Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ứng dụng khung nắn xương trong phẫu thuật đóng đinh nội tủy kín xương chày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.03 KB, 5 trang )


để dùi và khoan mâm chày vào long tủy. Dùng
cây khoan tủy thăm dò xem có thể khoan vào
đoạn gãy xa được hay chưa. Nếu được thì chắc
chắn xương đã nắn hết chồng ngắn và có thể
đóng đinh vào được.

KẾT QUẢ
Từ tháng 6/2010 đến tháng 5/2011 có 19 bệnh
nhân được nắn kín xương chày trên khung nắn
để đóng đinh nội tủy.
Tuổi: từ 18-55, nữ: 9 bệnh nhân, nam 10 bệnh
nhân
Thời gian từ lúc tai nạn đến khi mổ: sớm
nhất là mổ trong cùng ngày, muộn nhất là sau
14 ngày.
Vị trí gãy: Bên phải: 12 trường hợp, Bên trái:
7 trường hợp
1/3 trên: 2 ca
1/3 giữa: 15 ca
1/3 dưới: 2 ca
Kết quả nắn xương: cả 19 ca đều kéo được
hết di lệch chồng ngắn có thể đóng đinh kín
không cần mở ổ gãy. Thời gian lắp đặt khung
trung bình là 10 phút. Không có biến chứng
chèn ép mạch khoeo.

BÀN LUẬN
Khả năng nắn xương vô khuẩn trên bàn
mổ
Trong gãy 2 xương cẳng chân, nếu muốn


nắn kín xương gãy thì phải kéo hết chồng ngắn
trước. Với một nắn xương thông thường để bó
bột, có thể kéo bằng cách treo tạ trên bàn nắn
chỉnh hình Bohler, cũng có thể treo tạ kéo trực
tiếp trên băng ca khi cho gối ở tư thế gập 900.
Một số phẫu thuật viên muốn nắn kín xương
chày trên bàn mổ để đóng đinh nội tủy kín. Nếu

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Nghiên cứu Y học

kéo theo kiểu cho gập gối 900 và treo tạ kéo thì
rất khó có thể bảo đảm vô khuẩn cho cuộc mổ.
Còn nếu người phụ mổ kéo nắn thì phải cần đến
2 hoặc 3 người nắn, nhưng củng rất khó khăn.
Nhất là các trường hợp mổ muộn thì việc kéo
nắn kín càng thêm khó khăn. Khung nắn nhờ
dụng cụ kéo căng (cái tăng đơ, tendeur) nên có
thể kéo hết chồng ngắn dễ dàng hơn nhiều, có
thể kiểm soát được mức độ căng dãn ra. Như
vậy có thể xác định hết chồng ngắn hay chưa
trước khi đặt que thăm dò vào đoạn gãy xa.
Tránh thăm dò nhiều lần làm tổn thương mô
mềm ở cẳng chân.

Thời gian lắp đặt khung
Khung nắn giúp kéo nắn xương được,
nhưng cũng cần mất thêm thì giờ để lắp đặt
khung. Quá trình thực hiện mất thì giờ nhất là

do sợi dây buộc cổ chân. Do không có sợi dây
vô khuẩn nên chúng tôi dùng sợi vải dẫn lưu
của khoa tai mũi họng để buộc, phải nối 2 sợi
mới đủ dài. Chúng tôi đã sắm 1 sợi dây nilon to
bản để nịt cổ chân, nhưng sau một lần sử dụng
dây đã bị thất lạc ngay. Vì vậy chúng tôi đang
thiết kế một loại dây dính chặt vào khung nắn
không gỡ ra được.

Nguy cơ chèn ép mạch khoeo
Kéo nắn xương chày trên khung nắn đòi hỏi
phải có đối trọng. Và thường đối trọng là kê
chặn ở mặt sau 1/3 dưới đùi. Khung nắn xương
Bohler hoặc khung nắn xương đa năng của
Nguyễn Quang Long dùng để nắn xương điều
trị bảo tồn đều theo nguyên tắc này. Chưa thấy
báo cáo nào ghi nhận tổn thương mạch khoeo
do nắn xương chày. Với dụng cụ kéo có kiểm
soát và đo chiều dài xương cẩn thận trước mổ,
sờ nắn ổ gãy ngay lúc mổ, thì việc kéo chỉ cần
vửa đủ hết chồng ngắn khó có thể gây chèn ép
quá lớn vào mạch khoeo. Vì vậy khung nắn của
chúng tôi là khá an toàn.

KẾT LUẬN
Khung nắn vô khuẩn để nắn xương trên bàn
mổ giúp phẫu thuật viên nắn xương chày được
dễ dàng hơn trong phẫu thuật đóng đinh nội

353



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

tủy kín xương chày. Khung nắn giúp tiết kiệm
nhân lực, tăng tỉ lệ thành công nắn kín, làm
giảm nguy cơ tổn thương mô mềm ở cẳng chân.

5.

6.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

4.

354

Atiq-uz-Zaman, Arif Hasan Khan and Amer Aziz (2008).
“Clinical outcome of close intramedullary interlocking nail
in fractured tibia”. The Journal of Pakistan Orthopaedic
Association, 20(1), pp. 26-35.
Bamford, D., Stanley, D.(1990), Brief reports.“Closed
intramedullary nailing of the tibia”, JBJS, 72-B(5), pp. 926.

Cao Thỉ (2010)”Khảo sát các gãy xương lớn tại bệnh viện
Chợ Rẫy trong 2 nãm 2008-2009”.Y học thực hành, 8(729),
tr.39-40
Court-Brown, C. M., Christie, J., McQueen, M. M.(1990)
“Closed intramedullary tibial nailing. its use in closed and
type I open fractures”.JBJS, 72-B(4), pp. 605-611.

7.

8.

Hooper GJ, Keddell RG, Penny ID (1991). “Conservative
management or closed nailing for tibial shaft fractures. A
randomised prospective trial”, JBJS, 73-B (1), pp. 83-85.
Im. Gun-Il, Tae. Suk-Kee (2005). “Distal Metaphyseal
Fractures of Tibia: A Prospective Randomized Trial of
Closed Reduction and Intramedullary Nail Versus Open
Reduction and Plate and Screws Fixation”. Journal of
Trauma-Injury Infection & Critical Care,59 (5), pp 1219-1223
Klaus KW and Martin B (1986), “Interlocking nailing of
complex fractures of the femur and tibia”. Clinical
Orthopaedics and related research, 1986, pp: 89-100.
Tang P, Gates C, Hawes J, Vogt M, Prayson MJ. (2006),
“Does open reduction increase the chance of infection
during intramedullary nailing of closed tibial shaft
fractures?”J Orthop Trauma. May;20(5):317-22.

Chuyên Đề Ngoại Khoa




×