Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khảo sát mối liên quan giữa sự tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát huyết áp ở bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.27 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA SỰ TUÂN THỦ DÙNG THUỐC  
VÀ KIỂM SOÁT HUYẾT ÁP Ở BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP  
ĐANG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ 
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh*, Nguyễn Thị Mỹ Duyên*, Lý Huy Khanh*, Nguyễn Thị Tươi*, Hồ Thị Thanh Vân*, 
Trương Thị Thu Hà*, Phạm Thị Ngọc Lụa*, Huỳnh Thị Lệ Thu*  

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bệnh tim mạch chiếm 1/3 nguyên nhân tử vong trên thế giới và đang góp phần gia tăng gánh 
nặng bệnh tật trên thế giới. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ cao của bệnh tim mạch và ngày càng trở thành vấn 
đề sức khoẻ toàn cầu do tỷ lệ ngày càng gia tăng của nó. Các yếu tố nguy cơ của lối sống như lười vận động, ăn 
không hợp lí với chế độ ăn quá nhiều chất béo, ăn mặn, hút thuốc lá... là những nguyên nhân dẫn đến sự gia 
tăng gánh nặng này. Tăng huyết áp ảnh hưởng đến khoảng 1,5 tỷ người trên toàn thế giới. Việc tuân thủ điều 
trị phù hợp của bệnh nhân tăng huyết áp sẽ giúp huyết áp được kiểm soát và giảm tối đa nguy cơ tim mạch. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ một số yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và mối liên hệ giữa sự tuân thủ dùng 
thuốc và kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú. 
Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện với 350 bệnh nhân tăng huyết áp. 
Phỏng vấn với bộ câu hỏi soạn sẵn gồm 18 câu. Huyết áp được ghi nhận sau 3 lần tái khám. Khảo sát mối liên hệ 
giữa sự tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát huyết áp bằng phép kiểm chi bình phương. 
Kết  quả: Tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp là 69,4%. Tỉ lệ bệnh nhân có chế độ ăn 
mặn cần điều điều chỉnh là 51,7%; Tỉ lệ có vòng bụng đạt yêu cầu là 36,9%; 22,6% bệnh nhân cần hạn chế rượu 
bia; 17,4% bệnh nhân cần bỏ thuốc lá; Tăng cường hoạt động thể lực chiếm tỉ lệ 60%. Tỉ lệ kiểm soát huyết áp 
của bệnh nhân tăng huyết áp là 46%. Có mối liên quan giữa kiểm soát huyết áp với các yếu tố: tuổi và có bệnh 
Đái tháo đường, Suy thận kèm theo (p<0,05). Có mối liên quan giữa sự tuân thủ dùng thuốc với các yếu tố: tuổi, 
thời gian điều trị tăng huyết áp và có bệnh đái tháo đường kèm theo (p<0,05). Không tìm thấy mối liên quan giữa 
tuân thủ dùng thuốc với kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp (p>0,05).  
Kết luận: Bệnh nhân ≥ 60 tuổi, kèm bệnh đái tháo đường hay suy thận kiểm soát huyết áp thấp hơn.Bệnh 
nhân ≥ 60 tuổi, thời gian điều trị trên 5 năm và kèm bệnh đái tháo đường có tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc cao hơn. 


Từ khóa: Tuân thủ dùng thuốc, yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp, kiểm soát huyết áp. 

ABSTRACT 
ASSESSING THE RELATIONSHIP BETWEEN MEDICATION COMPLIANCE  
AND CONTROLLED BLOOD PRESSURE IN OUTPATIENTS DIAGNOSED  
WITH HYPERTENSION  
Nguyen Thi My Hanh *, Nguyen Thi My Duyen, Ly Huy Khanh, Nguyen Thi Tuoi, Ho Thi Thanh Van, 
Truong Thi Thu Ha, Pham Thi Ngoc Lua, Huynh Thi Le Thu  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 96 - 102 
Background:  One‐third  of  global  deaths  is  attributed  to  cardiovascular  disease  and  is  a  leading  and 
increasing  contributor  to  the  global  disease  burden.  Hypertension  is  already  a  highly  prevalent  risk  factor  for 

*

 Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương 
Tác giả liên lạc: Ths.ĐD Nguyễn Thị Mỹ Hạnh 

96

ĐT: 0908467805 

Email:  

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học


cardiovascular disease. It is becoming an increasingly common health problem worldwide because of increasing 
longevity  and  prevalence  of  contributing  factors.  Many  unhealthy  lifestyle  habits  can  raise  risk  factors  for 
hypertension  including:  Lack  of  physical  activity,  eating  too  much  sodium,  smoking,  etc.  Hypertension  affects 
about 1.5 billion persons worldwide. Compliance to appropriate medical therapy for hypertension can result in 
controlled blood pressure and reduction in adverse outcomes. 
Objective: To  determine  the  rate  of  risk  factors  for  hypertension  and  the  relationship  between  medication 
compliance and controlled blood pressure in outpatients diagnosed with hypertension. 
Method: A cross‐sectional, descriptive study was conducted with 350 hypertensive patients. The researcher 
used a questionnaire with total of 18 questions. Three blood pressure measures were taken after patients being 
maintained their medication. Determine the relationship between these variables by the Chi squared test. 
Results: The rate of  patients  with  medication  compliance  was  69.4%;  the  rate  of  patients  with  eating  too 
much sodium was 51.7%; the rate of not high‐risk waist circumference was 36.9%; 22.6% patients need to limit 
their alcohol consumption; 17.4% patients should stop smoking; the rate of patients with regular, moderate‐to‐
vigorous  physical  activity  was  60%.  46%  patients  with  controlled  hypertensives.  There  were  significant 
differences  between  controlled  blood  pressure  with  age  and  patients  have  diabetes  or  kidney  failure  disease 
(p<0,05). Age, treatment time and patients have diabetes was significant relationship of medication compliance 
(p<0.05).  Between  medication  compliance  and  controlled  hypertensives  showed  no  significant  relationship 
(p>0.05).  
Conclusion:  Patients  who  were  ≥  60  years  of  age  and  who  has  diabetes  or  kidney  failure  disease  showed 
worse  controlled  hypertensives.  Patients  who  were  ≥  60  years  of  age,  who  has  taken  blood  pressure‐lowering 
medication for over 5 years and who has diabetes reported high medication compliance.  
Keywords: Medication compliance, risk factors of hypertension, controlled blood pressure.  
kiểm  soát  huyết  áp  trên  thực  tế  vẫn  chưa  cao. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ngay  tại  Hoa  Kỳ,  các  con  số  thống  kê  gần  đây 
Bệnh  tim  mạch  chiếm  1/3  nguyên  nhân  tử 
cho thấy tỉ lệ kiểm soát huyết áp (< 140/90 mm 
vong  trên  thế  giới  và  đang  góp  phần  gia  tăng 
Hg)  tuy  có  tăng  nhưng  cũng  không  vượt  quá 
gánh nặng bệnh tật trên thế giới. Tăng huyết áp 

70%.  Tcứu quần thể dài hạn, quy 
mô lớn cho thấy ngay huyết áp giảm ít cũng làm 
giảm  nguy  cơ  mắc  bệnh  tim  mạch.  Vì  vậy,  bất 
chấp  mức  huyết  áp  thế  nào,  tất  cả  các  cá  nhân 
cần phải lựa chọn điều chỉnh lối sống phù hợp 
cho mình. Hơn nữa, không giống như liệu pháp 
dùng  thuốc  có  thể  gây  tác  dụng  ngoài  ý  muốn 
và  giảm  chất  lượng  sống  trong  một  số  bệnh 
nhân,  liệu  pháp  không  dùng  thuốc  không  gây 
các  ảnh  hưởng  có  hại  mà  còn  giúp  cảm  thấy 
khỏe hơn cho bệnh nhân và ít tốn kém(1,7). 
Tỉ lệ kiểm soát huyết áp là 46% cao hơn so 
với  nghiên  cứu  thực  hiện  tại  Braxin  chỉ  có 
34%(15) và của tác giả Zeller thực hiện tại Anh tỉ 
lệ  kiểm  soát  huyết  áp  của  bệnh  nhân  tăng 
huyết  áp  là  32%(22).  Tỉ  lệ  kiểm  soát  huyết  áp 
thấp  hơn  so  với  nghiên  cứu  của  tác  giả 
Krousel‐Wood  thực  hiện  tại  Mỹ  có  tỉ  lệ 
66,3%(10).  Trong  khi  đó  tại  Việt  Nam,  theo  số 
liệu  điều  tra  tại  các  tỉnh  phía  Bắc  năm  2001‐
2002,  tỉ  lệ  bệnh  nhân  có  huyết  áp  được  kiểm 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

99


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013


soát/số người được điều trị ở nhóm tuổi ≥ 65 là 
9,5%(5). Phù hợp với nghiên cứu của tác giả Lý 
Huy Khanh ở dân số chung, tỉ lệ đạt huyết áp 
mục tiêu là 40,4%(11). Theo JNC 7 của Hoa Kỳ, 
một  trong  những  nguyên  nhân  chính  khiến 
cho tỉ lệ kiểm soát được huyết áp trên thực tế 
còn  chưa  cao  là  sự  trì  trệ  lâm  sàng  (clinical 
inertia)  của  thầy  thuốc,  tức  là  thầy  thuốc 
không  chịu  thay  đổi  điều  trị  dù  biết  huyết  áp 
bệnh  nhân  chưa  được  kiểm  soát(5).  Mặc  dù  y 
giới  đã  có  nhiều  cố  gắng  để  cải  thiện  điều  trị 
tăng  huyết  áp,  tỉ  lệ  kiểm  soát  huyết  áp  trên 
thực tế vẫn chưa cao. Ngay tại Hoa Kỳ, các con 
số  thống  kê  gần  đây  cho  thấy  tỉ  lệ  kiểm  soát 
huyết áp (<140/90 mm Hg) tuy có tăng nhưng 
cũng  không  vượt  quá  70%(5).  Kiểm  soát  huyết 
áp là yếu tố rất quan trọng nhất trong điều trị 
tăng  huyết  áp.  Do  vậy  khi  huyết  áp  chưa  đạt 
mục  tiêu  và  kiểm  soát  được  thì  vẫn  là  yếu  tố 
nguy cơ cao dẫn đến các biến chứng của bệnh 
là  rất  lớn.  Ở  Việt  Nam,  do  thói  quen  và  quan 
niệm của người dân chỉ đi khám bệnh khi thấy 
trong người khó chịu, khi đã bị biến chứng của 
bệnh. Trong khi đó bệnh tăng huyết áp là bệnh 
mạn  tính,  diễn  biến  thầm  lặng,  ít  triệu  chứng 
lâm  sàng,  nên  số  ít  người  bị  tăng  huyết  áp  đi 
khám bệnh vì thấy người khó chịu, nhiều bệnh 
nhân  khi  bị  các  tai  biến  của  bệnh  mới  biết  bị 
bệnh  tăng  huyết  áp.  Tăng  huyết  áp  không 

được  điều  trị  và  kiểm  soát  tốt  sẽ  dẫn  đến  tổn 
thương nặng các cơ quan đích và gây các biến 
chứng nguy hiểm như tai biến mạch não, nhồi 
máu cơ tim, phình tách thành động mạch chủ, 
suy  tim,  suy  thận  …  thậm  chí  dẫn  đến  tử 
vong(1). 
Tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc là 69,4% cao hơn 
với  các  khảo  sát  về  sự  tuân  thủ  điều  trị  bệnh 
tăng  huyết  áp  thực  hiện  tại  thành  phố  Hồ  Chí 
Minh  năm  2005  cho  thấy  tỉ  lệ  nhỏ  hơn  50%(2). 
Phù  hợp  với  nghiên  cứu  thực  hiện  tại 
Washington (Mỹ) của tác giả Gatti(3). Cao hơn tỉ 
lệ tuân thủ dùng thuốc thực hiện tại khoa Khám 
bệnh năm 2011 chỉ có 49,5%. Theo Bùi Nguyễn 
Kiểm  thì  chỉ  có  một  nửa  số  bệnh  nhân  tăng 
huyết  áp  tuân  thủ  điều  trị.  Lý  do  thất  bại  bao 

100

gồm không phát hiện sớm bệnh tăng huyết áp, 
sự  tuân  thủ  không  hoàn  toàn  của  bệnh  nhân, 
thiếu  sự  hướng  dẫn  của  thầy  thuốc  và  thiếu 
những liệu pháp đầy đủ để kiểm soát huyết áp. 
Theo  tài  liệu  khuyến  cáo  của  Tổ  chức  Y  tế  thế 
giới  (WHO)  về  sự  tuân  thủ  điều  trị  của  bệnh 
tăng huyết áp thì tỉ lệ tuân thủ dao động từ  50 
đến  70%(21).  Theo  nghiên  cứu  dạng  phân  tích 
tổng  hợp  của  Jing  Jin  và  cộng  sự  thì  ở  những 
bệnh nhân tăng huyết áp, sự kém tuân thủ điều 
trị là lý do quan trọng nhất của việc không kiểm 

soát  được  huyết  áp  dẫn  đến  gia  tăng  nguy  cơ 
của đột quỵ, nhồi máu cơ tim và suy thận(8). 
Bảng 2 Kết quả về kiểm soát huyết áp và sự tuân thủ 
dùng thuốc 
Nội dung
Tần suất Tỉ lệ
Kiểm soát huyết áp
161
46%
Chưa kiểm soát huyết áp
189
54%
Tuân thủ
Tuân thủ dùng thuốc
243
69,4%
dùng thuốc
Chưa tuân thủ
107
30,6%
Kiểm soát
huyết áp

Mối liên quan giữa kiểm soát huyết áp với 
tuân thủ  dùng thuốc  và  đặc  điểm  cá  nhân 
của bệnh nhân tăng huyết áp  
Nhóm  bệnh  nhân  có  độ  tuổi  ≥  60  có  tỉ  lệ 
kiểm  soát  huyết  áp  thấp  hơn  các  nhóm  có  độ 
tuổi  còn  lại.  Sự  khác  biệt  này  mang  ý  nghĩa 
thống  kê  (p<0,05).  Phù  hợp  với  số  liệu  điều  tra 

tại  các  tỉnh  phía  Bắc  năm  2001‐2002,  tỉ  lệ  bệnh 
nhân có huyết áp được kiểm soát/số người được 
điều trị ở nhóm tuổi ≥ 65 rất thấp chỉ có 9,5%(5). 
Không  phù  hợp  với  nghiên  cứu  của  Stockwell 
cho rằng không không có sự liên hệ giữa yếu tố 
tuổi với kiểm soát huyết áp, ông cho rằng chỉ có 
sự  liên hệ giữa yếu  tố  giới  với  kiểm  soát  huyết 
áp.  Những  bệnh  nhân  nữ  có  tỉ  lệ  kiểm  soát 
huyết áp cao hơn bệnh nhân nam(19). Nghiên cứu 
của  Morgado  không  tìm  thấy  sự  liên  hệ  giữa 
kiểm soát huyết áp với yếu tố tuổi cũng như giới 
tính(12). Những bệnh nhân tăng huyết áp có bệnh 
kèm là đái tháo đường, suy thận tỉ lệ kiểm soát 
huyết áp thấp hơn không có bệnh kèm. Sự khác 
biệt này mang ý nghĩa thống kê (p<0,05). Không 
phù  hợp  với  nghiên  cứu  của  tác  giả  Lý  Huy 
Khanh  cho  rằng  không  có  ý  nghĩa  về  sự  liên 
quan giữa đạt huyết áp mục tiêu ở những bệnh 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
nhân có thời gian theo dõi điều trị 6 tháng kèm 
bệnh đái tháo đường(11).  
Nhóm  bệnh  nhân  có  độ  tuổi  ≥  50  có  tỉ  lệ 
tuân thủ dùng thuốc cao hơn các nhóm có độ 
tuổi  còn  lại.  Sự  khác  biệt  này  mang  ý  nghĩa 
thống kê (p<0,05). Phù hợp với nghiên cứu của 
Negin Hadi và cộng sự thì nhóm bệnh nhân có 

độ  tuổi  ≥  50  có  tỉ  lệ  tuân  thủ  dùng  thuốc  cao 
hơn  hơn  các  nhóm  có  độ  tuổi  còn  lại(5).  Theo 
nghiên  cứu  của  tác  giả  Gohar  ở  Birmingham 
và  Ross  ở  Aberdeen  thuộc  vương  quốc  Anh 
đặc  điểm  bệnh  nhân  lớn  tuổi  (>60  tuổi)  thì 
được xác định liên quan đến sự tuân thủ dùng 
thuốc điều trị tăng huyết áp(4,17). Những người 
ở lứa tuổi dưới 60 thường bỏ thuốc hơn người 
lớn  tuổi.  Lý  do  có  thể  do  người  còn  sức  khỏe 
và  ở  tuổi  lao  động  bận  bịu  với  công  việc  hơn 
những người lớn tuổi, cũng có thể do tác dụng 
phụ  của  thuốc  ảnh  hưởng  đến  công  việc  nên 
người  ta  dễ  tự  động  bỏ  thuốc(14).  Thời  gian 
điều trị cũng cho thấy có sự  liên quan đến sự 
tuân  thủ  dùng  thuốc.  Những  bệnh  nhân  có 
thời  gian  điều  trị  dài  có  tỉ  lệ  tuân  thủ  dùng 
thuốc  cao  hơn  những  bệnh  nhân  có  thời  gian 
điều trị ít hơn 2 năm. Sự khác biệt này mang ý 
nghĩa thống kê (p<0,05). Theo một nghiên cứu 
thực hiện tại Thổ Nhĩ Kỳ về tác động của thời 
gian  sử  dụng  thuốc  đến  sự  tuân  thủ  dùng 
thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp, tác giả cho 
rằng thời gian sử  dụng thuốc  làm  gia  tăng  sự 
tuân  thủ  dùng  thuốc  của  bệnh  nhân(9).  Tăng 

Nghiên cứu Y học

huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường có  tỉ  lệ 
tuân  thủ  dùng  thuốc  cao  hơn  những  bệnh 
nhân  không  có  đái  tháo  đường.  Sự  khác  biệt 

này  mang  ý  nghĩa  thống  kê  (p<0,05).  So  với 
người không bị đái tháo đường, tăng huyết áp 
gặp  ở  người  đái  tháo  đường  nhiều  gấp  đôi. 
Ngoài mức độ thường gặp cao, bản thân tăng 
huyết  áp  làm  tăng  mạnh  các  yếu  tố  nguy  cơ 
vốn  đã  tăng  ở  bệnh  nhân  đái  tháo  đường.  Cả 
tăng  huyết  áp  và  đái  tháo  đường  sẽ  làm  tăng 
gấp đôi biến chứng và nguy cơ tử vong khi so 
với bệnh nhân tăng huyết áp nhưng không bị 
đái tháo đường(7). 
Không tìm thấy sự khác biệt mang ý nghĩa 
thống  kê  về  mối  liên  quan  giữa  kiểm  soát 
huyết áp với sự tuân thủ dùng thuốc của bệnh 
nhân  tăng  huyết  áp  (p>0,05).  Phù  hợp  với 
nghiên  cứu  thực  hiện  tại  Hà  Lan  của  tác  giả 
van  Onzenoort(20).  Nghiên  cứu  của  tác  giả 
Vigen  thực  hiện  tại  Mỹ  cũng  không  thấy  mối 
liên hệ giữa tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát 
huyết  áp  ở  bệnh  nhân  điều  trị  tại  các  phòng 
khám. Không phù hợp với nghiên cứu của tác 
giả Oliveira‐Filho năm 2012 cho rằng có sự liên 
hệ  chặt  chẽ  giữa  giữa  kiểm  soát  huyết  áp  với 
sự  tuân  thủ  dùng  thuốc  của  bệnh  nhân  tăng 
huyết  áp  đo  bằng  thang  MMAS‐8  của 
Morisky(15). Nghiên cứu của điều dưỡng Shaw 
cùng  cộng  sự  thực  hiện  năm  2012  tại  Mỹ  cho 
rằng không tuân thủ dùng thuốc hạ áp sẽ làm 
gia tăng huyết áp tâm thu(18). 

Bảng 3 Kết quả mối liên quan giữa sự tuân thủ dùng thuốc với kiểm soát huyết áp 

Nội dung
Kiểm soát huyết áp

Kiểm soát (%)
Chưa kiểm soát (%)
Tổng

Tuân thủ dùng thuốc
Tuân thủ (%)
Chưa tuân thủ (%)
114 (70,8)
47 (29,2)
129 (68,3)
60 (31,7)
243 (69,4)
107 (30,6)

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Bệnh  nhân  ≥  60  tuổi,  có  kèm  bệnh  đái  tháo 
đường hay suy thận có tỉ lệ kiểm soát huyết áp 
thấp hơn. Bệnh nhân ≥ 60 tuổi, thời gian điều trị 
tăng huyết áp trên 5 năm và kèm bệnh đái tháo 
đường có tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc cao hơn. 

p

χ2

OR (95%CI)


0,605 0,267 1,128 (0,714-1,782)

Tư  vấn  và  giáo  dục  truyền  thông  sức  khỏe 
thay đổi lối sống cho mọi bệnh nhân tăng huyết 
áp hoặc người có huyết áp bình thường cao hoặc 
có tiền sử gia đình tăng huyết áp rõ ràng. 
Tại khoa Khám bệnh của các bệnh viện nên 
có chương trình giáo dục và biện pháp thích hợp 
để nâng cao khả năng tuân thủ điều trị của bệnh 
nhân tăng huyết áp. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

101


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Giáo dục và hướng dẫn bệnh nhân theo dõi 
huyết áp tại nhà.  

12.

Cần  thực  hiện  chương  trình  quản  lý  bệnh 
nhân tăng huyết áp tại bệnh viện. 

13.


TÀI LIỆU THAM KHẢO 

14.

1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.
8.

9.

10.

11.

102

Bộ Y tế (2010). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị tăng huyết 
áp. Ban hành kèm theo Quyết định số 3192/QĐ‐BYT ngày 31 
tháng 08 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế. 

Châu  Ngọc  Hoa  (2005).  Khảo  sát  kiến  thức  ‐  thái  độ  và  sự 
tuân thủ điều trị ở bệnh nhân bệnh tim mạch. Báo cáo nghiên 
cứu khoa học TP Hồ Chí Minh năm 2006. 
Gatti  ME,  Jacobson  KL,  et  al  (2009).  Relationships  between 
beliefs  about  medications  and  adherence.  Am  J  Health‐Syst 
Pharm, 66, 657‐664. 
Gohar F, et al (2008). Self‐care and adherence to medication: a 
survey  in  the  hypertension  outpatient  clinic.  BMC 
Complement Altern Med, 8, 4. 
Hadi N & Rostami‐Gooran N. (2004). Determinant factors of 
medication  compliance  in  hypertensive  patients  of  Shiraz, 
Iran. Arch Iranian Med, 7(4), 292‐296. 
Hồ  Huỳnh  Quang  Trí  (2010).  Không  kiểm  soát  được  huyết 
áp: Một số nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Báo chuyên 
đề tim mạch học của Hội tim mạch TP HCM, (13/05/2010). 
Hội tim mạch học Việt Nam(2008). Khuyến cáo 2008 về chẩn 
đoán và điều trị tăng huyết áp ở người lớn. NXB Y học. 
Jin  J,  Sklar  GE  et  al  (2008).  Factors  affecting  therapeutic 
compliance:  A  review  from  the  patientʹs  perspective.  Ther 
Clin Risk Manag, 4(1), 269‐286. 
Karaeren  H.,  et  al.  (2009).  The  effect  of  the  content  of  the 
knowledge  on  adherence  to  medication  in  hypertensive 
patients. Anadolu Kardiyol Derg, 9(3), 183‐188. 
Krousel‐Wood MA, et al (2009). Barriers to and determinants 
of  medication  adherence  in  hypertension  management: 
perspective  of  the  cohort  study  of  medication  adherence 
among older adults. Med Clin North Am, 93(3), 753‐769. 
Lý  Huy  Khanh  (2009).  Khảo  sát  điều  trị  tăng  huyết  áp  tại 
phòng khám Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương. Nghiên cứu 
khoa học Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương. 

 

Morgado  M,  Rolo  S  &  Castelo‐Branco  M  (2011).  Pharmacist 
intervention  program  to  enhance  hypertension  control:  a 
randomised controlled trial. Int J Clin Pharm, 33(1), 132‐140. 
Morisky DE et al (2008). Predictive Validity of A Medication 
Adherence  Measure  in  an  Outpatient  Setting.  J  Clin 
Hypertens, 10(5), 348–354. 
Nguyễn  Mạnh  Phan  (2009).  Kiểm  soát  tốt  bệnh  tim  mạch: 
Tuân thủ điều trị và vai trò của dược phẩm kinh tế. Chuyên 
đề tim mạch học ‐ Hội tim mạch học TP Hồ Chí Minh. 
Oliveira‐Filho  AD,  et  al  (2012).  Association  between  the  8‐
item  Morisky  Medication  Adherence  Scale  (MMAS‐8)  and 
blood pressure control. Arq Bras Cardiol, 99(1), 649‐658. 
Phạm  Mạnh  Hùng  (2010).  Tăng  huyết  áp  ‐  Kẻ  giết  người 
thầm lặng. Sức khoẻ và đời sống (02/01/2010). 
Ross S, Walker A & MacLeod MJ (2004). Patient compliance 
in  hypertension:  role  of  illness  perceptions  and  treatment 
beliefs. J Hum Hypertens, 18(9), 607‐613. 
Shaw  R  &  Bosworth  HB  (2012).  Baseline  medication 
adherence  and  blood  pressure  in  a  24‐month  longitudinal 
hypertension study. J Clin Nurs, 21(9‐10), 1401‐1406. 
Stockwell, D. H., Madhavan, S., et al (1994). The determinants 
of  hypertension  awareness,  treatment,  and  control  in  an 
insured population. Am J Public Health, 84(11), 1768‐1774. 
van  Onzenoort  HA,  Verberk  WJ,  Kroon  AA,  Kessels  AG, 
Neef  C,  van  der  Kuy  PH,  de  Leeuw  PW.  (2012).  Electronic 
monitoring  of  adherence,  treatment  of  hypertension,  and 
blood pressure control. Am J Hypertens, 25(1), 54‐59. 
World  Health  Organization  (2003).  Intrenational  society  of 

Hypertension  statement  on  management  of  hypertension. 
Journal of hypertension, 21(11), 1983‐1988. 
Zeller A, Schroeder K & & Peters T (2007). Cigarette smoking 
and  adherence  to  antihypertensive  medication  in  patients 
from primary care. Eur J Gen Pract., 13 (3), 161‐162. 

15.

16.
17.

18.

19.

20.

21.

22.

 
Ngày nhận bài   

 

 20/08/2013. 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 29/08/2013. 
Ngày bài báo được đăng:  


10/10/2013 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  



×