Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị co giật nửa mặt: Kết quả 60 trường hợp phẫu thuật tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.04 KB, 7 trang )

ững  khó  chịu  khác  như  chóng  mặt,  đau  vết 
mổ.  Các  triệu  chứng  này  cũng  hết  hoàn  toàn 
trước khi xuất viện. 
Bảng 4: Biến chứng sau mổ 
Biến chứng
Liệt mặt
Dò DNT
Liệt IX, X
Chóng mặt
Phù não+ dãn não
thất

Xuất viện
n
Tỷ lệ %
8
13,3
1
1,6
2
3,2
9
15,0
1
1,6

n
3
0
0
0


0

Hiện tại
Tỷ lệ %
5
0
0
0
0

BÀN LUẬN 
Chẩn đoán co giật nửa mặt dựa chủ yếu vào 
biểu  hiện  lâm  sàng,  gần  như  toàn  bộ  dân  số 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi  đều  có  triệu  chứng 
lâm sàng điển hình, nó cho thấy lâm sàng chính 
là yếu tố quyết định trong chẩn đoán co giật nửa 
mặt. Và vì đây là một rối loạn về mặt chức năng, 
không  phải  là  một  bệnh  lý  ác  tính  nên  thông 
thường bệnh nhân có thời gian bênh sử khá lâu 
(trung  bình  6  năm).  Đây  là  một  chứng  bệnh 
thường gặp hơn ở nữ giới và bên trái nhiều hơn 
bên  phải.  Bệnh  thường  ảnh  hưởng  đến  tuổi 
trung niên. 
Về hình ảnh học, MRI não, trong loại bệnh lý 
này, chủ yếu để loại trừ các thương tổn thực thể 
nếu có ở  vùng hố sau có thể gây ra triệu  chứng 
tương  tự  như  u  não,  AVM,  xơ  cứng  rải  rác….(2) 
Tuy  nhiên  với  kỹ  thuật  hiện  đại,  sự  cải  thiện  về 
dộ  phân  gải  của  hình  ảnh,  chúng  ta  có  thể  tìm 
thấy  những  hình  ảnh  gợi  ý  sự  tương  tác  mạch 

máu  thần  kinh  trước  phẫu  thuật,  trong  nghiên 
cứu của chúng tôi trên 80% trường hợp hình ảnh 
học  cộng  hưởng  từ  trước  mổ  cho  thấy  có  mối 
tương quan giữa mạch máu và thần kinh VII. 
Trong  giai  đoạn  đầu  triển  khai  phẫu  thuật, 
chúng  tôi  thường  cố  gắng  tách  tất  cả  những 
mạch  máu  nàocó  tiếp  xúc  với  dây  VII  dù  điểm 
tiếp  đó  ở  bất  kỳ  vị  trí  nào  trên  dây  thần  kinh. 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Một  vài trường  hợp  có từ 2  đến  3 mạch  máu  ở 
các vị trí khác nhau trên dây thần kinh mặt, và 
ngoài ra điều này làm chúng tôi có xu hướng tìm 
cách kiểm soát toàn bộ dây thần kinh này đoạn 
trong hộp sọ. Hệ quả là một số trường hợp sau 
mổ  bị  liệt  VII.  Sau  này  việc  tìm  và  tách  mạch 
máu ra khỏi dây VII chỉ tập trung vào vùng gốc 
đi  ra  nơi  dây  thần  kinh  vừa  ra  khỏi  thân  nàyD. 
Điều  này  đã  giúp  giảm  thời  gian  kéo  vén  tiểu 
não, giảm thao tác trên các dây thần kinh. Do đó 
chúng  tôi  đã  tránh  được  biến  chứng  liệt  mặt 
nhưng kết quả vẫn tốt. 
Trong nghiên cứu của tác giả Samii và cộng 

sự  trong  117  bệnh  nhân  với  thời  gian  theo  dõi 
trung bình 9,4 năm (giới hạn từ 1‐17,6 năm). Kết 
quả ngay khi xuất việnhết co thắt trong 69 bệnh 
nhân  (59%)  và  48  bệnh  nhân  (41%)  vẫn  còn  co 
thắt.  Trong  nghiên  cứu  của  SINDOU  trên  147 
bệnh nhân, kết quả được xem là thỏa mãn (tuyệt 
vời  và  tốt)  trong  75%  khi  xuất  viện,  trong  80% 
cho lần tái khám đầu tiên (thường trong 3 tháng 
đầu) và 87 % cho lần theo dõi sau cùng giới hạn 
từ  1‐20  năm  (trung  bình  7  năm),  từ  đó  tác  giả 
Sindou đưa ra nhận địnhkết quả thỏa mãn ngay 
tức thì trong 2/3 trường hợp và muộn trong 1/3 
trường hợp còn lại(6,7).  
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  lúc  xuất 
viện  có  42  bệnh  nhân  (70%)  hết  hoàn  toàn  co 
giật, 11 trường hợp còn lại chỉ giảm triệu chứng. 
Sau thời gian theo dõi thì chúng tôi nhận thấy có 
thêm  16  trường  hợp  nữa  hết  hoàn  toàn  co  giật. 
Vì vậy việc phẫu thuật co giật nửa mặt ngay thời 
điểm  xuất  viện  gần  một  phần  tư  trường 
hợpbệnh  nhân  vẫn  còn  co  giật,  thường  những 
bệnh  nhân  này  ngay  sau  khi  mổ  bệnh  nhân  đã 
hết giật hoàn toàn, tuy nhiên sau vài ngày bệnh 
nhân xuất hiện lại cơn giật ngày càng tăng dần, 
mặc  dù  có  giảm  hơn  so  với  trước  mổ  nhưng 
bệnh nhân cũng rất lo lắng, tuy nhiên nếu trong 
phẫu thuật chúng ta đã quan sát kỹ và tách được 
mạch máu chèn ép ra khỏi thần kinh thì sau mổ 
chúng ta cứ việc trấn an và giải thích bệnh nhân 
có  một  tỉ  lệ  giảm  chậm  như  vậy  và  điều  này 

cũng đã được giải thích trước mổ. Và hầu hết các 

Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 

bệnh nhân này sau một thời gian theo dõi triệu 
chứng giảm dần và hết hẳn. 
Theo y văn tỉ lệ tái phát vào khoảng 1% trên 
những bệnh nhân đã hết co giật 2 năm sau phẫu 
thuật, ngoài ra theo tác giả Sindou trong một số 
trường  hợp  bệnh  hết  từ  từ,  phải  mất  một  vài 
tháng  đến  vài  năm,  vì  vậy  ông  không  đề  nghị 
phẫu thuật lại sớm trong những bệnh nhân thất 
bại cho đến ít nhất là sau 1 năm theo dõi, sự hết 
bệnh muộn có thể được giải thích là do sự phục 
hồi  chậm  trong  nhân  dây  VII  gây  bệnh.Tất  cả 
bệnh  nhân  sau  mổ  chúng  tôi  đều  lầy  số  điện 
thoại cũng như cho bệnh nhân số điện thoại của 
chúng tôi để theo dõi diễn tiến bệnh, bệnh nhân 
có thời gian theo dõi sau mổ dài nhất cũng gần 4 
năm. Trong quá trình theo dõi có 56 bệnh nhân 
hết  hoàn  toàn  co  giật  nửa  mặt  (93%).  Trong 
nhóm này bệnh nhân thỉnh thoảng củng có cảm 
giác  hơi  giật  nhẹ  mắt  khi  ăn  hoặc  nói  chuyện 
nhưng  triệu  chứng  này  thoáng  qua  và  tự  hết 
trong  vài  ngày.  Chúng  tôicó  hai  trường  hợp  tái 
phát (co giật nửa mặt ở mức độ 2) sau khi đã hết 
3 năm, trong nhóm này có một bệnh nhân trong 
lúc mổ ngoài thân của động mạch AICA chèn ép 
chúng tôi còn thấy một tĩnh mạch đi ngang trên 
dây thần kinh VII ngay gốc đi ra và đi vào giữa 

phức hợp VII và VIII, chúng tôi tách động mạch 
thì rất dễ dàng tuy nhiên rất khó khăn khi tách 
tĩnh mạch do tĩnh mạch cứ xẹp đi khi bóc tách vì 
vậy chúng tôi quyết định để lại nhánh tĩnh mạch 
này, sau mổ bệnh nhân cũng hết co giật nhưng 
sau  3  năm  bệnh  nhân  xuất  hiện  những  cơn  co 
giật nhẹ lại nhiều khi nói chuyện hoặc mất ngủ. 
Trường  hợp  thứ  hai  thì  bệnh  nhân  chỉ  có  một 
nhánh động mạch AICA chèn ép, quá trình bóc 
tách  thuận  lợi,  sau  mổ  bệnh  nhân  cũng  hết  co 
giật hoàn toàn tuy nhiên cũng tái phát sau gần 3 
năm, chúng tôi quyết định phẫu thuật lạivà bệnh 
nhân cũng giảm co giật sau phẫu thuật. 
Với  kết  quả  này  cho  thấy  kết  quả  hết  bệnh 
sau thời gian theo dõi của nghiên cứu của chúng 
tôi cao hơn so với các tác giả khác. Tuy nhiên do 
thời  gian  theo  dõi  của  chúng  tôi  là  khá  ngắn 
trung bình 15 tháng so vời thời gian các tác giả 

333


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
khác như Samii theo dõi trung bình 9,4 năm (giới 
hạn  từ  1‐17,6  năm),  tác  giả  Sindou  có  thời  gian 
theo  dõi  sau  cùng  giới  hạn  từ  1‐20  năm  (trung 

bình  7  năm)  vì  vậy  kết  quả  này  chúng  tôi  cần 
phải tiếp tục theo dõi.  

KẾT LUẬN 
Ngày nay với sự tiến bộ của gây mê, sự hoàn 
thiện dần về kỹ thuật cùng với sự hỗ trợ đắc lực 
của các trang thiết bị tiên tiến, phẫu thuật giải ép 
vi  mạch  ngày  càng  an  toàn  toàn  và  hiệu  quả. 
Điều  đó  càng  khẳng  định  đây  là  phương  pháp 
điều trị ưu tiên lựa chọn cho các trường hợp co 
giật nửa mặt. 

3.

Kanno  T,  Karagiozov  K  (2012)  “Microvacular  decompression”, 
analysis  un‐  sussecful  cases:  In  Kazadi  K.N.  Kalangu  and 
Yoko  Kato  and  Gilbert  Dechambenoit”,  Essential  practice  of 
Neurosurgery, pp. 1121‐1138. 

4.

McLaughlin  MR,  Jannetta  PJ  (1998),  “Microvascular 
decompression  of  cranial  nerves:  lessons  learned  after  4400 
operations”, Neurosurgery focus, pp. 1‐16. 

5.

Samii  M  (2002),  “Microvascular  decompression  to  treat 
hemifacial spasm: long‐term results for a consecutive series of 
143 patients”, Neurosurgery 50, pp. 712‐719. 


6.

Sindou  M  (2009),  “Microvascular  decompression  for  hemifacial 
spasm”,  Practical  handbook  of  neurosurgery  from  leading 
neurosurgeon,  Volume  3:  Springer  Wien  NewYork,pp.  317‐
332. 

7.

Sindou  M  (2008),  “Microvascular  decompression  for 
trigeminal  neuralgia:  the  importance  of  a  noncompressive 
technique‐  Kaplan‐Meier  analysis  in  a  consecutive  series  of 
330  patients”,Neurosurgery  63  (ONS  Suppl  2),  pp.  ONS  341‐
ONS 351. 

8.

Tan EK (2005), “Validation of a short disease specific quality 
of  life  scale  for  hemifacial  spasm:  correlation  with  SF‐36”,  J 
Neurol Neurosurg Psychiatry 76, pp. 1707‐1710.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Barker  FG  (1995),  “Microvascular  decompression  for 
hemifacial spasm”, J Neurosurg 82, pp. 201‐210. 

2.


El  Refaee  E  (2013),  “Value  of  3‐Dimensional  high‐solution 
Magnetic resonance imaging in detecting the offending vessel 
in  hemifacial  apasm:  Comparison  with  intraoperative  high 
definition endoscopic visualization”, Neurosurgery 73, pp. 58‐
67. 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

20/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

2/11/2014 

Ngày bài báo được đăng: 

5/12/2014 

 

 

334

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 




×