Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

So sánh kết quả của X quang ngược đầu và X quang nằm sấp trong chẩn đoán dị dạng hậu môn trực tràng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.99 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

SO SÁNH KẾT QUẢ CỦA X QUANG NGƯỢC ĐẦU VÀ X QUANG NẰM
SẤP TRONG CHẨN ĐOÁN DỊ DẠNG HẬU MÔN TRỰC TRÀNG
Bùi Hải Trung*, Trương Nguyễn Uy Linh**

TÓM TẮT
Mục đích: so sánh khoảng cách từ bóng hơi trực tràng đến đường PC trên phim X quang thế ngược đầu và
phim X quang thế nằm sấp ở bệnh nhân dị dạng hậu môn - trực tràng.
Số liệu và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang trên những trẻ sơ sinh bị dị dạng hậu môn –
trực tràng tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ 01/10/2008 đến 31/09/2009.
Kết quả: có 50 bệnh nhân. Khoảng cách trung bình từ bóng hơi trực tràng tới đường PC trên X quang thế
ngược đầu là -2,56 ± 9,84 mm. Khoảng cách trung bình từ bóng hơi trực tràng tới đường PC trên X quang thế
nằm sấp là -7,58 ± 10,59 mm. Bóng hơi trực tràng trên X quang thế nằm sấp xuống thấp hơn trên X quang thế
ngược đầu trung bình là 5,02 mm (p < 0,001).
Kết luận: X quang thế nằm sấp có ưu điểm hơn X quang thế ngược đầu trong chẩn đoán dị dạng hậu môn trực tràng.
Từ khóa: X quang thế ngược đầu, X quang thế nằm sấp, sơ sinh, dị dạng hậu môn trực tràng

ABSTRACT
INVERTOGRAM AND PRONE CROSS-TABLE LATERAL VIEW IN DIAGNOSIS ANORECTAL
MALFORMATIONS
Bui Hai Trung, Truong Nguyen Uy Linh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 376 - 380
Purpose: To compare the distance from the rectal gas shadow to pubococcygeal line (PC line) on
invertogram and prone cross-table lateral view in diagnosis anorectal malformations.
Material and Method: A cross-sectional study on newborns with anorectal malformation at Children
Hospital No1 from 01/10/2008 to 31/09/2009.
Results: There were 50 patients. The mean distance from the rectal gas shadow to PC line on invertogram is
-2.56 ± 9.84 mm. The mean distance from the rectal gas shadow to PC line on prone cross-table lateral view is 7.58 ± 10.59 mm. The rectal gas shadow on prone cross-table lateral view was more caudal (5.02mm) than on


invertogram.
Conclusion: Prone cross-table lateral view has certain advantages over the invertogram in diagnosis
anorectal malformations.
Keyswords: Invertogram, prone cross-table lateral view, newborns, anorectal malformations.
1/4000-1/5000 trẻ sơ sinh và gặp ở nam nhiều
ĐẶT VẤN ĐỀ
hơn nữ(3,4,7,15).
Dị dạng hậu môn - trực tràng là bệnh bẩm
Để điều trị đạt kết quả tốt thì chẩn đoán
sinh đường tiêu hoá đứng thứ hai sau bệnh
chính xác thể loại dị dạng là hết sức quan trọng.
Hirschsprung và là bệnh cấp cứu thường gặp ở
Việc kết hợp các triệu chứng lâm sàng và các xét
trẻ sơ sinh. Theo y văn, bệnh có xuất độ từ
nghiệm chẩn đoán hình ảnh giúp ta đạt được
* Bệnh viện Nhi Đồng 2
** Bộ Môn Ngoại Nhi - ĐHYD TpHCM
Tác giả liên lạc: Bs Bùi Hải Trung
ĐT: (+84-8) 983741901
Email:

376

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
điều này. Mặc dù các xét nghiệm chẩn đoán
hình ảnh như siêu âm, chụp cắt lớp điện toán và
cộng hưởng từ đã được sử dụng trong chẩn

đoán dị dạng hậu môn - trực tràng nhưng X
quang không sửa soạn vẫn giữ vai trò quan
trọng, nhất là ở những nước đang phát triển(9,14).
Năm 1930, Wangensteen và Rice(18) là những
người đầu tiên mô tả việc sử dụng X quang thế
ngược đầu để xác định khoảng cách từ túi cùng
trực tràng đến da tầng sinh môn. Sau đó nhiều
tác giả khác(1,2,4,5,6,8,12,15, 17) đã sử dụng kỹ thuật này
để chẩn đoán thể loại dị dạng. Tuy nhiên, ở
nhiều nơi trên thế giới, X quang thế ngược đầu
không còn được sử dụng nữa mà đã được thay
thế bởi X quang thế nằm sấp do Narasimharao
giới thiệu vào năm 1983(10), vì X quang thế nằm
sấp có nhiều ưu điểm hơn.

Nghiên cứu Y học

hông gấp và giữ ở tư thế chéo với mặt phẳng
ngang 3 phút trước khi được chụp phim
nghiêng sao cho 2 ụ ngồi chồng lên nhau.
X quang thế ngược đầu (hình 2): Trẻ được
chụp sau sinh 18-24 giờ để hơi nuốt vào di
chuyển đến trực tràng, và khi dốc đầu phải chờ
3 phút để hơi lên vị trí cao nhất. Đặt trẻ nằm sao
cho 2 ụ ngồi chồng lên nhau.
Tia X quang được chiếu tập trung vào mấu
chuyển lớn và khoảng cách từ đầu đèn tới bệnh
nhân là 1m.

Ở Việt Nam, việc sử dụng X quang thế nằm

sấp chưa phổ biến và cũng chưa có công trình
nghiên cứu nào về kỹ thuật này. Do đó, chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm so sánh
khoảng cách từ bóng hơi trực tràng đến đường
PC trên phim X quang thế ngược đầu và phim X
quang thế nằm sấp ở bệnh nhân dị dạng hậu
môn - trực tràng.

SỐ LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Từ 01/10/2008 đến 31/09/2009, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu trên những trẻ sơ sinh nhập
viện tại bệnh viện nhi đồng 1 được chẩn đoán dị
dạng hậu môn - trực tràng không rò hoặc rò tiết
niệu ở trẻ nam và dị dạng hậu môn - trực tràng
không rò ở trẻ nữ, loại ra khỏi nghiên cứu trẻ
nam có rò tầng sinh môn và trẻ nữ có rò tiết niệu
hay sinh dục .

Hình 1: Tư thế chụp ngược đầu

Bệnh nhi được hỏi bệnh sử và khám lâm
sàng ghi nhận các đặc điểm về dịch tễ, thể loại dị
tật, dị tật phối hợp theo VACTERL.
Chúng tôi chụp 2 phim cho mỗi bệnh nhi ,
đầu tiên chụp X quang thế nằm sấp sau đó 20 30 phút chụp phim X quang thế ngược đầu:
X quang thế nằm sấp ( hình 1): trẻ được
chụp sau sinh 18 - 24 giờ để hơi nuốt vào di
chuyển đến trực tràng. Trẻ được đặt nằm sấp,

Ngọai Nhi


Hình 2: Tư thế chụp nằm sấp

377


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Các điểm mốc trên phim X quang:
P: phần cốt hóa của xương mu.
C: điểm C là phần thấp nhất của trung tâm
cốt hóa của xương cùng.
Đường PC là đường nối từ phần cốt hóa của
xương mu tới chỗ nối giữa xương cùng và
xương cụt. Nếu phần đuôi của xương cùng bị
thiếu, đường PC có thể vẽ từ xương mu qua
điểm tương tự trên xương ngồi là điểm nối 1/4
trên và 3/4 dưới.
I: điểm cốt hóa thấp nhất của xương chậu.
Sau đó, đo khoảng cách giữa bóng hơi trực
tràng với đường PC và đường I (tính bằng mm).
Giá trị dương khi bóng hơi trực tràng trên
đường PC, giá trị âm khi bóng hơi trực tràng
dưới đường PC.
Sử dụng các phép kiểm T cặp, chi bình
phương để kiểm định, so sánh các kết quả, với p
< 0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.


KẾT QUẢ
Từ 01/10/2008 đến 31/09/2009 có 50 bệnh nhi
thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh được đưa vào nghiên
cứu.

Phần lớn bệnh nhi (70% trường hợp) có dị
tật phối hợp thường gặp nhất dị tật tim mạch
(44% trường hợp), kế đến là dị tật tiết niệu (16%
trường hợp).

Kết quả của X quang thế ngược đầu và X
quang thế nằm sấp
Trung bình khoảng cách từ bóng hơi trực
tràng tới đường PC trên X quang thế ngược đầu
là -2,56 ± 9,84 mm, thấp nhất là -27 mm, cao nhất
là 13 mm. Trung bình khoảng cách từ bóng hơi
trực tràng tới đường PC trên X quang thế nằm
sấp là -7,58 ± 10,59 mm, thấp nhất là -32mm, cao
nhất là 6mm.
So sánh khoảng cách từ bóng hơi trực tràng
tới đường PC trên 2 thế chụp bằng phép kiểm T
cặp cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(t49= -4,3714, p=0,0001). Bóng hơi trực tràng trên
X quang thế nằm sấp xuống thấp hơn trên X
quang thế ngược đầu trung bình là 5,02 mm với
độ tin cậy là 95%.
Kết quả của X quang thế ngược đầu dựa trên
vị trí của bóng hơi trực tràng đối với đường PC
và điểm I:
Trên đường PC: 20 trường hợp.


Đặc điểm bệnh nhi

Dưới đường PC: 30 trường hợp.

Đa số bệnh nhi là nam (43 trường hợp), sanh
đủ tháng (92%).

Trên điểm I: 45 trường hợp.

Cân nặng lúc sinh trung bình là 2,84 ± 0,5 kg
(1,9-3,9 kg) với 35 trường hợp (70%) không nhẹ
cân, 15 trường hợp (30%) nhẹ cân.

Dưới điểm I: 5 trường hợp.
Kết quả của X quang thế nằm sấp dựa trên
vị trí của bóng hơi trực tràng đối với đường PC
và điểm I:

Thời gian từ lúc sinh đến lúc nhập viện
trung bình là 28,24 ± 35,19 giờ (1- 192 giờ).

Trên đường PC: 10 trường hợp.

Nôn là triệu chứng thường gặp ở bệnh nhi
nhập viện trễ (29 trường hợp (58%)).

Trên điểm I : 35 trường hợp.

Qua thăm khám , chúng tôi ghi nhận có 7

trường hợp (14%) trướng bụng nhẹ, 12 trường
hợp (24%) trướng bụng vừa, 15 trường hợp
(30%) trướng bụng nặng và 15 trường hợp (30%)
có rò phân qua đường tiết niệu.

378

Dưới đường PC: 40 trường hợp.
Dưới điểm I: 15 trường hợp.
Số bệnh nhi có bóng hơi trực tràng dưới
đường PC ở X quang thế nằm sấp nhiều hơn ở X
quang thế ngược đầu. Phép kiểm chi bình
phương cho thấy sự khác biệt về mặt thống kê
(χ2(1) = 13,021, p = 0,001).

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

bệnh nhân không có dị tật phối hợp nặng,
không bất sản xương cùng, nên thực hiện tạo
hình hậu môn theo ngã sau(13). Do đó, việc xác
định vị trí của bóng hơi trực tràng với đường
PC là 1 yếu tố quan trọng trong chẩn đoán và
điều trị dị dạng hậu môn - trực tràng ở giai
đoạn sơ sinh.
Qua so sánh khoảng cách từ bóng hơi trực

tràng đến đường PC trên 2 thế chụp, chúng tôi
nhận thấy bóng hơi trực tràng trên X quang thế
nằm sấp xuống thấp hơn thế ngược đầu trung
bình là 5,02mm. Kết quả này tương tự kết quả của
Narasimharao(10) với túi cùng xuống thấp hơn
trên X quang thế nằm sấp trung bình là 4mm.

Hình 3: X quang thế ngược đầu

Hình 4: X quang thế nằm sấp

BÀN LUẬN
Điều trị trẻ sơ sinh bị dị dạng hậu môn - trực
tràng chỉ nên được bắt đầu sau khi đánh giá
chính xác thể loại dị dạng: tạo hình hậu môn
một thì hay làm hậu môn tạm trong khi chờ
phẫu thuật thì hai. Trước đây, tạo hình hậu môn
một thì chỉ được thực hiện với dị dạng thấp( túi
cùng trực tràng xuống qua khỏi cơ nâng hậu
môn tương ứng với bóng hơi trực tràng ở dưới
điểm I trên phim X quang)(11,8,16). Tuy nhiên, vào
năm 2006, Marc A. Levitt và Alberto Peña cho
rằng nếu bóng hơi trực tràng dưới đường PC và

Ngọai Nhi

Trong nghiên cứu của ông chỉ có 2 trường
hợp bóng hơi trực tràng nằm trên đường PC
trên X quang thế ngược đầu nhưng xuống dưới
đường PC trên X quang nằm sấp, trong khi đó

chúng tôi ghi nhận được 10 trường hợp tương
tự. Sự khác biệt này có thể do cỡ mẫu của chúng
tôi lớn hơn. Khi so sánh vị trí của bóng hơi trực
tràng so với điểm I, chúng tôi ghi nhận có 5
trường hợp bóng hơi trực tràng nằm dưới điểm I
trên phim X quang thế ngược đầu trong khi đó
trên X quang thế nằm sấp có 15 trường hợp. Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Như vậy, X
quang thế nằm sấp có giá trị hơn so với X quang
thế ngược đầu trong chẩn đoán dị dạng hậu
môn – trực tràng cả ở dạng thấp và dạng cao.
Tương tự Narasimharao, chúng tôi nhận
thấy X quang thế nằm sấp có những thuận lợi
hơn so với X quang thế ngược đầu:
- Tư thế nằm sấp dễ dàng hơn cho bệnh nhi
và dễ chuẩn bị hơn, mặt khác nó tránh được
những biến chứng về mặt hô hấp, tuần hoàn khi
chụp ở tư thế ngược đầu nhất là ở trẻ có rò khí
quản – thực quản do trào ngược dịch dạ dày vào
đường hô hấp qua lỗ rò.
- Trẻ thường khóc khi chụp ở thế ngược đầu
làm co phức hợp cơ thắt và cơ mu trực tràng, do đó
làm bóng hơi trực tràng bị kéo lên cao gây sai lệch
trong chẩn đoán. Mặt khác, bóng hơi trực tràng bị
bao bọc bởi cơ thắt nên không hiện rõ trên phim.
Trong khi đó, trẻ nằm yên thoải mái khi chụp ở tư

379



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

thế nằm sấp giúp bóng hơi rõ hơn và ở vị trí thực
sự của nó giúp chẩn đoán chính xác.
- Trực tràng có thể bị kéo về phía đầu do
trọng lực ở tư thế ngược đầu làm bóng hơi bị
kéo lên cao hơn so với tư thế nằm sấp.
- Ở trẻ có rò đường tiết niệu hay sinh dục lỗ
rò ở vị trí cao nhất của trực tràng ở tư thế ngược
đầu nên hơi bị thoát ra ngoài qua lỗ rò làm cho
bóng hơi trực tràng không hiện rõ. Ở tư thế nằm
sấp, lỗ rò ở vị trí thấp nhất nên trực tràng chứa
đầy hơi và hiện rõ trên phim. Ông ghi nhận 9
bệnh nhi có rò trực tràng tiết niệu có bóng hơi rõ
hơn trên X quang nằm sấp.

KẾT LUẬN

4.
5.

6.

7.
8.

9.


10.

Qua nghiên cứu trên 50 trẻ sơ sinh bị dị
dạng hậu môn – trực tràng tại bệnh viện Nhi
đồng 1 từ 01/10/2008 đến 31/09/2009, chúng tôi
ghi nhận trên X quang thế nằm sấp, bóng hơi
trực tràng xuống thấp hơn 5,02mm so với X
quang thế ngược đầu. Mặt khác, X quang thế
nằm sấp có nhiều ưu điểm hơn. Vì vậy, chúng
tôi đề nghị sử dụng X quang thế nằm sấp để
thay thế cho X quang thế ngược đầu trong chẩn
đoán thể loại dị dạng hậu môn - trực tràng.

11.
12.
13.
14.
15.

16.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

380

Berman J.K. (1938) “Congenital anomalies of rectum and
anus”, Surg Gynecol Obstet, 66, pp.11-16.

Bradham R.R. (1958) “Imperforate anus: report of 130 cases”,
Surgery, 44, pp. 578-584.
Cho S., Moore S.P., Fangman T. (2001) “One hundred three
consecutive patients with anorectal malformations and their

17.
18.

associated anomalies”, Arch Pediatr Adolesc Med, 155, pp. 587–
591.
Crowell E.A., Dulin J.W. (1940) “Congenital anomalies of the
anus and rectum”, Surgery, 7, pp. 529.
Gans S.L., Friedmam N.B., David J.S. (1963). “Congenital
anorectal anomalies: changing concepts in management”, Clin
Pediatr, 2, p. 605.
Kiesewetter W.B., Turner C.R. (1963) “Continence after
surgery for imperforate anus: a critical analysis and
preliminary experience with the sacroperineal pull-through”,
Ann Surg, 158, pp. 498–512.
Ladd W.E., Gross R.E. (1934) “Congenital malformations of
the anus: report of 162 cases”, Am J Surg, 23, pp. 167–183.
Mayo C.W., Rice R.G. (1950) “Ano-rectal anomalies: a
statistical study of 165 cases with special reference to distal
loop trouble”, Surgery, 27, p. 485.
McHugh K. (1998) “The role of radiology in children with
anorectal anomalies; with particular emphasis on MRI”, Eur J
Radiol, 26, pp. 194–199
Narasimharao K.L., Prasad G.R., Katariya S., Yadav K., Mitra
S.K., Pathak I.C. (1983) “Prone cross-table lateral view: an
alternative to the invertogram in imperforate anus”, AJR Am J

Roentgenol, 140, pp. 227–229.
Nguyễn Thanh Liêm (2000). ”Dị tật hậu môn trực tràng”,
Phẫu thuật tiêu hóa trẻ em. Nhà xuất bản Y học, tr. 251-283.
Palmer J.A. (1956) “Congenital malformations of the anus”,
Can Med Assoc J, 74, pp. 882.
Peña A., Levitt M.A. (2006). “Anorectal Malformation”,
Pediatric Surgery, Mosby 6, Philadelphia, pp.1566-1589.
Shopfner C.E. (1965) “Roentgenologic evaluation of
imperforate anus, South Med J, 58, pp. 712–719.
Smith C.C. (1953) “Seven cases of imperforate anus treated by
the abdominoperineal placement of the rectum”, Acta Chir
Scand, 105 , pp. 305–310.
Stephens F.D., Smith E.D. (1988) “Anorectal malformations in
children: update 1988”, Birth Defects Orig Artic Ser, 24 , pp. 1–
604.
Trusler G.A., Wilkinson R.H. (1962) “Imperforate anus: a
review of 147 cases” Can J Surg, 5, pp. 269–277.
Wangensteen O.H., Rice C.O. (1930) “Imperforate anus. A
method of determining the surgical approach”, Ann Surg, 92,
pp. 77.

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em



×