Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số kinh nghiệm trong xây dựng chương trình thực nghiệm vi phẫu thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.29 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH  
THỰC NGHIỆM VI PHẪU THUẬT 
Cái Hữu Ngọc Thảo Trang*, Nguyễn Anh Tuấn* 

TÓM TẮT 
Mở  đầu:  Vi phẫu ngày càng được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực y khoa: khâu nối chi sau chấn 
thương trong chấn thương chỉnh hình, nối các mạch máu của các vạt tự do trong phẫu thuật tạo hình, phục hồi 
ống dẫn trứng hoặc ống dẫn tinh trong sản khoa cũng như các lĩnh vực khác như ngoại thần kinh,ngoại niệu, 
nhãn khoa, tai mũi họng… Do đó, việc thành lập các đơn vị vi phẫu, cả về thực nghiệm cũng như lâm sàng ngày 
càng cấp thiết. Kĩ thuật vi phẫu cần được huấn luyện thành thạo tại các trung tâm thực nghiệm trước khi tiến 
hành trên bệnh nhân. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có nhiểu các trung tâm thực nghiệm vi phẫu để hỗ trợ các 
nhà ngoại khoa hoàn thiện kĩ năng vi phẫu.  
Mục tiêu: Đưa ra một số hướng dẫn đề nghị để xây dựng mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu 
thuật từ mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm đào tạo và huấn luyện các kĩ năng căn bản.  
Đối  tượng  –  Phương  pháp:  Thống kê mô tả hoạt động các lớp thực nghiệm vi phẫu căn bản (chuần bị 
phòng thí nghiệm, kính, dụng cụ cần thiết, kĩ thuật khâu nối vi phẫu, đánh giá học viên). 
Kết quả: Chúng tôi đã đào tạo được tất cả 175 học viên: 45 học viên đào tạo 40 giờ và 130 học viên đào tạo 
20 giờ. Số học viên nối thông sau 30 phút 37/45 (82,22%) học viên đào tạo trong 40 giờ và 103/130 (79,23%.) 
đào tạo trong 20 giờ. Mô hình các lớp thực nghiệm vi phẫu cơ bản với chi phí không quá tốn kém và không yêu 
cầu nhiều dụng cụ phức tạp, chỉ cẩn kính hiển vi và một số dụng cụ vi phẫu. Do đó,việc triển khai các phòng thí 
nghiệm thực nghiệm vi phẫu có thể thực hiện ở các trung tâm thực nghiệm của các trường đại học và các đơn vi 
phẫu ở bệnh viện.Nhận thức và kĩ thuật vi phẫu là các nhân tố quyết định cần được hoàn thiện trước khi bước 
vào phòng mổ bằng cách luyện tập một cách thường xuyên tại các phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu. 
Kết luận: Ngày nay, các đơn vị vi phẫu ngày càng đóng vai trò quan trọng cả trong thực nghiệm và lâm 
sàng. Mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu đào tạo các kĩ năng vi phẫu cơ bản như chúng tôi mô tả có 
thể dễ dàng triển khai ở các các trung tâm thực nghiệm của các trường đại học và các đơn vi phẫu ở bệnh viện. 
Từ khoá: vi phẫu cơ bản, phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu, vi phẫu, đào tạo 



ABSTRACT 
SUGGESTED GUIDE FOR SETTING UP AN EXPERIMENTAL MICROSURGICAL LABORATORY 
Cai Huu Ngoc Thao Trang, Nguyen Anh Tuan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 317 ‐ 322 
The title of research: Nowadays, microsurgery is commonly used for the re‐implantation of limbs or fingers 
after traumatic amputation, to free flaps in reconstructive plastic surgery, for the rechanneling of vas deferens 
and uterine tubes, and in specialized fields such as neurosurgery, urologists, ophthalmology, orthopedics and oto‐
rhino‐laryngology. Thus, the organization of a microsurgery unit, both in experimental and clinical level, is very 
important.  The  microsurgical  skills  should  be  first  mastered  in  the  lab  before  being  employed  in  the  clinical 
practice.  However,  in  Vietnam,  there  is  actually  no  Experimental  Microsurgery  Center  that  can  support  the 
surgeons  to  improve  microsurgical  skills.  So,  we  apply  Experimental  Microsurgery  Center  with  the  first  aim: 
* Bộ môn PT TH‐TM ĐHYD TP. HCM và khoa TH‐TM BV ĐHYD 
Tác giả liên lạc: BS Cái Hữu Ngọc Thảo Trang
ĐT: 0908 947 817

Tạo Hình Thẩm Mỹ 

Email:  

317


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

training the basic skill of microsurgery. 
Background  –Objectives:  The  goals  of  this  article  is  to  provide  suggested  guide  for  setting  up  a 
Experimental  Microsurgical  laboratory  and  to  review  basic  microsurgical  skills  using  synthetic  and  animal 

models. 
Method:  Describe  logistically  the  Based  Microsurgery  training  courses  (Set  up  an  Microsurgery  Lab, 
Suture Technique, and Evaluation Microsurgical Skills) at Experimental Surgery Center of Ho Chi Minh City 
University of Medicine and Pharmacy from2009 to 2013 
Results:  We have 175 trainees : 45 trainees of basic course 40 hours and 130 trainees of basic course 20 
hours.  Evaluation  the  patency  of  microvascular  anastomosis  at  30minutes:  37/45  (82.22%)  and  103/130 
(79.23%) well done. Establishing an Experimental Microsurgical Laboratory needs not be expensive and does not 
require  a  lot  of  elaborate  equipment  beyond  an  adequate  operating  microscope  and  select  microsurgical 
instruments. So the microsurgical lab has to be applied at the Experimental Surgery Centers of University and in 
Microsurgery Units of the hospitals. Cognitive and technical competency in microsurgery, that are essential keys 
before  entering  the  operating  room  are  established  through  repeated  practice  in  anExperimental  Microsurgical 
Laboratory. 
Conclusion:  Nowadays,  Microsurgery  Unit,  both  in  experimental  and  clinical  level,  plays  an  important 
role.  The  model  Experimental  Microsurgical  Laboratory  that  we  describe  could  be  implemented  easily  in  the 
Experimental Surgery Centers of University and Microsurgery Units of the hospitals. 
 Keywords: Microsurgical, Microsurgical Experimental Laboratory, Microsurgery, training 
các  phẫu  thuật  viên  VP  phải  thường  xuyên 
MỞ ĐẦU 
luyện  tập  để  nhuần  nhuyễn  kĩ  năng  của  mình. 
Vi  phẫu  thuật  (VPT),  là  thuật  ngữ  chỉ  các 
Mặt khác, VPT  ngày  càng  được  phổ  biến  trong 
phẫu  thuật  (PT)  đòi  hỏi  phải  sử  dụng  các  loại 
nhiều  lĩnh  vực  phẫu  thuật  khác  nhau.  Do  vậy, 
kính  phóng  đại  (kính  lúp,  kính  hiển  vi  phẫu 
nhu  cầu  thành  lập  các  phòng  thí  nghiệm  thực 
thuật) và các dụng cụ nhỏ, tinh vi để thực hiện 
nghiệm vi phẫu càng được đạt ra.  
phẫu thuật trên các cấu trúc giải phẫu nhỏ (kích 
Việt Nam hiện tại phẫu thuật viên VPT vẫn 
thước khoảng 1mm): thần kinh, mạch máu … 

còn thiếu và chưa có các trung tâm đào tạo cũng 
Kỉ  nguyên  vi  phẫu  bắt  đầu  bằng  kĩ  thuật 
như huấn luyện kĩ năng vi phẫu một cách chính 
“triangulation”của  A.Carrel  vào  năm  1902.  Sau 
quy.  Chúng  tôi  mô  tả  thống  kê  lại  các  lớp  tập 
đó  là  hàng  loạt  các  bước  tiến:  Nylen  bắt  đầu 
huấn thực nghiệm vi phẫu căn bản chúng tôi đã 
những  phẫu  tích  đòi  hỏi  sự  chính  xác  cao  độ 
thực  hiện  tại  Trung  tâm  thực  nghiệm  ĐH  Y 
trên thỏ năm1921(2), Jacobson và Suarez khâu nối 
Dược  TP  HCM  nhằm  đưa  ra  một  mô  hình 
mạch  máu  bằng  kính  hiển  vi  năm1960,  Chen 
phòng  thí  nghiệm  thực  nghiệm  vi  phẫu  có  thể 
khâu  nối  cánh  tay  đầu  tiên  1963,  Tamai  và 
phổ biến dễ dàng tại các trung tâm thực nghiệm 
Komatsu nối thành công ngón tay cái năm 1968 
trường đai học và các đơn  vi  VP  các  bệnh  viện 
và  Cobbet  nối  thành  công  ngón  chân  cái  năm 
nhằm tạo điều kiện cho  các  phẫu  thuật  viên  có 
1969(3). Hiện nay, VPT còn chú trọng hướng phát 
thể luyện tập kĩ năng vi phẫu thường xuyên. 
triển  các  loại  vạt  nhằm  mục  đích  tái  tạo  các 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
khuyết hổng khác nhau của cơ thể. 
Công  nghệ  khoa  học  phát  triển  hỗ  trợ  rất 
nhiều cho các phẫu thuật viên vi phẫu nhưng kĩ 
năng bóc tách cùng kĩ năng khâu nối của phẫu 
thuật  viên  vẫn  giữ  vai  trò  quyết  định  sự  thành 
công  của  VPT.Nghĩa  là  muốn  VPT  thành  công, 


318

Phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu 
Kính hiển vi – Kính lúp 
Chúng  tôi  có  6  kính  hiển  vi  vi  phẫuvới  độ 
phóng  đại  x6  ‐  x16  (Operation  Microcope): 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
China 106132; Takaci OM ‐ 05 (Japan); Mega ‐ L ‐ 
0970  (Japan);  Seto  ‐  SEL  ‐  0990  (Japan);  Phaco 
Leica  ‐  M  ‐  690  (Germany);  và  OPTO  – 
OPTIKON. 
Kính hiển vi của người hướng dẫn có nối với 
màn hình ti vi bên ngoài để  học viên có thể dễ 

dàng theo dõi các thao tác của người hướng dẫn. 
Chúng  tôi  bố  trí  làm  việc  theo  nhóm.  Mỗi 
nhóm  gồm  2  học  viên.  Khi  thực  hành,  lần  lượt 
từng học viên sẽ đóng vai trò mổ chính‐ sử dụng 
kính  hiển  vi  để  bóc  tách  và  khâu  nối,  học  viên 
còn lại mang kính lúp x3.5 phụ mổ. 

 
Hình 1: Kính hiển vi – Kính lúp – Dụng cụ vi phẫu 

Dụng cụ 
Mỗi  bộ  dụng  cụ  cho  mỗi  nhóm  học  viên 

gồm: banh tự động, cán dao số  7, kéo Westcott 
cong, kép vi phẫu thẳng, kéo Metzenbaunm, kéo 
Steven, nhíp cong, nhíp thẳng, nhíp không mấu 
cong, nhíp không mấu thẳng, nhíp không mấu, 
nhíp có mấu, Bulldog cong, Bulldog thẳng, kẹp 
mang  kim  thẳng,  kẹp  mang  kim  cong,  kẹp 
Hartman thẳng, kẹp Hartman cong. 
Các  dụng  cụ  vi  phẫu  cần  đươc  sử  dụng  và 
bảo  quản  một  cách  kĩ  lưỡng.  Sau  khi  sử  dụng, 
các dụng cụ vi phẫu cần được ngâm, lau rửa nhẹ 
nhàng, để khô, bọc đầu bảo vệ bằng bọc nhựa. 
Các dụng cụ hổ trợ: lưỡi dao, ống tiêm, kim 
luồn,  gạc,  băng  keo,  nón,  mask,  bàn  mổ  cho 
chuột. 

Tạo Hình Thẩm Mỹ 

Nghiên cứu Y học

 

Heparin  pha  nước  muối  sinh  lí  theo  tỉ  lệ 
5000UI/500ml,  gây  mê  chuột  bằng  Ketamine 
Hydroclorid  10ml  với  liều  0.25ml/100g  chuột, 
gây  tê  tại  chỗ  bổ  sung  bằng  Lidocaine  2% 
40mg/2ml  

Môi trường thực nghiệm 
Cần  tạo  ra  sự  thoải  mái  tuyệt  đối  cho  học 
viên  vì  để  có  được  các  thao  tác  vi  phẫu  chuẩn 

xác  cần  sự  kiên  nhẫn  trong  thời  gian  dài  cũng 
như sự luyện tập thường xuyên. 
Học viên phải sử dụng thành thạo kính hiển 
vi: chọn độ phóng đại phù hợp cho từng thao tác 
để mắt nhìn rõ nhất.  

Kĩ thuật khâu nối 
Độ  khó  của  kĩ  thuật  vi  phẫu  căn  bản  được 

319


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 
nâng lên từng bước như sau: 

Ngày 1: thực hiên các thao tác khâu trên gant 
với chỉ 7.0. 
Ngày 2: thực hiện các thao tác khâu nối trên 
cuống rốn người với chỉ 8.0. 
Ngày 3: thực hiện các thao tác khâu nối trên 
động mạch cảnh chuột với chỉ 9.0. 
Ngày 4: thực hiện các thao tác khâu nối trên 
động mạch cảnh chuột với chỉ 10.0. 
Ngày 5: thực hiện các thao tác khâu nối trên 
động  mạch  cảnh  chuột  với  chỉ  10.0  (đánh  giá 
cuối đợt huấn luyện). 
Sau khi bọc lộ động mạch cảnh chuột, chuẩn 
bị miệng nối kẹp giữ bằng Bulldog, học viên sẽ 

tiến  hành  khâu  nối  tận  ‐  tận  từ  6‐8  mũi  khâu. 
Hai mũi khâu đầu tiên có thể theo phân bố ỏ vị 
trí 0o‐180 o hoặc 0o‐1200. 

Chúng  tôi  tổ  chức  được  2  mô  hình  lớp  vi 
phẫu căn bản gồm: lớp vi phẫu căn bản định kì 
hàng  năm  40  giờ  cho  tất  cả  các  học  viên  trong 
nước và nước ngoài, chứng chỉ vi phẫu căn bản 
cho lớp định hướng tạo hình thẩm mỹ 20 giờ. 

Đánh giá học viên 
Kĩ  năng  của  học  viên  được  đánh  giá  thông 
qua thao tác trong suốt quá trình học và kết quả 
nối  thông  nối  cuối  cùng.  Mỗi  học  viên  nộp  bài 
thu hoạch về khoá huấn luyện. 
Đánh  giá  sự  thông  nối  của  miệng  nối  ngay 
sau khi nối và 30 phút sau khi nối xong. 

KẾT QUẢ 
Chúng  tôi  có  175  học  viên  đã  tham  dự  lớp 
thực  nghiệm  vi  phẫu  căn  bản  với  số  dụng  cụ 
tiêu hao như sau:  

Bảng 1: Thống kê vật tư tiêu hao trên mỗi học viên 
Vật tư

Đơn vị

Chỉ premilene 7-0
Chỉ premilene 8-0

Chỉ premilene 9-0
Chỉ premilene 10-0
Khâu da chỉ soir
Lưỡi dao
Ống tiêm
Kim luồn
Gant
Gạc
Băng keo
Nước muối
Thuốc Heparin
Thuốc Ketamin
Thuốc Lidocain
Nón
Mask
Dung dịch sát khuẩn
Chuột

sợi
sợi
sợi
sợi
sợi
cái
ống
cây
hộp (50 đôi/ hộp)
Gói (05 miếng/ gói)
cuộn (12 cuộn/ hộp)
chai

lọ
lọ
hộp 100 ống/ hộp)
cái
hộp (50 cái/ hộp)
chai
con

Tiêu hao cho 45 Trung bình 1 học Tiêu hao cho 130 Trung bình 1
học viên 40 giờ
viên 40 giờ
học viên 20 giờ học viên 20 giờ
51
1,13
172
1,32
91
2,02
180
1,38
345
7,67
410
3,15
60
1,33
201
1,55
93
2,07

120
0,92
137
3,04
265
2,04
395
8,78
590
4,54
175
3,89
482
3,71
50
1,11
45
0,35
125
2,78
350
2,69
31
0,69
59
0,45
14
0,31
28
0,22

6
0,13
10
0,08
42
0,93
62
0,48
4
0,09
7
0,05
140
3,11
307
2,36
14
0,31
18
0,14
8
0,18
13
0,10
221
4,91
290
2,23

Số học viên nối thông khi đánh giá 37/45 học 

viên  đào  tạo  trong  40  chiếm  82,22%  và  103/130 
chiếm 79,23%. 

BÀN LUẬN 
Qua  thực  tế  triển  khai  mô  hình  thực 
nghiệm  vi  phẫu  tại  Trung  tâm  thực  nghiệm 

320

ĐH  Y  Dược  TP  HCM  2009  ‐2013  chúng  tôi 
nhận thấy rằng mô hình thực nghiệm vi phẫu 
triển khai để đào tạo kĩ năng vi phẫu căn bản 
không  quá  tốn  kém  và  có  thể  triển  khai  ở  các 
trung tâm thực nghiệm của các trường đại học 
cũng như các đơn vị vi phẫu tại các bệnh viện 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
để  tạo  điều  kiện  cho  các  phẫu  thuật  viên  vi 
phẫu thường xuyên tập luyện. 
Các dụng cụ vi phẫu và các loại vật tư đơn 
giản, phổ biến chúng tôi sử dụng trong mô hình 
khá tương đồng với các nước trên thế giới như 
Akanksha  Mehta  and  Philip  S  Li  và  cộng  sự(7), 
Diogo Almeida Lima và cộng sự(5), hay Martins 
PNA, Montero EFS và cộng sự(6) đã tổng kết. 
Theo Leung CC và cộng sự(4) tổng kết về mô 
hình đào tạo và huấn luyện vi phẫu toàn cầu để 

đưa ra một mẫu mô hình thống nhất chung toàn 
thế  giới  dựa  trên  cơ  sở  dữ  liệu  của  PubMed, 
MEDLINE (Ovid) và EMBASE 
(Ovid) được công bố trong vòng 20 năm qua 
(1992‐2012)  phối  hợp  với  thông  tin  Internet  và 
khảo sát trên giảng giảng viên và học viên tham 
gia vào mô hình đảo tạo vi phẫu khắp 6 châu lục 
với  27  trung  tâm  và  39  hoá  học,  có  2  loại  mô 
hình đào tạo VPT. Loại  A,  đào  tạo  vi  phẫu  căn 
bản trong 20 – 40 giờ, học viên sẽ thực hành làm 
quen  bước  đầu  trên  các  loại  mô  hình  nhân  tạo 
như găng tay, silicone dạng ống hoặc dạng tấm. 
Sau  đó,  họ  viên  được  khâu  nối  các  động  mạch 
lớn  hơn  1mm  như  động  mạch  chủ  và  động 
mạch cảnh của chuột. Ngoài ra các loại mô động 
vật cũng có thể được sử dụng: cổ gà, động mạch 
cảnh chuột bảo quản lạnh hay động mạch vành 
của heo. Loại động vật sống thường sử dụng để 
thực  nghiệm  thường  gặp  nhất  là  chuột  chiếm 
90%.  Hầu  hết  các  khoá  huấn  luyện  đào  tạo  kĩ 
năng nối tận – tận cho học viên, ngoài ra có thể 
bố sung thêm các khái niệm nối tận ‐ bên, ghép 
tĩnh  mạch,  nối  thần  kinh  ngoại  biên  cũng  như 
chuyển vạt.  
Trong mô hình mô tả, chúng tôi dùng găng 
tay, cuống rốn người và chuột 250 – 350g để là 
phương tiện đào tạo cho học viên và huấn luyện 
chủ  yếu  kĩ  năng  nối  tận  –  tận.  Khi  thực  hiện 
khâu nối trên gant bằng Premilene 7.0, học viên 
bước đầu làm quen với kính và các dụng cụ  vi 

phẫu.  Với  kính  hiển  vi  vi  phẫu,  học  viên  học 
cách tự chỉnh kính các độ phóng đại khác nhau 
để thuận tiện nhất trong các bước thao tác. Học 
viên  trong  vai  trò  người  phụ  sẽ  làm  quen  với 

Tạo Hình Thẩm Mỹ 

Nghiên cứu Y học

kính lúp với độ phóng đại x 3.5. Các đường rạch 
trên gant gồm các đường ngang và đường chéo 
để  làm quen  với thao tác trên dụng cụ  vi  phẫu 
và  chỉ.  Đa  số  các  học  viên  gặp  nhiều  khó  khăn 
do chưa quen với dụng cụ vi phẫu và kính hiển 
vi cũng như kính lúp. Các thao tác bằng tay khi 
sử  dụng  dụng  cụ  vi  phẫu  không  đúng  dễ  mỏi 
tay và thao tác không chính xác. Đến buổi thực 
tập thứ 2 trên cuống rốn: tách độnh mạch cuống 
rốn và nối tận tận. Học viên đã quen dần với các 
dụng  cụ  vi  phẫu  nên  thao  tác  gọn  gàng  hơn 
chúng  tôi  cho  học  viện  dùng  chỉ  nhỏ  hơn 
Premilene 8.0. Buổi thực tập thứ 3 và thứ 4 tiến 
hành bóc tách và khâu nối mạch máu trên chuột. 
Học  viên  được  hướng  dẫn  gây  mê  bắng 
Ketamine, gây tê tại chỗ bổ sung bằng Lidocaine 
2%  và  bóc  tách  độnh  mạch  cảnh  trên  chỉ 
Premilene 9.0 và 10.0. Khi sủ dụng Premilene 9.0 
và  10.0,  học  viên  không  chú  ý  dễ  làm  mất  chỉ 
khâu. Các thao tác của học viên trong quá trình 
bóc tách nếu không chú ý có thể đề lên bụng của 

chuột trong thời gian dài có thể làm cho chuột tử 
vong trước khi khâu nối xong mạch máu, sẽ khó 
đánh giá kết quả thông nối. 
 Theo kết quả đánh giá cuối cùng thì tỉ lệ nối 
thông  của  các  học  viên  theo  khoá  học  40  giờ 
(82,22%) cao hơn các các học viên theo khoá học 
20 giờ (79,23%). Cần có nhiều nghiên cứu hơn để 
chứng  minh  thời  gian  luyện  tập  ảnh  hưởng  rõ 
rệt lên kĩ năng vi phẫu của phẫu thuật viên. 
Với mô hình đào tạo vi phẫu nâng cao, thời 
gian yêu cầu từ 12‐1950 giờ, linh động theo học 
viên.  Nội  dung  của  khoá  học  vẫn  là  tiếp  tục 
nhuần  nhuyễn  các  kĩ  năng  vi  phẫu  căn  bản  và 
thực  hành  thêm  một  số  kĩ  năng  nâng  cao  như 
nối tai thỏ, chuyển vạt bẹn với bó mạch thượng 
vị nông hoặc bó mạch đùi làm nơi nhận, và các 
kĩ thuật vi phẫu chuyên biệt cho nam khoa, sản 
khoa hay ngoại thần kinh. 
Các  lớp  đào  tạo  thực  nghiệm  vi  phẫu  có  3 
cách đánh giá: một là đánh giá không chính thức 
chủ  yếu  dựa  vào  cảm  giác  chủ  quan  của  giảng 
viên về học viên, hai là đánh giá thông nối sau 
30 phút đến 2 giờ và ba là đánh giá tắc muộn sau 

321


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014


12‐24 giờ. Hơn 75% các mô hỉnh huấn luyện vi 
phẫu đơn giản type A có đánh giá không chính 
thức.  Với  mô  hình  của  chúng  tôi,  kĩ  năng  của 
học viên được đánh giá thông qua thao tác trong 
suốt quá trình học và kết quả nối thông nối cuối 
cùng.  Mỗi  học  viên  nộp  bài  thu  hoạch  về  khoá 
huấn  luyện.  Đánh  giá  sự  thông  nối  của  miệng 
nối  ngay  sau  khi  nối  và  30  phút  sau  khi  nối 
xong. 
Hiện  nay,  chúng  ta  có  thế  đánh  giá  chính 
thức kĩ năng của học viên qua bảng điểm thống 
nhất toàn cầu global rating scale (GRS), dựa trên 
kĩ thuật thực hiện vả thới gian thực hiện. 
Với các mô hình nhân tạo găng tay, silicone 
dạng ống hoặc dạng  tấm  có  lợi  điểm  là  dễ  vận 
chuyển  nhưng  lại  bị  giới  hạn  vể  thời  gian  sử 
dụng  và  mức  độ  thực  tế  khi  thực  tập.  Với  mô 
hình động vật sống là chuột, học viên sẽ có cản 
nhận như  trong một cuộc mổ  thật  sự  và  có  thể 
kiểm  tra  khà  năng  thông  nối  vì  có  hiện  tượng 
đông cầm máu tương đối giống như  trê người. 
Tuy nhiên vấn đề sử dụng chuột sẽ phải đối mặt 
với các vấn đề đạo đức Russell. 

tiện nắm bắt kĩ thuật nhanh hơn, tốn ít thời gian 
hơn.  Đồng  thời  với  giáo  trình  vi  phẫu  căn  bản 
như vậy có thể hỗ trợ được học viên từ xa khi tự 
luyện  tập  một  mình  sau  khoá  huấn  luyện  kết 
thúc. Chúng tôi cũng đã lên kế hoạch để tổ chức 

những lớp huấn luyện các lớp vi phẫu nâng cao.  

KẾT LUẬN 
Xây  dựng  mô  hình  thực  nghiệm  vi  phẫu 
phuc vụ đào tạo các kĩ năng vi phẫu căn bản cho 
các  nhà  ngoại  khoa  mang  tính  khả  thi  cao: 
không  quá  tốn  kém  và  có  hiệu  quả  rõ  rệt,  nên 
được  triển  khai  tại  các  trung  tâm  phẫu  thuật 
thực nghiệm của đại học Y khoa vá các đơn vị vi 
phẫu của các bệnh viện. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

3.

Burch  3  R  của  “Replacement,  Refinement 
and  Reduction”  ‐  ʺ  thay  thế,  sàng  lọc  và  giảm 
thiểuʺ việc sử dụng các mô hình động vật sống 
trong  các  nghiên  cứu(1).  Hiện,  chuột  chúng  tôi 
thực hiện trong mô hình có thông qua hội đồng 
của  nhà  trường  và  tất  cả  những  con  chuột  sau 
thí nghiệm đều được khâu da và xử lí tôn trọng 
và cẩn thận. 

4.

Tuy  nhiên  chúng  tôi  nhận  thấy  rằng  cần 
hoàn  thiện  hơn  nữa  mô  hình  thực  nghiệm  vi 

phẫu trên để nâng cao hơn nữa chất lượng trong 
cũng  như  sau  quá  trình  đào  tạo.  Chúng  tôi  sẽ 
hoan thiện sớm giáo trình thực nghiệm vi phẫu 
gồm bài giảng và video để học viên có thể thuận 

 

5.

6.

7.

Baumans V (2004). Use  of  animals  in  experimental  research: 
an ethical dilemma? Gene Ther.11:64‐66. 
Ferreira MC (2005). Microcirurgia reconstrutiva: a história da 
microcirurgia  no  Brasil.  In:  Bijos  P,  Zumiotti  AV,  Rocha  JR, 
Ferreira  MC,  eds.  Microcirurgia  reconstrutiva.  São  Paulo: 
Atheneu;516. 
Galvão MSL(1985).The role of reconstructive microsurgery in 
cancer surgery.In: Fifth Congress of the European Section of 
the International Confederation for Plastic and Reconstructive 
Surgery.Stockholm, Sweden. 
Leung  cc  et  al  (2013).Towards  a  Global  Understanding  and 
Standardisation  of  Education  and  Training  in  Microsurgery. 
Arch Plast 40:304‐311. 
Lima  DA  et  al.(2012).Laboratory  training  program  in 
microsurgery  at  the  National  Cancer  Institute.  Rev  Bras  Cir 
Plást 27(1):141‐9. 
Martins  PNA,  Montero  EFS  (2006).Organization  of  a 

microsurgery laboratory Acta Cirúrgica Brasileira ‐21 (3):187‐
189.  
Mehta A, Li PS (2013). Male infertility microsurgical training. 
Asian Journal of Andrology 15(1): 61–66. 

Ngày nhận bài báo: 14/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

 

322

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×