Cảnh quan Châu Á
Quang cảnh rừng taiga.
Đới rừng lá kim hay còn gọi là rừng taiga chiếm một dải rộng về phía Bắc vành đai
ôn đới với khí hậu ôn đới lục địa lạnh. Về mùa đông ở đây băng giá kéo dài và băng
kết vĩnh cửu có mặt ở khắp nơi. Rừng nghèo về thành phần loài và có cấu trúc đơn
giản. Các loài phổ biến nhất là vân sam (Picea spp.), thông, thông rụng lá Siberi
(Larix sibirica). Ngoài ra còn có lãnh sam (Abies spp.) và thông Siberi (Pinus
sibirica). Rừng taiga của châu Á được phân biệt thành hai kiểu chính là: "Rừng
taiga tối" và "Rừng taiga sáng". Rừng taiga tối phân bố ở chủ yếu ở vùng đồng bằng
Tây Siberi trở về phía Tây. Trong rừng cây mọc dày, vươn lên rất cao nên rừng rậm,
tối và ẩm ướt. Rừng taiga sáng phân bố chủ yếu ở Trung và Đông Siberi, là những
nơi có khí hậu giá lạnh gay gắt nhất. Ở đây chỉ có tùng rụng lá là loài chịu được các
điều kiện khắc nghiệt nói trên. Trong rừng, cây mọc thưa, thấp và rụng lá về mùa
đông. Phần Nam đới rừng taiga, về mùa hạ thời tiết khá ấm, mưa ít hơn, phát triển
rừng cây lá nhỏ gồm thùy dương và liễu.
Trong đới rừng lá kim do bốc hơi yếu nên đầm lầy phát triển mạnh, chiếm 50% diện
tích của đới. Mặt đất luôn ẩm ướt, đồng thời xác thực vật lá kim khi phân hủy sẽ tạo
thành các axít nên quá trình rửa trôi mạnh, hình thành đất potsol và đất đầm lầy. Đất
potsol là loại đất chua và nghèo chất dinh dưỡng. Trong đới rừng taiga, nhờ thức ăn
phong phú và điều kiện khí hậu thuận lợi hơn các đới phía Bắc nên giới động vật
cũng phong phú hơn. Các loài điển hình là nai sừng tấm, gấu nâu, mèo rừng, sóc và
nhiều loài chim như gà rừng, gõ kiến, quạ khoang, cú... Rừng lá kim là nguồn dự trữ
gỗ quan trọng cho các ngành kinh tế.
Đới rừng hỗn hợp và rừng lá rộng
Đây là hai đới kế tiếp nhau, phát triển trong các vùng khí hậu ôn đới chuyển tiếp và
ôn đới hải dương. Ở châu Á thì hai đới này không tạo thành các dải liên tục mà
phân bố trong những khu vực hạn chế ở Đông Á như vùng trung và hạ lưu sông
Amur, vùng Mãn Châu-Triều Tiên và vùng Bắc đảo Honshu (Nhật Bản). Trong
rừng có các cây lá nhọn xen cây lá rộng. Các loài cây lá rộng phổ biến nhất là sồi
Mông Cổ (Quercus mongolia), dẻ gai rừng (Fagus sylvatica), hồ đào Mãn Châu
(Juglans mandshurica), thùy dương vàng... Trong tầng dưới rừng có nhiều loại dây
leo như ngũ vị tử, nho Amur, nhiều loại cây bụi nhỏ trong đó đáng chú ý nhất là
nhân sâm (Panax ginseng), một loài cây thuốc rất quý. Nhờ nguồn thức ăn phong
phú, khí hậu ấm áp nên giới động vật của rừng hỗn hợp và rừng lá rộng rất đa dạng,
đáng chú ý nhất là hươu sao, thỏ, nai sừng tấm, hổ, gấu đen, mèo rừng Viễn Đông,
nhiều loài chim như trĩ, cú bắt cá, quạ xanh, sáo, sẻ ngô... Đới rừng hỗn hợp và rừng
lá rộng là nơi có dân cư tập trung đông và nông nghiệp phát triển. Thổ nhưỡng ở
dưới rừng hỗn hợp là đất podzol cỏ, dưới rừng lá rộng là đất rừng nâu xám. Đây là
những loại đất tốt có thể trồng được nhiều loại cây khác nhau như lúa mạch, lúa
miến, khoai tây, củ cải đường đồng thời đây cũng là đới chăn nuôi nhiều bò, lợn.
Đới thảo nguyên rừng và thảo nguyên
Thảo nguyên ở miền tây Kazakhstan vào đầu mùa xuân.
Đây cũng là hai đới nằm kế nhau làm thành một dải rộng kéo dài từ vùng núi
Kavkaz cho đến Altai, trong đó dải phía Bắc là thảo nguyên rừng, còn dải phía Nam
là thảo nguyên. Từ dãy Altai trở về phía Đông (bao gồm lãnh thổ Mông Cổ và phía
Bắc Trung Quốc) thì thảo nguyên chiếm ưu thế, còn thảo nguyên rừng chỉ chiếm
những bộ phận lẻ tẻ.
Trong các đới này, điều kiện khí hậu mang tính chất lục địa khá rõ: mùa đông lạnh
và kéo dài, nhiệt độ trung bình tháng 1 từ -5 đến -20°C, mùa hạ tương đối nóng,
nhiệt độ trung bình tháng 7 từ 17-23°C. Lượng mưa trung bình năm từ 250-400
mm. Do mưa ít nhưng nước bốc hơi mạnh nên nước trên mặt đất và nước ngầm đều
kém (mực nước ngầm ở đông bằng sâu tới 5-10 m, còn ở vùng đất cao tới 10-20 m),
hiện tượng thiếu ẩm xuất hiện khá rõ rệt. Sự thiếu ẩm này làm cho thực vật cỏ ưa
khô phát triển thuận lợi hơn cây thân gỗ. Vì thế, đồng cỏ dần thay thế rừng. Trong
dải thảo nguyên rừng, đồng cỏ xen vào giữa các khu rừng, còn xuống phía Nam do
khí hậu khô và nóng hơn, rừng dần dần mất hẳn, đồng cỏ xâm chiếm toàn bộ và trở
thành đới thảo nguyên. Trong thảo nguyên rừng, các cây thân gỗ gồm có sồi, dẻ
rừng, phong và bạch dương, còn trong đới thảo nguyên thống trị có các loài cỏ, các
loài phổ biến nhất là cỏ vũ mao (Stipa spp.), cỏ vũ mao lông dài và cỏ mục dịch
(Festuca sulcata). Ở thảo nguyên Mông Cổ còn có thêm các bụi cây ngải. Thổ
nhưỡng chính của hai đới này là đất rừng xám, đất đen, đất đen rửa trôi và đất hạt
dẻ.
Giới động vật của hai đới có sự khác nhau khá rõ: ở đới thảo nguyên rừng có các
động vật rừng như chồn, sóc, thỏ nâu và các loại chim. Ở thảo nguyên có nhiềm loại
gặm nhấm và loài ăn cỏ, đáng chú ý nhất là sơn dương, nhiều loài chuột và dê.
Ngoài ra còn có ngựa hoang Mông Cổ, lạc đà hai bướu sống ở các vùng của Nội Á.
Bên cạnh các loài ăn cỏ và gặm nhấm còn có các loài ăn thịt như chó sói, chồn, đại
bàng...
Thảo nguyên và thảo nguyên rừng là hai đới có đất tốt, đồng cỏ rộng, thuận lợi cho
trồng trọt và chăn nuôi gia súc. Tuy nhiên, do độ ẩm không khí không đầy đủ và
kém ổn định nên trong sản xuất cần có biện pháp tưới tiêu, chống xói mòn đất mới
bảo đảm được năng suất cao.
Đới bán hoang mạc và hoang mạc ôn đới
Sa mạc Gobi, khu vực tự trị Nội Mông của Trung Quốc.
Hai đới này phân bố trong các vùng Trung Á và Nội Á. Đây là những vùng khí hậu
khô hạn và mang tính chất lục địa gay gắt nhất. Ở các vùng Đông Nam đồng bằng
Nga và Trung Á, hai đới này có dấu hiệu phân biệt tương đối rõ, còn ở vùng Nội Á
chúng phát triển xen kẽ với nhau.
Trong đới bán hoang mạc, lượng mưa hằng năm khoảng 150-200mm, còn trong đới
hoang mạc giảm xuống không đầy 150mm. Độ bốc hơi rất lớn, có thể gấp 4-9 lần
lượng mưa, vì thế mà độ ẩm thường xuyên thấp. Tại các vùng ở Trung Á, độ ẩm
không khí trung bình khoảng 35-40%, còn mùa hạ, những lúc có gió mạnh và bão
bụi kéo dài thì độ ẩm có thể giảm xuống tới 18-19%, gây tác hại lớn cho trồng trọt
và chăn nuôi. Do bốc hơi mạnh, dòng chảy trên mặt đất trong các đới này rất hiếm,
mặt đất được tích tụ muối nên nhiều nơi tầng cacbonat trồi lên tới mặt đất. Thổ
nhưỡng điển hình của đới bán hoang mạc và đới hoang mạc là đất xám.
Lớp phủ thực vật của bán hoang mạc và hoang mạc rất nghèo, có khả năng chịu hạn
và chịu mặn cao. Trong bán hoang mạc thường gặp quần thể hòa thảo-ngải cứu, còn
ở hoang mạc phổ biến nhất là ngải cứu-cỏ muối. Ở phía Nam vùng Trung Á, ven
theo các cồn cát trong hoang mạc còn gặp các bụi cây muối đen (Haloxylon
aphyllum), một loại cây bụi lớn. Ven theo các hồ và thung lũng sông có các rừng
hành lang và rừng lau sậy.
Lạc đà hai bướu ở Trung Á.
Tương tự như thực vật, giới động vật của bán hoang mạc và hoang mạc cũng rất
nghèo, phổ biến nhất là các loài gặm nhấm và bò sát (các loài chuột, kỳ đà và rắn).
Một vài nơi trong thung lũng thỉnh thoảng gặp sơn dương, ngựa hoang và lạc đà hai
bướu. Trong các đới này cư dân rất thưa, tập trung ven hồ, các thung lũng sông và
các ốc đảo.
Vòng đai cận nhiệt đới
Tương tự như vòng đai ôn đới, vòng đai cận nhiệt đới ở châu Á cũng chiếm một dải
rộng kéo dài từ bờ Đại Tây Dương sang tận bờ Thái Bình Dương. Trong vành đai
này, địa hình núi, sơn nguyên, đồng bằng bị chia cắt rất phức tạp. Liên quan với
điều kiện khí hậu, vòng đai này có thể chia thành hai đới chính:
Đới rừng và cây bụi lá cứng cận nhiệt đới
Sồi thường xanh vào mùa xuân.
Đới rừng và cây bụi lá cứng cận nhiệt đới hay còn gọi là đới Địa Trung Hải bởi vì
đới này phân bố ở vùng lãnh thổ phía Tây châu Á giáp với Địa Trung Hải. Trong
đới này tuy lượng mưa không ít nhưng hai mùa mùa mưa ẩm và mùa khô nóng
chênh lệch lại tạo nên tình trạng bất lợi cho sự phát triển bình thường của thực vật.
Về mùa đông đới này ấm và ẩm, có mưa nhiều nhưng đến mùa hạ lại khô nóng và
mưa không đáng kể. Trong mùa hạ do không khí khô nóng, bốc hơi mạnh gây nên
tình trạng thiếu ẩm gay gắt. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện khí hậu khô
nóng và bốc hơi mạnh, thực vật ở đây thường phát triển theo hình thái làm giảm sự
bốc hơi và phản chiếu bớt ánh nắng mạnh như lá cứng, màu lá xanh bóng, có lớp
lông mịn dưới lá hoặc lớp sáp trên mặt lá, thân cây có vỏ dày hoặc xốp hoặc có
nhiều gai để làm giảm bớt độ bốc hơi của cây.
Lớp phủ thực vật ở đây gồm hai kiểu: rừng và cây bụi. Rừng thường phát triển trên
các sườn phía Tây có mưa nhiều, tạo thành kiểu rừng lá cứng thường xanh. Trong
rừng có các cây lá rộng như sồi thường xanh (Quercus ilex), sồi lie hay sồi bần có
lớp vỏ xốp và dày, nguyệt quế (Laurus nobilis), ôliu... xen các cây lá kim như thông,
tuyết tùng. Rừng tương đối sáng, tầng dưới rừng khá phát triển với nhiều loài cỏ và
cây bụi nhỏ. Trên các sườn phía Đông hoặc trong các thung lũng khuất gió, lượng
mưa hằng năm rất ít, phát triển kiểu truông cây bụi. Truông là một kiểu cảnh quan
gồm các cây bụi mọc thấp và thưa (gồm các cây thường xanh hoặc rụng lá theo
mùa) gồm các loài: sồi cây bụi, táo dại, ôliu cây bụi, tùng cối Hy Lạp (Juniperus
excelsa) và một số loài cây gai khác. Những nơi như bán đảo Tiểu Á, khô hạn mạnh
thì phát triển chủ yếu kiểu chuông bụi gai. Nhiều nơi cây bụi gai mọc rất dày, người
không thể đi qua được.
Thổ nhưỡng dưới tán rừng và cây bụi lá cứng cận nhiệt là đất nâu và nâu xám. Đất
có lượng mùn khá cao và có phản ứng trung tính. Động vật của đới Địa Trung Hải
phổ biến nhất là các loài bò sát như thằn lằn, tắc kè, rùa, nhím và các loài rắn. Ngoài
ra còn có khỉ không đuôi (khỉ mặt đỏ), cầy đốm, thỏ hoang...
Đới rừng hỗn hợp cận nhiệt đới gió mùa
Gấu trúc ở Trung Quốc.
Đới rừng này phát triển trong các khu vực thuộc kiểu cận nhiệt đới gió mùa, phân
bố chủ yếu ở Đông Trung Quốc, phía Nam bán đảo Triều Tiên và Nam Nhật Bản.
Nhờ khí hậu nóng và ẩm về mùa hạ, hơi lạnh về mùa đông nên thực vật gồm các
cây lá rộng xen cây lá kim, các loài điển hình là sơn trà, nguyệt quế, mộc lan
(Magnolia spp.), sồi thường xanh, dẻ rừng, thông đuôi ngựa.... Động vật cũng rất
phong phú. Các đại diện thường gặp là khỉ, báo, gấu trúc, lợn rừng, nhiều loài chim
như trĩ, vẹt, vịt trời, cốc... Ngày nay, phần lớn các khu rừng đã bị khai thác, trở
thành những vùng dân cư đông đúc.
Vòng đai nhiệt đới
Một ốc đảo tại Oman.
Hình thành trong miền khí hậu nhiệt đới bao gồm toàn bộ bán đảo Ả Rập, phía Nam
sơn nguyên Iran và một phần đồng bằng sông Ấn. Với thời tiết nóng và khô quanh
năm, lượng mưa rất thấp nhưng bốc hơi mạnh, thiếu ẩm gay gắt nên toàn bộ vành
đai phát triển quang cảnh hoang mạc và bán hoang mạc. Ở đây, khắp nơi chỉ thấy
cánh đồng cát, các bãi đá khô cằn và buồn tẻ như hoang mạc Arabi, Dasht-e Kavir ở
Iran, hoang mạc Thar ở Tây Bắc Ấn Độ. Thực vật phổ biến ở đây là các loài cỏ hòa
thảo cứng và các cây bụi gai. Chỉ ở những vùng trũng thấp và dọc theo miền duyên
hải vịnh Persian, nhờ có nước ngầm lộ ra mà hình thành các ốc đảo. Các ốc đảo là
nơi có thực vật xanh tươi và có dân cư tập trung đông. Chà là là loại cây trồng chính
ở các ốc đảo này.
Vòng đai cận xích đạo
Vòng đai này hình thành trong đới khí hậu gió mùa xích đạo. Phụ thuộc vào phân
bố mưa và độ ẩm, cảnh quan thiên nhiên nơi đây có thể phân biệt thành hai đới khác
nhau.