Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA SỰ TUÂN THỦ DÙNG THUỐC
VÀ KIỂM SOÁT HUYẾT ÁP Ở BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP
ĐANG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh*, Nguyễn Thị Mỹ Duyên*, Lý Huy Khanh*, Nguyễn Thị Tươi*, Hồ Thị Thanh Vân*,
Trương Thị Thu Hà*, Phạm Thị Ngọc Lụa*, Huỳnh Thị Lệ Thu*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh tim mạch chiếm 1/3 nguyên nhân tử vong trên thế giới và đang góp phần gia tăng gánh
nặng bệnh tật trên thế giới. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ cao của bệnh tim mạch và ngày càng trở thành vấn
đề sức khoẻ toàn cầu do tỷ lệ ngày càng gia tăng của nó. Các yếu tố nguy cơ của lối sống như lười vận động, ăn
không hợp lí với chế độ ăn quá nhiều chất béo, ăn mặn, hút thuốc lá... là những nguyên nhân dẫn đến sự gia
tăng gánh nặng này. Tăng huyết áp ảnh hưởng đến khoảng 1,5 tỷ người trên toàn thế giới. Việc tuân thủ điều
trị phù hợp của bệnh nhân tăng huyết áp sẽ giúp huyết áp được kiểm soát và giảm tối đa nguy cơ tim mạch.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ một số yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và mối liên hệ giữa sự tuân thủ dùng
thuốc và kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú.
Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện với 350 bệnh nhân tăng huyết áp.
Phỏng vấn với bộ câu hỏi soạn sẵn gồm 18 câu. Huyết áp được ghi nhận sau 3 lần tái khám. Khảo sát mối liên hệ
giữa sự tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát huyết áp bằng phép kiểm chi bình phương.
Kết quả: Tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp là 69,4%. Tỉ lệ bệnh nhân có chế độ ăn
mặn cần điều điều chỉnh là 51,7%; Tỉ lệ có vòng bụng đạt yêu cầu là 36,9%; 22,6% bệnh nhân cần hạn chế rượu
bia; 17,4% bệnh nhân cần bỏ thuốc lá; Tăng cường hoạt động thể lực chiếm tỉ lệ 60%. Tỉ lệ kiểm soát huyết áp
của bệnh nhân tăng huyết áp là 46%. Có mối liên quan giữa kiểm soát huyết áp với các yếu tố: tuổi và có bệnh
Đái tháo đường, Suy thận kèm theo (p<0,05). Có mối liên quan giữa sự tuân thủ dùng thuốc với các yếu tố: tuổi,
thời gian điều trị tăng huyết áp và có bệnh đái tháo đường kèm theo (p<0,05). Không tìm thấy mối liên quan giữa
tuân thủ dùng thuốc với kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp (p>0,05).
Kết luận: Bệnh nhân ≥ 60 tuổi, kèm bệnh đái tháo đường hay suy thận kiểm soát huyết áp thấp hơn.Bệnh
nhân ≥ 60 tuổi, thời gian điều trị trên 5 năm và kèm bệnh đái tháo đường có tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc cao hơn.
Từ khóa: Tuân thủ dùng thuốc, yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp, kiểm soát huyết áp.
ABSTRACT
ASSESSING THE RELATIONSHIP BETWEEN MEDICATION COMPLIANCE
AND CONTROLLED BLOOD PRESSURE IN OUTPATIENTS DIAGNOSED
WITH HYPERTENSION
Nguyen Thi My Hanh *, Nguyen Thi My Duyen, Ly Huy Khanh, Nguyen Thi Tuoi, Ho Thi Thanh Van,
Truong Thi Thu Ha, Pham Thi Ngoc Lua, Huynh Thi Le Thu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 96 - 102
Background: One‐third of global deaths is attributed to cardiovascular disease and is a leading and
increasing contributor to the global disease burden. Hypertension is already a highly prevalent risk factor for
*
Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương
Tác giả liên lạc: Ths.ĐD Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
96
ĐT: 0908467805
Email:
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Nghiên cứu Y học
cardiovascular disease. It is becoming an increasingly common health problem worldwide because of increasing
longevity and prevalence of contributing factors. Many unhealthy lifestyle habits can raise risk factors for
hypertension including: Lack of physical activity, eating too much sodium, smoking, etc. Hypertension affects
about 1.5 billion persons worldwide. Compliance to appropriate medical therapy for hypertension can result in
controlled blood pressure and reduction in adverse outcomes.
Objective: To determine the rate of risk factors for hypertension and the relationship between medication
compliance and controlled blood pressure in outpatients diagnosed with hypertension.
Method: A cross‐sectional, descriptive study was conducted with 350 hypertensive patients. The researcher
used a questionnaire with total of 18 questions. Three blood pressure measures were taken after patients being
maintained their medication. Determine the relationship between these variables by the Chi squared test.
Results: The rate of patients with medication compliance was 69.4%; the rate of patients with eating too
much sodium was 51.7%; the rate of not high‐risk waist circumference was 36.9%; 22.6% patients need to limit
their alcohol consumption; 17.4% patients should stop smoking; the rate of patients with regular, moderate‐to‐
vigorous physical activity was 60%. 46% patients with controlled hypertensives. There were significant
differences between controlled blood pressure with age and patients have diabetes or kidney failure disease
(p<0,05). Age, treatment time and patients have diabetes was significant relationship of medication compliance
(p<0.05). Between medication compliance and controlled hypertensives showed no significant relationship
(p>0.05).
Conclusion: Patients who were ≥ 60 years of age and who has diabetes or kidney failure disease showed
worse controlled hypertensives. Patients who were ≥ 60 years of age, who has taken blood pressure‐lowering
medication for over 5 years and who has diabetes reported high medication compliance.
Keywords: Medication compliance, risk factors of hypertension, controlled blood pressure.
kiểm soát huyết áp trên thực tế vẫn chưa cao.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngay tại Hoa Kỳ, các con số thống kê gần đây
Bệnh tim mạch chiếm 1/3 nguyên nhân tử
cho thấy tỉ lệ kiểm soát huyết áp (< 140/90 mm
vong trên thế giới và đang góp phần gia tăng
Hg) tuy có tăng nhưng cũng không vượt quá
gánh nặng bệnh tật trên thế giới. Tăng huyết áp
70%. T cứu quần thể dài hạn, quy
mô lớn cho thấy ngay huyết áp giảm ít cũng làm
giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Vì vậy, bất
chấp mức huyết áp thế nào, tất cả các cá nhân
cần phải lựa chọn điều chỉnh lối sống phù hợp
cho mình. Hơn nữa, không giống như liệu pháp
dùng thuốc có thể gây tác dụng ngoài ý muốn
và giảm chất lượng sống trong một số bệnh
nhân, liệu pháp không dùng thuốc không gây
các ảnh hưởng có hại mà còn giúp cảm thấy
khỏe hơn cho bệnh nhân và ít tốn kém(1,7).
Tỉ lệ kiểm soát huyết áp là 46% cao hơn so
với nghiên cứu thực hiện tại Braxin chỉ có
34%(15) và của tác giả Zeller thực hiện tại Anh tỉ
lệ kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng
huyết áp là 32%(22). Tỉ lệ kiểm soát huyết áp
thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả
Krousel‐Wood thực hiện tại Mỹ có tỉ lệ
66,3%(10). Trong khi đó tại Việt Nam, theo số
liệu điều tra tại các tỉnh phía Bắc năm 2001‐
2002, tỉ lệ bệnh nhân có huyết áp được kiểm
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
99
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
soát/số người được điều trị ở nhóm tuổi ≥ 65 là
9,5%(5). Phù hợp với nghiên cứu của tác giả Lý
Huy Khanh ở dân số chung, tỉ lệ đạt huyết áp
mục tiêu là 40,4%(11). Theo JNC 7 của Hoa Kỳ,
một trong những nguyên nhân chính khiến
cho tỉ lệ kiểm soát được huyết áp trên thực tế
còn chưa cao là sự trì trệ lâm sàng (clinical
inertia) của thầy thuốc, tức là thầy thuốc
không chịu thay đổi điều trị dù biết huyết áp
bệnh nhân chưa được kiểm soát(5). Mặc dù y
giới đã có nhiều cố gắng để cải thiện điều trị
tăng huyết áp, tỉ lệ kiểm soát huyết áp trên
thực tế vẫn chưa cao. Ngay tại Hoa Kỳ, các con
số thống kê gần đây cho thấy tỉ lệ kiểm soát
huyết áp (<140/90 mm Hg) tuy có tăng nhưng
cũng không vượt quá 70%(5). Kiểm soát huyết
áp là yếu tố rất quan trọng nhất trong điều trị
tăng huyết áp. Do vậy khi huyết áp chưa đạt
mục tiêu và kiểm soát được thì vẫn là yếu tố
nguy cơ cao dẫn đến các biến chứng của bệnh
là rất lớn. Ở Việt Nam, do thói quen và quan
niệm của người dân chỉ đi khám bệnh khi thấy
trong người khó chịu, khi đã bị biến chứng của
bệnh. Trong khi đó bệnh tăng huyết áp là bệnh
mạn tính, diễn biến thầm lặng, ít triệu chứng
lâm sàng, nên số ít người bị tăng huyết áp đi
khám bệnh vì thấy người khó chịu, nhiều bệnh
nhân khi bị các tai biến của bệnh mới biết bị
bệnh tăng huyết áp. Tăng huyết áp không
được điều trị và kiểm soát tốt sẽ dẫn đến tổn
thương nặng các cơ quan đích và gây các biến
chứng nguy hiểm như tai biến mạch não, nhồi
máu cơ tim, phình tách thành động mạch chủ,
suy tim, suy thận … thậm chí dẫn đến tử
vong(1).
Tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc là 69,4% cao hơn
với các khảo sát về sự tuân thủ điều trị bệnh
tăng huyết áp thực hiện tại thành phố Hồ Chí
Minh năm 2005 cho thấy tỉ lệ nhỏ hơn 50%(2).
Phù hợp với nghiên cứu thực hiện tại
Washington (Mỹ) của tác giả Gatti(3). Cao hơn tỉ
lệ tuân thủ dùng thuốc thực hiện tại khoa Khám
bệnh năm 2011 chỉ có 49,5%. Theo Bùi Nguyễn
Kiểm thì chỉ có một nửa số bệnh nhân tăng
huyết áp tuân thủ điều trị. Lý do thất bại bao
100
gồm không phát hiện sớm bệnh tăng huyết áp,
sự tuân thủ không hoàn toàn của bệnh nhân,
thiếu sự hướng dẫn của thầy thuốc và thiếu
những liệu pháp đầy đủ để kiểm soát huyết áp.
Theo tài liệu khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) về sự tuân thủ điều trị của bệnh
tăng huyết áp thì tỉ lệ tuân thủ dao động từ 50
đến 70%(21). Theo nghiên cứu dạng phân tích
tổng hợp của Jing Jin và cộng sự thì ở những
bệnh nhân tăng huyết áp, sự kém tuân thủ điều
trị là lý do quan trọng nhất của việc không kiểm
soát được huyết áp dẫn đến gia tăng nguy cơ
của đột quỵ, nhồi máu cơ tim và suy thận(8).
Bảng 2 Kết quả về kiểm soát huyết áp và sự tuân thủ
dùng thuốc
Nội dung
Tần suất Tỉ lệ
Kiểm soát huyết áp
161
46%
Chưa kiểm soát huyết áp
189
54%
Tuân thủ
Tuân thủ dùng thuốc
243
69,4%
dùng thuốc
Chưa tuân thủ
107
30,6%
Kiểm soát
huyết áp
Mối liên quan giữa kiểm soát huyết áp với
tuân thủ dùng thuốc và đặc điểm cá nhân
của bệnh nhân tăng huyết áp
Nhóm bệnh nhân có độ tuổi ≥ 60 có tỉ lệ
kiểm soát huyết áp thấp hơn các nhóm có độ
tuổi còn lại. Sự khác biệt này mang ý nghĩa
thống kê (p<0,05). Phù hợp với số liệu điều tra
tại các tỉnh phía Bắc năm 2001‐2002, tỉ lệ bệnh
nhân có huyết áp được kiểm soát/số người được
điều trị ở nhóm tuổi ≥ 65 rất thấp chỉ có 9,5%(5).
Không phù hợp với nghiên cứu của Stockwell
cho rằng không không có sự liên hệ giữa yếu tố
tuổi với kiểm soát huyết áp, ông cho rằng chỉ có
sự liên hệ giữa yếu tố giới với kiểm soát huyết
áp. Những bệnh nhân nữ có tỉ lệ kiểm soát
huyết áp cao hơn bệnh nhân nam(19). Nghiên cứu
của Morgado không tìm thấy sự liên hệ giữa
kiểm soát huyết áp với yếu tố tuổi cũng như giới
tính(12). Những bệnh nhân tăng huyết áp có bệnh
kèm là đái tháo đường, suy thận tỉ lệ kiểm soát
huyết áp thấp hơn không có bệnh kèm. Sự khác
biệt này mang ý nghĩa thống kê (p<0,05). Không
phù hợp với nghiên cứu của tác giả Lý Huy
Khanh cho rằng không có ý nghĩa về sự liên
quan giữa đạt huyết áp mục tiêu ở những bệnh
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
nhân có thời gian theo dõi điều trị 6 tháng kèm
bệnh đái tháo đường(11).
Nhóm bệnh nhân có độ tuổi ≥ 50 có tỉ lệ
tuân thủ dùng thuốc cao hơn các nhóm có độ
tuổi còn lại. Sự khác biệt này mang ý nghĩa
thống kê (p<0,05). Phù hợp với nghiên cứu của
Negin Hadi và cộng sự thì nhóm bệnh nhân có
độ tuổi ≥ 50 có tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc cao
hơn hơn các nhóm có độ tuổi còn lại(5). Theo
nghiên cứu của tác giả Gohar ở Birmingham
và Ross ở Aberdeen thuộc vương quốc Anh
đặc điểm bệnh nhân lớn tuổi (>60 tuổi) thì
được xác định liên quan đến sự tuân thủ dùng
thuốc điều trị tăng huyết áp(4,17). Những người
ở lứa tuổi dưới 60 thường bỏ thuốc hơn người
lớn tuổi. Lý do có thể do người còn sức khỏe
và ở tuổi lao động bận bịu với công việc hơn
những người lớn tuổi, cũng có thể do tác dụng
phụ của thuốc ảnh hưởng đến công việc nên
người ta dễ tự động bỏ thuốc(14). Thời gian
điều trị cũng cho thấy có sự liên quan đến sự
tuân thủ dùng thuốc. Những bệnh nhân có
thời gian điều trị dài có tỉ lệ tuân thủ dùng
thuốc cao hơn những bệnh nhân có thời gian
điều trị ít hơn 2 năm. Sự khác biệt này mang ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Theo một nghiên cứu
thực hiện tại Thổ Nhĩ Kỳ về tác động của thời
gian sử dụng thuốc đến sự tuân thủ dùng
thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp, tác giả cho
rằng thời gian sử dụng thuốc làm gia tăng sự
tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân(9). Tăng
Nghiên cứu Y học
huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường có tỉ lệ
tuân thủ dùng thuốc cao hơn những bệnh
nhân không có đái tháo đường. Sự khác biệt
này mang ý nghĩa thống kê (p<0,05). So với
người không bị đái tháo đường, tăng huyết áp
gặp ở người đái tháo đường nhiều gấp đôi.
Ngoài mức độ thường gặp cao, bản thân tăng
huyết áp làm tăng mạnh các yếu tố nguy cơ
vốn đã tăng ở bệnh nhân đái tháo đường. Cả
tăng huyết áp và đái tháo đường sẽ làm tăng
gấp đôi biến chứng và nguy cơ tử vong khi so
với bệnh nhân tăng huyết áp nhưng không bị
đái tháo đường(7).
Không tìm thấy sự khác biệt mang ý nghĩa
thống kê về mối liên quan giữa kiểm soát
huyết áp với sự tuân thủ dùng thuốc của bệnh
nhân tăng huyết áp (p>0,05). Phù hợp với
nghiên cứu thực hiện tại Hà Lan của tác giả
van Onzenoort(20). Nghiên cứu của tác giả
Vigen thực hiện tại Mỹ cũng không thấy mối
liên hệ giữa tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát
huyết áp ở bệnh nhân điều trị tại các phòng
khám. Không phù hợp với nghiên cứu của tác
giả Oliveira‐Filho năm 2012 cho rằng có sự liên
hệ chặt chẽ giữa giữa kiểm soát huyết áp với
sự tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân tăng
huyết áp đo bằng thang MMAS‐8 của
Morisky(15). Nghiên cứu của điều dưỡng Shaw
cùng cộng sự thực hiện năm 2012 tại Mỹ cho
rằng không tuân thủ dùng thuốc hạ áp sẽ làm
gia tăng huyết áp tâm thu(18).
Bảng 3 Kết quả mối liên quan giữa sự tuân thủ dùng thuốc với kiểm soát huyết áp
Nội dung
Kiểm soát huyết áp
Kiểm soát (%)
Chưa kiểm soát (%)
Tổng
Tuân thủ dùng thuốc
Tuân thủ (%)
Chưa tuân thủ (%)
114 (70,8)
47 (29,2)
129 (68,3)
60 (31,7)
243 (69,4)
107 (30,6)
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Bệnh nhân ≥ 60 tuổi, có kèm bệnh đái tháo
đường hay suy thận có tỉ lệ kiểm soát huyết áp
thấp hơn. Bệnh nhân ≥ 60 tuổi, thời gian điều trị
tăng huyết áp trên 5 năm và kèm bệnh đái tháo
đường có tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc cao hơn.
p
χ2
OR (95%CI)
0,605 0,267 1,128 (0,714-1,782)
Tư vấn và giáo dục truyền thông sức khỏe
thay đổi lối sống cho mọi bệnh nhân tăng huyết
áp hoặc người có huyết áp bình thường cao hoặc
có tiền sử gia đình tăng huyết áp rõ ràng.
Tại khoa Khám bệnh của các bệnh viện nên
có chương trình giáo dục và biện pháp thích hợp
để nâng cao khả năng tuân thủ điều trị của bệnh
nhân tăng huyết áp.
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
101
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Giáo dục và hướng dẫn bệnh nhân theo dõi
huyết áp tại nhà.
12.
Cần thực hiện chương trình quản lý bệnh
nhân tăng huyết áp tại bệnh viện.
13.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
14.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
102
Bộ Y tế (2010). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị tăng huyết
áp. Ban hành kèm theo Quyết định số 3192/QĐ‐BYT ngày 31
tháng 08 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Châu Ngọc Hoa (2005). Khảo sát kiến thức ‐ thái độ và sự
tuân thủ điều trị ở bệnh nhân bệnh tim mạch. Báo cáo nghiên
cứu khoa học TP Hồ Chí Minh năm 2006.
Gatti ME, Jacobson KL, et al (2009). Relationships between
beliefs about medications and adherence. Am J Health‐Syst
Pharm, 66, 657‐664.
Gohar F, et al (2008). Self‐care and adherence to medication: a
survey in the hypertension outpatient clinic. BMC
Complement Altern Med, 8, 4.
Hadi N & Rostami‐Gooran N. (2004). Determinant factors of
medication compliance in hypertensive patients of Shiraz,
Iran. Arch Iranian Med, 7(4), 292‐296.
Hồ Huỳnh Quang Trí (2010). Không kiểm soát được huyết
áp: Một số nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Báo chuyên
đề tim mạch học của Hội tim mạch TP HCM, (13/05/2010).
Hội tim mạch học Việt Nam(2008). Khuyến cáo 2008 về chẩn
đoán và điều trị tăng huyết áp ở người lớn. NXB Y học.
Jin J, Sklar GE et al (2008). Factors affecting therapeutic
compliance: A review from the patientʹs perspective. Ther
Clin Risk Manag, 4(1), 269‐286.
Karaeren H., et al. (2009). The effect of the content of the
knowledge on adherence to medication in hypertensive
patients. Anadolu Kardiyol Derg, 9(3), 183‐188.
Krousel‐Wood MA, et al (2009). Barriers to and determinants
of medication adherence in hypertension management:
perspective of the cohort study of medication adherence
among older adults. Med Clin North Am, 93(3), 753‐769.
Lý Huy Khanh (2009). Khảo sát điều trị tăng huyết áp tại
phòng khám Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương. Nghiên cứu
khoa học Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương.
Morgado M, Rolo S & Castelo‐Branco M (2011). Pharmacist
intervention program to enhance hypertension control: a
randomised controlled trial. Int J Clin Pharm, 33(1), 132‐140.
Morisky DE et al (2008). Predictive Validity of A Medication
Adherence Measure in an Outpatient Setting. J Clin
Hypertens, 10(5), 348–354.
Nguyễn Mạnh Phan (2009). Kiểm soát tốt bệnh tim mạch:
Tuân thủ điều trị và vai trò của dược phẩm kinh tế. Chuyên
đề tim mạch học ‐ Hội tim mạch học TP Hồ Chí Minh.
Oliveira‐Filho AD, et al (2012). Association between the 8‐
item Morisky Medication Adherence Scale (MMAS‐8) and
blood pressure control. Arq Bras Cardiol, 99(1), 649‐658.
Phạm Mạnh Hùng (2010). Tăng huyết áp ‐ Kẻ giết người
thầm lặng. Sức khoẻ và đời sống (02/01/2010).
Ross S, Walker A & MacLeod MJ (2004). Patient compliance
in hypertension: role of illness perceptions and treatment
beliefs. J Hum Hypertens, 18(9), 607‐613.
Shaw R & Bosworth HB (2012). Baseline medication
adherence and blood pressure in a 24‐month longitudinal
hypertension study. J Clin Nurs, 21(9‐10), 1401‐1406.
Stockwell, D. H., Madhavan, S., et al (1994). The determinants
of hypertension awareness, treatment, and control in an
insured population. Am J Public Health, 84(11), 1768‐1774.
van Onzenoort HA, Verberk WJ, Kroon AA, Kessels AG,
Neef C, van der Kuy PH, de Leeuw PW. (2012). Electronic
monitoring of adherence, treatment of hypertension, and
blood pressure control. Am J Hypertens, 25(1), 54‐59.
World Health Organization (2003). Intrenational society of
Hypertension statement on management of hypertension.
Journal of hypertension, 21(11), 1983‐1988.
Zeller A, Schroeder K & & Peters T (2007). Cigarette smoking
and adherence to antihypertensive medication in patients
from primary care. Eur J Gen Pract., 13 (3), 161‐162.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
Ngày nhận bài
20/08/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 29/08/2013.
Ngày bài báo được đăng:
10/10/2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013