Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá HER2 trong ung thu vú bằng phương pháp lai tại chỗ huỳnh quang và lai tại chỗ gắn bạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.46 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ HER2 TRONG UNG THU VÚ BẰNG PHƯƠNG PHÁP 
LAI TẠI CHỖ HUỲNH QUANG VÀ LAI TẠI CHỖ GẮN BẠC 
Đoàn Thị Phương Thảo*, Phan Đăng Anh Thư*, Hứa Thị Ngọc Hà*, Nguyễn Sào Trung* 

TÓM TẮT 
Giới  thiệu:  Tình trạng HER2 trong ung thư vú giữ vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra quyết định 
điều trị, giúp cho các nhà lâm sàng tiên đoán đáp ứng hóa trị liệu, có hoặc không đáp ứng nội tiết và là yếu tố chỉ 
định  cho  điều  trị  kháng  thể  đơn  dòng  trastuzumab.  Phương  pháp  lai  tại  chỗ  huỳnh  quang  (FISH),  được 
ASCO/CAP xác định là tiêu  chuẩn  vàng  để  khảo  sát  tình  trạng  HER2.  Bộ  môn  Giải  Phẫu  Bệnh  Đại  Học  Y 
Dược triển khai phương pháp này từ năm 2009 đến nay. Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp FISH đòi hỏi 
phòng xét nghiệm phải rất chuyên biệt, phải có kính hiển vi huỳnh quang, hơn nữa thời gian lưu trữ tiêu bản 
quá  ngắn  nên  không  thể  xem  xét  lại  khi  cần  thiết.  Song  song  với  phương  pháp  FISH,  từ  năm  2012  Bộ  môn 
chúng tôi đã ứng dụng thêm phương pháp lai tại chỗ gắn bạc hai màu (D‐ISH), với phương pháp này các tiêu 
bản được khảo sát dưới kính hiển vi quang học và đặc biệt tiêu bản có thể lưu trữ lâu dài. Phương pháp này cũng 
đã được FDA chấp thuận cho khảo sát HER2 vào tháng 6/2011. Mục tiêu của nghiên cứu này, chúng tôi khảo 
sát đối chiếu kết quả D‐ISH với kết quả FISH (tiêu chuẩn vàng) để có thể phát triển thêm một kỹ thuật mới với 
nhiều  ưu  điểm  hơn.  Đây  là  kết  quả  bước  đầu  khi  thực  hiện  phương  pháp  D‐ISH  để  khảo  sát  tình  trạng  gen 
HER2 trong ung thư vú. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lai tại chỗ huỳnh quang: dùng bộ kít PathVysion 
HER‐2  DNA  Probe.  Phương pháp lai tại chỗ  gắn bạc (D‐ISH): dùng bộ  INFORM  HER2  Dual  ISH  DNA 
Probe.  Dùng  trên  máy  nhuộm  tự  động.  Phương  pháp  Hóa  Mô  Miễn  Dịch:  bộ  Pathway  (Ventana  Medical 
Systems Inc, Tucson, Ariz) dùng trên máy nhuộm tự động. 
Kết quả: Khảo sát 67 mẫu ung thư vú xâm lấn, trong đó có 47 mẫu được thực hiện đồng thời D‐ISH, 
FISH và HMMD. 20 mẫu thực hiện D‐ISH và HMMD. Tương hợp giữa kết quả của hai phương pháp lai 
với kết quả HMMD gần như tuyệt đối trong nhóm HER2(‐) và HER2(3+), nhóm HER2(2+) thì tỉ lệ khuếch 
đại  dưới  20%.  Tương  hợp  giữa  kết  quả  FISH  và  Kết  quả  D‐ISH  là  100%  cả  nhóm  không  khuếch  đại  và 
khuếch đại gen HER2. 


Kết  luận: Trong nghiên cứu này, sự phù hợp giữa IHC và D‐ISH, FISH là trung bình. Sự phù hợp 
giữa kết quả FISH và D‐ISH là 100% cho cả trường hợp khuếch đại và không khuếch đại. Phương pháp D‐
ISH là phương pháp được chấp nhận để đánh giá HER2, kết quả nghiên cứu này đã cho thấy phương pháp 
D‐ISH  có  thể  xác  định  được  tình  trạng  HER2  với  tỉ  lệ  tương  hợp  hai  kết  quả  FISH  và  D‐ISH  là  100%. 
Ngoài ra, xét nghiệm D‐ISH dễ sử dụng vì khảo sát được dưới kính hiển quang học, tín hiệu màu không 
phân hủy theo thời gian, mẫu có thể được lưu trữ ở nhiệt độ phòng trong thời gian dài. Phương pháp FISH 
hoặc D‐ISH nên được thực hiện cho tất cả các bệnh nhân cần điều trị bằng trastuzumab. 
Từ  khóa:  hóa  mô  miễn  dịch,  lai  tại  chỗ  huỳnh  quang  (FISH),  lai  tại  chỗ  gắn  bạc  hai  màu  (D‐ISH), 
HER2. 
*Bộ Môn Giải Phẫu Bệnh – Đại Học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: TS Đoàn Thị Phương Thảo ĐT: 0938008418 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 

Email:  

75


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

ABSTRACT 
EVALUATION OF HER2 STATUS IN BREAST CANCER BY FLUORESCENCE IN SITU 
HYBRIDIZATION, DUAL IN SITU HYBRIDIZATION AND IMMUNOHISTOCHEMICTRY 
Doan Thi Phuong Thao, Hua Thi Ngoc Ha, Nguyen Sao Trung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 76 ‐ 82 
Introduction: The application of FISH and D‐ISH methods to determine HER2 status in breast cancer in 
order to provide the most accurate results for patients receiving treatment most appropriate. 

Methods:  FISH:  Human  epidermal  growth  factor  receptor  2  (HER2)  fluorescence  in  situ  hybridization 
(FISH) is a quantitative assay for selecting breast cancer patients for target therapy. D‐ISH: Our objective was to 
apply  an  automated  dual  in  situ  hybridization  (D‐ISH)  application  for  HER2  gene  and  chromosome  17 
centromere (CEN 17) in invasive breast carcinomas. (1) HER2 copies via silver in situ hybridisation (SISH) and 
(2) Chromosome 17 (CEN17) copies via chromogenic Red in situ hybridisation (Red ISH) on a single slide. The 
recognition  of  amplified  HER2  copies  which  may  require  microscopic  examination  using  objectives  as  high  as 
40X to 60X. 
Result: 67 invasive breast cancer samples performed simultaneously IHC and FISH or D‐ISH. Including 47 
samples were carried out simultaneously D‐ISH, FISH and IHC. 20 samples performed simultaneously D‐ISH 
and  IHC.  The  concordance  between  results  of  the  two  methods  ISH  with  results  IHC  almost  absolute  among 
HER2(‐)  and  HER2(3  +).  However,  in  HER2(2  +),  the  amplification  rate  of  HER2  gene  below  20%.  The 
correlation between D‐ISH and FISH assays are 100%. 
Conclusions:  In this study, the  concordance between IHC and D‐ISH, FISH assays is intermediate. The 
concordance between FISH and D‐ISH was 100% for amplified and nonamplified cases. D‐ISH has become an 
accepted method for HER2 testing, in this study, have shown that D‐ISH is an effective test for the determination 
of HER2 status, with generally excellent concordance with FISH analysis. In addition, D‐ISH assays are easy to 
use because they require only a standard bright‐field microscope and stained samples do not decay over time, that 
we can be stored at room temperature. D‐ISH is, therefore, a viable alternative to FISH in laboratories in which 
FISH testing is not, or cannot be, established. FISH or D‐ISH should be done for all patients in need of treatment 
with Trastuzumab. 
Keywords: IHC, FISH, D‐ISH, gene HER2 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khuếch  đại  gen  HER2  là  nguyên  nhân  của 
25% đến 30% ung thư vú(9,12), biểu hiện quá mức 
của  quá  mức  HER2  và/hoặc  khuếch  đại  gen  là 
yếu  tố  tiên  lượng  xấu,  thường  kèm  với  thụ  thể 
nội tiết âm tính, tỉ lệ phân bào cao, nhân dị dạng, 
đột biến gen p53 cho cả các trường hợp ung thư 
vú di căn hoặc chưa. Tình trạng HER2 giúp cho 

các nhà lâm sàng tiên đoán đáp ứng hóa trị liệu, 
có hoặc không đáp ứng nội tiết và là yếu tố chỉ 
định  cho  điều  trị  kháng  thể  đơn  dòng 
trastuzumab(1,7).  Vì  tình  trạng  HER2  giữ  vai  trò 
rất quan trọng trong việc đưa ra quyết định điều 
trị, những bệnh nhân có kết quả dương tính giả 

76

không những không được hưởng lợi từ các liệu 
pháp điều trị mà còn có nguy cơ bị gây độc cho 
cơ tim khi điều trị kháng thể đơn dòng(10) ngược 
lại, những bệnh nhân âm tính giả sẽ không nhận 
được điều trị thỏa đáng. Điều này, đã khiến các 
nhà nghiên cứu tập trung chú ý vào độ nhạy và 
độ đặc hiệu của các xét nghiệm khác nhau dùng 
để  xác  định  tình  trạng  HER2.  Các  xét  nghiệm 
đánh  giá  HER2  phải  là  định  lượng  hoặc  bán 
định  lượng,  có  khả  năng  lặp  lại  và  phải  là  xét 
nghiệm  phân  biệt  rõ  ràng  giữa  các  tế  bào  ung 
thư vú xâm lấn có hoặc không khuếch đại/biểu 
hiện quá mức HER2(5,8). 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học


Để xác định tình trạng HER2, phương pháp 
lai  tại  chỗ  huỳnh  quang  được  xem  như  là  tiêu 
chuẩn vàng, tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi 
phải có kính hiển vi huỳnh quang và phòng xét 
nghiệm  chuyên  biệt,  hơn  nữa  là  các  tiêu  bản 
huỳnh quang không thể lưu trữ được lâu dài để 
xem xét lại vì tín hiệu huỳnh quang sẽ mất dần. 

Administration) chấp thuận để đánh giá thụ thể 
HER2. 

Hiện  nay,  phương  pháp  lai  tại  chỗ  gắn  bạc 
dựa trên nguyên tắc phản ứng men có thể thay 
thế  được  kỹ  thuật  FISH  để  đánh  giá  cả  gen 
HER2  và  centromere  của  nhiễm  sắc  thể  17  trên 
cùng  một  tiêu  bản.  Với  phương  pháp  này,  tiêu 
bản được khảo sát dưới kính hiển vi quang học 
và  đặc  biệt  là  lưu  trữ  tiêu  bản  được  lâu  dài,  có 
thể  chẩn  đoán,  hội  chẩn,  xem  xét  lại  khi  cần 
thiết. Chính vì thế, sau một thời gian thực hiện 
kỹ  thuật  FISH  để  khảo  sát  sự  khuếch  đại  gen 
HER2  hiện  nay  bộ  môn  chúng  tôi  thực  hiện 
thêm kỹ thuật D‐ISH để khảo sát sự khuếch đại 
HER2  và  công  trình  nghiên  cứu  này  là  kết  quả 
bước đầu. 

Người  khảo  sát  HMMD  độc  lập  với  người 
khảo sát FISH, D‐ISH. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

Đối tượng 
Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú xâm 
lấn tại Bộ môn Giải phẫu bệnh Đại Học Y Dược 
TP. Hồ Chí Minh. 

Tiêu chuẩn chọn 
Chọn  những  trường  hợp  đã  thực  hiện 
phương pháp FISH, HMMD trước đó, trong đó, 
15  mẫu  HER2(‐),  17  mẫu  HER2(2+),  15  mẫu 
HER2(3+). 
Chọn  ngẫu  nhiên  20  các  trường  hợp  bệnh 
nhân  bị  ung  thư  vú  được  chẩn  đoán  vào  năm 
2013,  chưa  có  kết  FISH  nhưng  có  kết  quả 
HMMD. 

Phương pháp 
Hóa  Mô  Miễn  Dịch:  thực  hiện  trên  máy  tự 
động  Ventana,  sử  dụng  PATHWAY™  HER2 
(clone  CB11)  là  một  kháng  thể  đơn  dòng  phát 
hiện  kháng  nguyên  c‐2erbB  trong  các  mẫu  ung 
thư.  Đã  được  FDA  (Food  and  Drug 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 

Bộ  môn  Giải  Phẫu  Bệnh  đã  tham  gia  kiểm 
định  chất  lượng  xét  nghiệm  HMMD  HER2  với 
tổ  chức  United  Kingdom  National  External 
Quality  Assessment  Service  (UK  NEQUAS)  và 
đã đạt kết quả tốt. 


Đánh giá theo thang điểm của nhà sản xuất: 
0:  màng tế bào u xâm lấn hoàn toàn không 
bắt màu. 
1(+): 
rác, nhạt. 

màng tế bào u xâm lấn bắt màu rải 

2(+): 
màng  tế  bào  u  xâm  lấn  bắt  màu 
hoàn toàn, mỏng, nhạt ≥ 30%. 
3(+): 
màng  tế  bào  u  xâm  lấn  màu  hoàn 
toàn, dày, đậm ≥ 30%. 
Lai tại chỗ  huỳnh quang (FISH)(13): dùng bộ 
kít  PathVysion  HER‐2  DNA  Probe.  Đã  được 
FDA  (Food  and  Drug  Administration)  chấp 
thuận để đánh giá gen HER2. 
FISH được thực hiện theo quy trình của nhà 
sản xuất với thay đổi nhỏ. Bộ kit bao gồm đoạn 
dò PathVysion DNA Spectrum Orange‐đặc hiệu 
cho gen HER2 và đoạn dò Spectrum Green đặc 
hiệu  cho  các  trình  tự  DNA  tại  tâm  động  của 
nhiễm sắc thể 17 (CEP17). 
Bộ  môn  Giải  Phẫu  Bệnh  đã  tham  gia  kiểm 
định  chất  lượng  xét  nghiệm  FISH  HER2  với  tổ 
chức United Kingdom National External Quality 
Assessment  Service  (UK  NEQUAS)  và  đã  đạt 
kết quả chấp nhận được. 
Cách  đánh  giá  tiêu  bản  FISH:  theo  hướng 

dẫn  của  ASCO/CAP.  Tín  hiệu  SpectrumOrange 
và  SpectrumGreen  được  đếm  trong  20  nhân  tế 
bào ung thư xâm lấn không chồng chất, trường 
hợp  tỉ  lệ  chưa  phân  định  được  khuếch  đại  hay 
không  hoặc  giáp  biên,  chúng  tôi  đếm  thêm  40 
nhân tế bào ung thư. Tổng số tín hiệu màu cam 
(HER2)  và  tín  hiệu  màu  xanh  lá  cây  (CEP17) 
được ghi nhận và tính tỷ lệ HER2/CEP17. 

77


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Tỉ lệ HER2/CEP17 < 2,0: Không khuếch đại. 
Tỉ lệ HER2/CEP17 ≥ 2,0: Khuếch đại. 

2.  Chỉ  khảo  sát  tín  hiệu  HER2,  CEN17  trên 
vùng tế bào ung thư xâm lấn. 

Nếu 1,8 ≤ Tỉ lệ HER2/CEP17≤ 2,2, đếm thêm 
40 tế bào. 

3.  Nhuộm  nền  phải  được  phân  biệt  rõ  với 
các tín hiệu. 

Lai tại chỗ gắn bạc (D‐ISH)(2): sử dụng bộ kít 
INFORM HER2 Dual ISH DNA Probe. Đã được 

FDA  (Food  and  Drug  Administration)  chấp 
thuận để đánh giá gen HER2. 

Xác  định  vùng  tế  bào  ung  thư  xâm  lấn  và 
đếm số  tín hiệu HER2, CEN17 của  20  tế  bào  u, 
lấy tỉ lệ trung bình cộng của HER2/CEN17 sẽ xác 
định được số bản sao của gen HER2. 

Nguyên tắc 

Tín hiệu HER2 có màu đen nằm trong nhân, 
có  thể  là  từng  tín  hiệu  riêng  lẻ  hoặc  từng  cụm. 
Để  xác  định  mỗi  cụm  là  bao  nhiêu  tín  hiệu 
thường  là  do  người  khảo  sát  ước  lượng  khi  so 
sánh kích thước các cụm với các tín hiệu riêng lẻ. 

Trong bộ kít INFORM HER2 Dual ISH DNA 
Probe, bao gồm các đoạn dò gen HER2 và đoạn 
dò centromere của nhiễm sắc thể 17 (CEN17). 
Đoạn  dò  gen  HER2  sẽ  được  gắn  với  chất 
đánh  dấu  là  bạc,  sẽ  hiển  thị  là  những  tín  hiệu 
màu đen trong nhân tế bào. 
Đoạn dò centromere của nhiễm sắc thể 17 sẽ 
được gắn với chất đánh dấu là chất màu, sẽ hiển 
thị là những tín hiệu màu đỏ trong nhân tế bào. 
Trên  tiêu  bản  luôn  luôn  có  nội  chứng  đó  là 
các tế bào sợi, tế bào nội mô, lymphô bào, các tế 
bào  này  sẽ  có  hai  tín  hiệu  màu  đỏ  của 
centromere của nhiễm sắc thể 17 và hai tín hiệu 
màu nâu của gen HER2 trong nhân. 


Tỉ lệ HER2/CEN17 < 2,0: Không khuếch đại 
gen HER2. 
Tỉ  lệ  HER2/CEN17  ≥  2,0:  Khuếch  đại  gen 
HER2. 
Nếu 1,8 ≤ Tỉ lệ HER2/CEP17≤ 2,2, đếm thêm 
20 tế bào. 

KẾT QUẢ 
Chúng tôi khảo sát 67 mẫu ung thư vú được 
làm  đồng  thời  HMMD  và  FISH  hoặc  D‐ISH 
được kết quả như sau: 

Kỹ thuật 

Kết quả hóa mô miễn dịch và FISH 

Mẫu  mô  phải  được  cố  định  đúng  (được 
ngâm vào formol 10%, pH 7 trong vòng 60 phút 
sau khi mẫu mô rời khỏi bệnh nhân và thời gian 
tối ưu là từ 6‐48g). 

Trong  nhóm  này  chúng  tôi  chọn  những 
trường  hợp  vừa  có  kết  quả  HMMD  vừa  có  kết 
quả FISH, bao gồm 47 trường hợp. 

Mẫu  mô  sẽ  được  xử  lý  thường  quy,  cắt 
mỏng 4μ. 

Bảng 1: Kết quả hóa mô miễn dịch và FISH. 

HMMD
FISH

Không
Khuếch đại gen
khuếch đại
HER2
gen HER2

TC

Tiêu  bản  sẽ  được  lai,  nhuộm  tự  động  bằng 
máy BenchMark® XT. 

Âm tính

15

0

15

Cách  đánh  giá:  Theo  hướng  dẫn  của 
ASCO/CAP 

2+

14

3


17

3+

0

15

15

Tổng cộng

29

18

47

Tiêu  bản  được  khảo  sát  trên  kính  hiển  vi 
quang học, ở các vật kính 20, 40, 60. 
Các  tiêu  chuẩn  bắt  buộc  khi  khảo  sát  một 
tiêu bản D‐ISH. 
1.  Các  tín  hiệu  của  gen  HER2,  CEN17  phải 
hiện  diện  trên  tế  bào  nội  chứng  (tế  bào  sợi,  tế 
bào nội mô, lymphô bào). 

78

Trong  công  trình  nghiên  cứu  trước  đó  với 

hơn  300  mẫu  ung  thư  vú  có  thực  hiện  HMMD 
và FISH, kết quả đã  được  công  bố.  Một  số  tiêu 
bản  làm  FISH  chúng  tôi  đã  gửi  đánh  giá  chất 
lượng tại UK NEQUAS và kết quả là Chấp nhận 
được. 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Chúng  tôi  chọn  ngẫu  nhiên  47  trường  hợp 
có HMMD 1+, 2+, 3+ và kết quả được trình bày 
trên Bảng 1. 

Nghiên cứu Y học

Lý do các tiêu bản không đánh giá được 
Nhuộm  nền  không  phân  biệt  được  với  các 
tín hiệu. 

Kết quả FISH và D‐ISH 

Tín hiệu không rõ, không có tín hiệu. 

Bảng 2: Kết quả FISH và D‐ISH. 

Có  hoặc  tín  hiệu  HER2  hoặc  tín  hiệu  CEN 

FISH
D-ISH


Không
Không
Khuếch
đánh giá khuếch đại đại gen
được
gen HER2
HER2

TC

Không khuếch
đại gen HER2

13

16

0

29

Khuếch đại gen
HER2 (2+)

6

0

12


18

Tổng cộng

19

16

12

47

Trong 47 mẫu thực hiện đồng thời FISH và 
D‐ISH,  đối  với  D‐ISH  chúng  tôi  chia  nhỏ  ra 
nhiều  nhóm,  mỗi  nhóm  được  nhuộm  với  một 
quy trình khác nhau, để chọn ra quy trình tối ưu 
nhất.  Có  19  mẫu  là  không  đánh  giá  được  do 
nhuộm nền, không tín hiệu. Có 28 mẫu là đánh 
giá được và tỉ lệ phù hợp giữa hai phương pháp 
là 100%. 

Kết quả hóa mô miễn dịch và D‐ISH 
Sau khi tối ưu hóa được quy trình, chúng tôi 
nhuộm tiếp 20 mẫu ung thư vú được chẩn đoán 
vào năm 2013. 
Sau  giai  đoạn  thực  hiện  trên  mẫu  bệnh 
phẩm  vừa  có  HMMD  vừa  có  FISH,  chúng  tôi 
thực hiện D‐ISH ở những mẫu bệnh phẩm ung 
thư  vú  được  chẩn  đoán  năm  2013.  Bảng  3,  bao 

gồm cả hai giai đoạn. 
Bảng 3. Kết quả hóa mô miễn dịch và D‐ISH. 
HMMD
D-ISH

Không
Không Khuếch đại
đánh giá
TC
khuếch đại gen HER2
được

Âm tính

8

17

0

25

2+

6

12

3


21

3+

7

0

14

21

Tổng cộng

21

29

17

67

Trong  21  mẫu  không  đánh  giá  được  bao 
gồm  cả  19  mẫu  trong  giai  đoạn  1.  Mặc  dù,  đã 
chuẩn  hóa  kỹ  thuật  trong  giai  đoạn  1,  nhưng 
trong giai đoạn 2 khi thực hiện chúng tôi vẫn có 
thêm 2 mẫu không đánh giá được. 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 


17. 

BÀN LUẬN 
Về kết quả HMMD 
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong 
và  ngoài  nước  ứng  dụng  nhiệu  loại  kháng  thể 
khác nhau, thực hiện theo nhiều cách khác nhau 
công bố về tỉ lệ biểu hiện quá mức của thụ thể 
HER2 trong ung thư vú. Tuy nhiên cho tới hiện 
nay có hai  xét nghiệm đã được FDA chấp thuận 
dùng  để  xác  định  biểu  hiện  quá  mức  của  thụ 
thể  HER2  trên  bệnh  nhân  ung  thư  vú: 
HercepTest  (DakoCytomation,  Glostrup,  Đan 
Mạch), Pathway (Ventana Medical Systems Inc, 
Tucson, Ariz). 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng bộ 
Pathway (Ventana Medical Systems Inc, Tucson, 
Ariz) dùng trên máy nhuộm tự động. Qui trình 
nhuộm máy đã giảm thiểu được nhuộm nền và 
các tình trạng nhuộm không đặc hiệu. 
Trong số 67 trường hợp, các các tiêu bản đều 
có đủ biểu mô lành tính để đánh giá nhuộm nền 
theo một số nghiên cứu của các tác giả Jacobs và 
cộng  sự(6)  và  Lehr  và  cộng  sự(3,6).  Biểu  mô  bình 
thường có thể bắt màu ở màng đáy và màng bên 
nhưng các bề mặt tế bào biểu mô và các tế bào 
cơ biểu mô xung quanh ống luôn luôn âm tính. 
Trong hai năm trở lại đây, Bộ môn Giải Phẫu 
Bệnh  đã  tham  gia  kiểm  định  chất  lượng  xét 
nghiệm Hóa Mô Miễn Dịch HER2 tại UKNEQAS 

ICC  &  ISH  (UK  National  External  Quality 
Assessment Service) và đã đạt kết quả tốt. 

Về kết quả FISH 
Ứng  dụng  kỹ  thuật  FISH  để  đánh  giá  sự 
khuếch  đại  gen  HER2  đã  được  Slamon  nghiên 
cứu  thành  công  và  năm  1997.  Đặc  biệt,  đến 
tháng  9/1998  một  loại  kháng  thể  đơn  dòng 
kháng  HER2  (Trastuzumab)  được  FDA  chấp 

79


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

thuận cho điều trị ung thư vú giai đoạn trễ. Sau 
đó rất nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng kỹ 
thuật  lai  tại  chỗ  trên  mô  vùi  nến.  Hiện  nay, 
phương  pháp  được  xem  là  “tiêu  chuẩn  vàng” 
dùng để đánh giá tình trạng HER2 là FISH(13,6). 
Chúng tôi dùng bộ kit Path Vysion, đã được 
FDA chấp thuận. 
Phần lớn các trường hợp chúng tôi đều thực 
hiện  thành  công,  tuy  nhiên  có  một  số  trường 
hợp chúng tôi phải lặp lại nhiều lần mới đạt kết 
quả.  Quan  trọng  nhất  là  thời  gian  khử  protein 
màng nhân phải phù hợp, nếu quá ngắn protein 
màng  nhân  chưa  tiêu  hết  đưa  đến  đoạn  dò 

không  bắt  cặp  được  nhưng  nếu  quá  dài  màng 
nhân tan hết sẽ mất hết tín hiệu di truyền(13). 
Thuận lợi khi thực hiện FISH: Phần lớn quy 
trình là chúng tôi làm bằng tay, đặc biệt là thời 
gian khử màng nhân, chúng tôi có thể tăng hoặc 
giảm tùy theo mẫu mô cho nên ít bị ảnh hưởng 
hàng loạt ca. Tín hiệu rõ, sắc nét, đếm tín hiệu dễ 
hơn. 
Khó khăn: Phải khảo sát tiêu bản dưới kính 
hiển vi huỳnh quang, chất huỳnh quang sẽ giảm 
dần cho nên chúng tôi không thể xem xét lại khi 
cần thiết. 

Về kết quả D‐ISH 
Đây  là  phương  pháp  tương  đối  mới,  đã 
được  FDA  chấp  thuận  vào  tháng  6/2011,  dùng 

để  khảo  sát  gen  HER2  cho  bệnh  nhân  ung  thư 
vú. 

Thuận lợi 
Ưu điểm lớn nhất của  phương  pháp  D‐ISH 
là có thể đánh giá số lượng bản sao gen HER2, 
CEN17 và các đặc điểm mô bệnh học cùng một 
lúc  vì  vậy  việc  xác  định  chính  xác  vùng  tế  bào 
ung thư xâm lấn dễ dàng hơn. Ngoài ra, các tín 
hiệu  không  bị  phân  hủy  theo  thời  gian,  do  đó 
tiêu bản có thể được lưu trữ trong một thời gian 
dài ở nhiệt độ phòng, có thể xem xét lại khi cần 
thiết  và  có  thể  nhiều  người  khảo  sát  cùng  lúc 

dưới kính hiển vi quang học nhiều đầu. 
Khó khăn 
Vì quá trình nhuộm thực hiện hoàn toàn tự 
động bằng máy cho nên đòi hỏi những yêu cầu 
nghiêm  ngặt  về  tính  đồng  bộ  của  mẫu  (thời 
điểm  cố  định,  thời  gian  cố  định,  dung  dịch  cố 
định). Đây là giai đoạn chìa khóa, nếu mẫu được 
cố định trong dung dịch Formol 10%, pH=7, thời 
điểm  cố  định  không  quá  60  phút  sau  khi  mẫu 
mô  rời  khỏi  người  bệnh  nhân  và  thời  gian  cố 
định  từ  6‐48  giờ  thì  kết  quả  lai  rất  tốt.  Những 
mẫu không được cố định tốt thì khó có được kết 
quả  tốt  mặc  dù  thay  đổi  nhiều  quy  trình  khác 
nhau nhưng vẫn chưa tìm thấy được quy trình 
thích hợp. 

Bảng 4: So sánh những khó khăn và thuận lợi giữa các phương pháp đánh giá HER2 trong ung thư vú (4). 
Phương pháp

HMMD

FISH

D-ISH

80

Ưu điểm
-Thực hiện rộng rãi trong các phòng Giải phẫu bệnh.
-Dễ thực hiện.

-Giá rẻ.
-Hình thái tế bào có thể xác định trên tiêu bản.
-Tiêu bản lưu trữ lâu dài (nhiều năm).
-Ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cố định và xử lý.
-Định lượng.
-Khách quan.
-Có thể hiệu chỉnh thời gian xử lý màng nhân cho từng
trường hợp.
-Xác định được chính xác khuếch đại gen HER2/CEP17,
đặc biệt trong HER2(2+).
-Ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cố định và xử lý.
-Định lượng.
-Khách quan.
-Xác định được chính xác khuếch đại gen HER2/CEP17,

Nhược điểm
-Dễ thay đổi với các quy trình.
-Bán định lượng.
-Yếu tố chủ quan của người đọc có thể chi
phối kết quả.
- Giá thành cao.
-Phải có trang thiết bị chuyên biệt (Kính hiển
vi huỳnh quang, phần mềm lưu ảnh huỳnh
quang).
-Tín hiệu giảm dần theo thời gian (chỉ lưu trữ
được ở -200C trong vài tuần).
-Người khảo sát tiêu bản rất mỏi mắt khi đọc.
-Giá thành cao.
-Phụ thuộc vào máy hoàn toàn.
-Khó hiệu chỉnh thời gian xử lý màng nhân

cho từng trường hợp.

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Phương pháp

Ưu điểm
đặc biệt trong HER2(2+).
-Khảo sát dưới kính hiển vi quang học.
- Hình thái tế bào có thể xác định trên tiêu bản tương tự
như tiêu bản HMMD
-Tín hiệu bền có thể lưu trữ lâu dài (nhiều năm) nên có thể
xem xét lại khi cần thiết.

Khi  xem  xét  lại  các  mẫu  không  đánh  giá 
được  thì  chúng  tôi  có  thể  liệt  kê  các  lý  do  như 
sau: 

3.

Phần  lớn  các  tiêu  bản  bị  nhuộm  nền  là  do 
mẫu cố định không đúng. 

4.

Ngoài ra các lý do do lỗi kỹ thuật như: 
Thời gian khử màng nhân không thích hợp. 
Tiêu  bản  sau  khi  cắt  mỏng,  để  lưu  trữ  kéo 

dài. 

KẾT LUẬN 

5.
6.

7.
8.

Qua nghiên cứu  67  trường  hợp  ung  thư  vú 
được thực hiện cả hai phương pháp HMMD và 
FISH hoặc D‐ISH chúng tôi có kết luận như sau: 
Thách thức lớn nhất cho cả 3 phương pháp 
đó là làm sao kiểm soát được dung dịch cố định 
cũng như thời gian cố định mẫu. Phương pháp 
FISH, tùy từng trường hợp, chúng tôi tối ưu hóa 
quy trình để có kết quả tốt nhất. 
Hiện  tại,  phương  pháp  lai  vẫn  được  cho 
rằng  ít  bị  ảnh  hưởng  bởi  dung  dịch  cũng  như 
thời  gian  cố  định.  Phương  pháp  D‐ISH,  với 
những ưu điểm là khảo sát được dưới kính hiển 
vi quang học, tín hiệu có thể lưu trữ nhiều năm, 
đây  là  phương  pháp  có  thể  thay  thế  được 
phương  pháp  FISH.  Tốt  nhất  cho  bệnh  nhân, 
chúng tôi vẫn khuyến cáo nên làm FISH hoặc D‐
ISH  cho  tất  cả  bệnh  nhân  muốn  điều  trị  với 
Trastuzumab. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1.

2.

Fornier  M,  Esteva  FJ,  Seidman  AD  (2000).  Trastuzumab  in 
combination  with  chemotherapy  for  the  treatment  of 
metastatic breast cancer. Semin Oncol;27:38‐45. 
Grogan  TM,  Interpretation  Guide  Ventana  IN  FORM  HER2 
Dual ISHDNA Probe Cocktail Assay 
 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 

9.

10.

11.

12.

13.

14.

Nghiên cứu Y học

Nhược điểm

Lehr  H‐A,  Jacobs  TW,  Yaziji  H,  et  al  (2001).  Quantitative 

evaluation  of  HER‐2/neu  status  in  breast  cancer  by 
fluorescence 
in 
situ 
hybridization 
and 
by 
immunohistochemistry  with  image  analysis.  Am  J  Clin 
Pathol;115:814‐822. 
Llorca FP (2009),  Emerging  Technologies  for  Assessing  HER2 
Amplification. Am J Clin Pathol;132:539‐548 
Mass  R  (2000).  The  role  of  HER‐2  expression  in  predicting 
response to therapy in breast cancer. Semin Oncol;27:46‐52. 
McCormick  SR,  Lillemoe  TJ,  Beneke  J,  Schrauth  J,  Reinartz  J 
(2002).  HER2  Assessment  by  Immunohistochemical  Analysis 
and  Fluorescence  In  Situ  Hybridization  Am  J  Clin  Pathol 
;117:935‐943. 
Nicholson BP (2000). Ongoing and planned trials of hormonal 
therapy and trastuzumab. Semin Oncol;27:33‐37. 
Pauletti  G,  Dandekar  S,  Rong  H,  et  al.  (2000).  Assessment  of 
methods for tissue‐based detection of the HER‐2/neu alteration 
in human breast cancer: a direct comparison of fluorescence in 
situ  hybridization  and  immunohistochemistry.J  Clin  Oncol 
;18:3651‐3664 
Slamon  DJ,  Leyland‐Jones  B,  Shak  S,  et  al  (2001).  Use  of 
chemotherapy  plus  a  monoclonal  antibody  against  HER2  for 
metastatic  breast  cancer  that  overexpresses  HER2.  N  Engl  J 
Med.;344:783‐792. 
Sparano  JA  (2001).  Cardiac  toxicity  of  trastuzumab 
(Herceptin):  Implications  for  the  design  of  adjuvant  trials. 

Semin Oncol;28:20‐27. 
Tubbs RR, Pettay JD, Roche PC, et al (2001). Discrepancies in 
clinical  laboratory  testing  of  eligibility  for  trastuzumab 
therapy: apparent immunohistochemical false‐positives do not 
get the message. J Clin Oncol;19:2714‐2721. 
Vogel CL, Cobleigh MA, Tripathy D, et al (2002). Efficacy and 
safety of trastuzumab as a single agent in first‐line treatment of 
HER2‐overexpressing  metastatic  breast  cancer.  J  Clin 
Oncol;20:719‐726. 
Wolff  AC  (2008).  American  Society  of  Clinical 
Oncology/College  of  American  Pathologists  Guideline 
Recommendations  for  Human  Epidermal  Growth  Factor 
Receptor 2 Testing in Breast Cancer J Clin Oncol 25:118‐145. 
Yarden  Y,  Sliwkowski  MX  (2001).  Untangling  the  ErbB 
signalling network. Nat Rev Mol Cell Biol;2:127‐137. 

 

Ngày nhận bài báo 
 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 
 

13‐06‐2013 
20‐06‐2013 
15–07‐2013 

81




×