32±0,45 mcg/ml;
Phạm Văn Hùng: 1,2±0,7mcg/ml; Châu Thị Mỹ
An: 1,2±0,3, thấp hơn kết quả của Nguyễn
Quốc Khánh: 1,7±0,3 mcg/ml và Hiroko
Iwakiri MD: 1,8±0,7mcg/ml. Sự khác biệt này
có thể lý giải do các cách tiến hành khác nhau,
thuốc phối hợp và tiêu chuẩn chọn bệnh cùng
với bệnh lý phẫu thuật khác nhau. Và cuối
cùng là sự đáp ứng khác nhau giữa các cá thể
và dân tộc trên thế giới. Từ nồng độ mất tri
giác chúng ta có thể ước lượng nồng độ thức
tỉnh của bệnh nhân nhằm tránh tình trạng ngủ
không đủ hay sự nhớ lại trong mổ(6). Hiroko
Iwakiri MD thấy rằng sự chênh lệch về nồng
độ giữa mất tri giác và hồi tỉnh trên một BN
chỉ vào khoảng 0,17±0,32 mcg/ml với nồng độ
hồi tỉnh thấp hơn. Kết quả của chúng tôi là
0,2±0,2 mcg/ml, cũng tương tự với nghiên cứu
trên.
Chúng tôi cũng ghi nhận đôi khi có sự khác
biệt: nồng độ thức tỉnh thậm chí bằng hay cao
hơn nồng độ mất tri giác. Có lẽ do có sự phối
hợp với các thuốc an thần và morphinique trước
khởi mê. Với tiền mê midazolam và fentanyl,
thời gian mất tri giác trong nghiên cứu của
chúng tôi là 46,02 ± 7,71 giây, ngắn hơn nhiều so
với Phạm Văn Hùng (72,8 ± 33,4) và Châu Thị
Mỹ An (75,5 ± 47,5). Sự khác biệt này là do
chúng tôi chọn kiểu khởi mê nhanh với nồng độ
đích huyết tương cài đặt ban đầu là 6 mcg/ml.
Cơ sở chọn kiểu khởi mê nhanh của chúng tôi là
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
tương đối khỏe mạnh, là đối tượng của phẫu
thuật trong ngày.
Thời gian từ khi khởi mê đến khi đặt MNTQ
thành công trung bình là 4,96±0,83 phút (4‐8
phút). Tỉ lệ đặt MNTQ thành công ngay từ lần
đầu đạt 60/65 ca (92,3%). Có 3 ca phải đặt hai
lần, 2 ca phải đặt ba lần, nhưng bệnh nhân vẫn
hoàn toàn nằm yên, không có ca nào kích thích.
Đó là ưu điểm tuyệt đối của hệ thống TCI trong
các trường hợp đặt nội khí quản hay mặt nạ
thanh quản khó, do máy vẫn tiếp tục duy trì một
Niệu Khoa
Nghiên cứu Y học
nồng độ thuốc mê ổn định. Có 3 trường hợp
(4,6%) bệnh nhân co tay bên có đường truyền
tĩnh mạch khi khởi mê do tác dụng đau nơi
chích của propofol.
Thời gian gây mê trung bình trong nghiên
cứu của chúng tôi là 41.18 ± 17,33 (19‐105 phút),
thời gian hồi tỉnh trung bình là 13,95 ± 5,20 (7‐ 35
phút), phù hợp với kết quả của nhiều tác giả
trong và ngoài nước. Thời gian máy dự báo hồi
tỉnh thường dài hơn thời gian hồi tỉnh thực tế
vài phút (18,38 ± 5,66 so với 13,95 ± 5,209), phù
hợp với các nghiên cứu trước đây về khả năng
dự đoán của máy TCI. Tại PHT, 33 BN (50,7%)
đạt điểm OAA/S=5; 25 BN (38,5%) đạt điểm 4,
chỉ có 7 BN (10,8%) có điểm 3 (Bảng 7). Như vậy,
hơn một nửa BN có thể đến thẳng PHP, không
phải qua PHT. Một lần nữa tính ưu việt của gây
mê TM Propofol có TCI được khẳng định.
Sự thay đổi huyết động và hô hấp trong
quá trình GMTMKSNĐĐ
Chúng tôi ghi nhận 29/65 bệnh nhân (44,6% ‐
Biểu đồ 1, bảng 6) có tụt huyết áp > 20% so với
HA nền trước khi khởi mê. Tuy nhiên, huyết áp
chỉ tụt thoáng qua, sau đó nhanh chóng trở về
bình thường sau khi giảm nồng độ propofol và
cho dịch chảy nhanh. Chỉ có 5 bệnh nhân (7,7%)
thực sự cần đến ephedrine để nâng huyết áp với
liều 2‐3 mg. Tỉ lệ tụt huyết áp của chúng tôi
tương đối cao, có lẽ do chúng tôi dẫn mê nhanh
với nồng độ huyết tương (Cp) cài đặt ban đầu
bằng 6 mcg/ml. Chúng tôi không ghi nhận
trường hợp nào có tụt huyết áp ở giữa hay cuối
cuộc mổ.
Mạch chậm: có 11 bệnh nhân (16,9%) phải sử
dụng atropine trong và sau khởi mê. Liều
atropine thay đổi từ 0,5 đến 2 mg. Khác với tác
dụng tụt huyết áp, chúng tôi thấy có 4 bệnh
nhân có mạch chậm ở giai đoạn giữa cuộc mổ.
Tụt huyết áp, mạch chậm, đau nơi chích là
những tác dụng phụ của propofol thường gặp
nhất(4). Trong quá trình mổ thông khí luôn được
đảm bảo, SpO2 luôn đạt 97‐100%, EtCO2 trong
khoảng 28‐ 43 mmHg. Không có trường hợp nào
bị tụt SpO2 dưới 96 %, phải hỗ trợ hô hấp xảy ra
93
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
ở phòng hồi tỉnh. Khi rút MNTQ các BN đều
nằm yên, không gồng giẫy, một số khó chịu do
đặt MNTQ như trầy sước niêm mạc, rướn máu
đều không đáng kể. Các phiền nạn khác như
chóng mặt, nôn ói…(Bảng 8) chỉ thoáng qua và
xử trí đơn giản.
KẾT LUẬN
Gây mê tĩnh mạch propofol kiểm soát nồng
độ đích với thông khí MNTQ thì an toàn, dễ sử
dụng, kiểm soát độ mê nhanh chóng và ổn định,
đủ mềm cơ, ít tác dụng không mong muốn,
thích hợp với các can thiệp ngoại khoa tiết niệu
về trong ngày.
Lời cám ơn Xin chân thành cám ơn TS.BS Phan Tôn Ngọc Vũ
và các đồng nghiệp tại khoa Phẫu thuật và Gây mê hồi sức; các
phẫu thuật viên khoa Ngoại niệu BV ĐHYD TP. HCM đã giúp
đỡ tôi hoàn thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
94
Châu Thị Mỹ An, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Văn Chừng
(2011). “Gây mê tĩnh mạch toàn diện bằng propofol kiểm soát
nồng độ đích trong phẫu thuật bụng”. Y học thành phố Hồ Chí
Minh, tập 15(3), tr. 179‐184.
Gustavo LG, et al (2005). “Total intravenous anesthesia with
propofol and fentanyl: acomparision of target controlled
versus manual controlled infusion system”. Rev Mex Anesth,
28(1), pp.98‐99.
Iwakiri H, Nishihara N, Nagata O, Matsukawa T, Ozaki
M, Sessler DI (2005). “Individual effect site concentrations of
propofol are silimar at loss of consciousness and at
awakening”. Anesth Analg, 100:107‐10A
4. Mc. Leskey CH, et al (1993). “Adverse events in multicenter
phase IV study of propofol: Evaluation by anesthesiologists
and postanesthesia care unit nurses”. Anesth Analog, 77:S3‐S9
5. Nguyễn Quốc Khánh (2008). “Bước đầu so sánh gây tê tĩnh
mạch hoàn toàn bằng propofol có hay không kiểm soát nồng
độ đích”. Đại hội Gây mê hồi sức Việt Nam, Daklak, tr. 208‐221.
6. Nguyễn Thị Quý (2012). “Gây mê tĩnh mạch với kiểm soát
nồng độ đích”. Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 16(2), tr. 15‐
26.
7. Phạm Văn Hùng, Nguyễn Anh Tuấn, Phan Tôn Ngọc Vũ
(2012). “Đanh giá hiệu quả và an toàn của sử dụng mặt nạ
thanh quản proseal với gây mê tĩnh mạch KSNĐĐ propofol
cho phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm ngực nội soi”. Y
học thành phố Hồ Chí Minh, tập 16(2), tr. 84‐89.
8. Sevin F, at al (1999). “TCI in children and elderly patients”.
Acta anesthesiol Belg, 50: 183‐186.
9. White PF (2005). “Ambulatory Anesthesia Advances into
New Millennium”. Anesth Analg 90; pp 1234 – 1235.
10. Wong J, Tong D, De Silva Y, Abrishami A, Chung F (2009).
Development of the Functional Recovery Index for
Ambulatory Surgery and Anesthesia. Anesthesioloy 110; pp
596 – 602.
Ngày nhận bài báo:
01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
29/11/2013
Ngày bài báo được đăng :
05/01/2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa