Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Hiệu quả sử dụng Dexamethasone dạng uống và dạng chích trong kiểm soát đau, sưng, khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.49 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DEXAMETHASONE DẠNG UỐNG  
VÀ DẠNG CHÍCH TRONG KIỂM SOÁT ĐAU, SƯNG, KHÍT HÀM  
SAU PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI 
Nguyễn Thị Ngọc Anh*, Lê Huỳnh Thiên Ân*, Võ Đắc Tuyến* 

TÓM TẮT 
Mục  tiêu: Đau, sưng và khít hàm là những biến chứng thường gặp sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm 
dưới  gây  nhiều  khó  chịu  và  lo  lắng  cho  bệnh  nhân.  Nghiên  cứu  này  thực  hiện  nhằm  đánh  giá  hiệu  quả  của 
Dexamethasone dạng uống và dạng chích trong việc kiểm soát đau, sưng và khít hàm sau phẫu thuật răng khôn 
hàm dưới. 
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn. Mẫu thuận tiện gồm 60 bệnh nhân (19‐32 tuổi) có chỉ định 
và  nhu  cầu  nhổ  răng  khôn  hàm  dưới  mọc  lệch  được  chia  ngẫu  nhiên  thành  2  nhóm:  nhóm  sử  dụng 
Dexamethasone dạng chích và nhóm sử dụng dạng uống. Đau, sưng và khít hàm được đánh giá trong 2 ngày 
sau phẫu thuật. Đau được đánh giá theo chủ quan của bệnh nhân bằng phiếu đánh giá đau (thang Likert 7 điểm). 
Mức độ sưng mặt được đo bằng thước dây, đo khoảng cách các điểm mốc trên mặt. Khít hàm được đánh giá 
thông qua độ há miệng của bệnh nhân bằng cách dùng thước kẹp đo khoảng cách từ rìa cắn răng cửa giữa hàm 
trên với rìa cắn răng cửa giữa hàm dưới. 
Kết  quả:  Hiệu  quả  giảm  đau,  mức  độ  sưng  theo  chiều  ngang  và  chiều  dọc,  mức  độ  há  miệng  giữa 
Dexamethasone dạng uống so với dạng chích không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Mức độ sưng theo chiều 
ngang và chiều dọc ở 2 nhóm uống và nhóm chích vào ngày thứ nhất và thứ 2 sau phẫu thuật so với trước phẫu 
thuật tăng lên, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Độ há miệng ở 2 nhóm giảm có ý nghĩa vào ngày thứ nhất và 
ngày thứ 2 sau phẫu thuật so với thời điểm trước phẫu thuật. 
Kết  luận: Hiệu quả kiểm soát đau, sưng và khít hàm của Dexamethasone sau phẫu thuật răng khôn hàm 
dưới sử dụng qua đường uống và đường chích tương tự nhau. Tuy nhiên sử dụng Dexamethasone qua đường 
uống có tính ít xâm lấn, ít biến chứng và dễ được bệnh nhân chấp nhận hơn. 
Từ khóa: Đau, sưng, khít hàm. 


ABSTRACT  
EFFECT OF ORAL ADMINISTATION AND INJECTION OF DEXAMETHASONE  
ON PAIN, EDEMA AND TRISMUS IN IMPACTED LOWER THIRD MOLAR SURGERY 
Nguyen Thi Ngoc Anh, Le Huynh Thien An, Vo Dac Tuyen  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 358 ‐ 365 
Purpose: Pain, swelling and trismus are common complications after third molar surgery, associated with 
considerable postoperative discomfort for patient. This study was conducted to evaluatethe efficacy between oral 
administration and local injection of Dexamethasone in controlling pain, edema and trismus  after  third  molar 
surgery. 
Methods: Single‐blind clinical trial was carried out involving 60 lower third molar surgeries in 60 patients 
between January 2013 and May 2013. The sample was randomly divided into 2 groups: group A: dexamethasone 
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM  
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Ngọc Anh ĐT: 0933212323 

358

Email: 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

0,5 mg ‐ 8 tablets (4mg) taken systemically 1h before the procedure, group B: dexamethasone 4mg/mL through 
the parenteral route in the immediate preoperative period. On the first and second day following surgery, linear 
edema  was  determined  using  facial  landmarks  and  maximal  mouth  opening  measurements  were  performed. 
Postoperative pain was recorded using a 7‐point Likert‐ type scale. 
Results:  Effective  pain,  swelling  degree  horizontally  and  vertically,  and  trismus  between  oral 

administration compared with local injection no differences were statistically significant. There was an increase 
in all facial measurements between preoperative baseline values and those on the first and second day following 
surgery as well as a decrease in interincisor distance.  
Conclusion: The administration of parenteral dexamethasone in the form of intramuscular injection in the 
masseter  muscle  and  the  enteral  route  in  a  tablet  form  demonstrated  similar  effects  in  reducing  pain,  edema, 
trismus following lower third molar extraction. 
Keywords: Pain, edema, trismus 

MỞ ĐẦU 
Phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới là một 
thủ thuật thường gặp trong thực hành nha khoa 
hằng  ngày.  Tuy  nhiên,  phẫu  thuật  nhổ  răng 
khôn có tính xâm lấn đáng kể vào mô xương và 
mô  mềm  xung  quanh,  do  đó  có  thể  gây  nhiều 
biến chứng và khó chịu cho bệnh nhân sau phẫu 
thuật, đáng kể nhất là đau, sưng và khít hàm.  
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu sử 
dụng  thuốc  để  giảm  các  biến  chứng  đau,  sưng 
và khít hàm. Thường nhất là sử dụng các thuốc 
kháng  viêm  không  steroid  hoặc  thuốc  kháng 
viêm  steroid.  Một  số  nghiên  cứu  cho  thấy  sử 
dụng thuốc kháng viêm không steroid ít có hiệu 
quả giảm đau và sưng, hoặc một số nghiên cứu 
so  sánh  giữa  việc  sử  dụng  thuốc  kháng  viêm 
không steroid và thuốc kháng viêm steroid cho 
thấy  thuốc  kháng  viêm  không  steroid  khi  kết 
hợp  với  thuốc  steroid  có  hiệu  quả  giảm  đau, 
sưng  và  khít  hàm  tốt  hơn  là  khi  chỉ  sử  dụng 
kháng viêm không steroid(3,5,8,12).  
Trong  số  các  thuốc  kháng  viêm  steroid, 

Dexamethasone  là  một  thuốc  kháng  viêm  tổng 
hợp tương tự như Prednisone nhưng có tiềm lực 
kháng  viêm  mạnh  hơn  gấp  6  lần  và  khá  hiệu 
quả trong việc giảm đau, sưng, và khít hàm sau 
phẫu thuật răng khôn hàm dưới(2).  
Các  nghiên  cứu  gần  đây  ở  nước  ta  nhằm 
đánh giá tình trạng sưng và đau, và hiệu quả sử 
dụng  thuốc  trong  việc  giảm  sưng  và  đau  sau 
phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới(4,7,10,11) cũng 

Răng Hàm Mặt 

thường  sử  dụng  các  thuốc  kháng  viêm  không 
steroid,  chưa  có  nghiên  cứu  nào  đề  cập  đến 
thuốc kháng viêm steroid.  

Mục tiêu tổng quát 
Đánh giá hiệu quả của Dexamethasone dạng 
uống  và  dạng  chích  trong  việc  giảm  đau,  sưng 
và  khít  hàm  sau  phẫu  thuật  răng  khôn  hàm 
dưới. 

Mục tiêu cụ thể 
Xác định và so sánh kết quả giảm đau trong 
hai  ngày  sau  phẫu  thuật  răng  khôn  hàm  dưới 
khi  sử  dụng  Dexamethasone  trước  phẫu  thuật 
qua  đường  uống  và  qua  chích  thuốc  trực  tiếp 
vào mô mềm vùng phẫu thuật. 
Xác  định  và  so  sánh  kết  quả  giảm  sưng  và 
khít  hàm  trong  hai  ngày  sau  phẫu  thuật  răng 

khôn  hàm  dưới  khi  sử  dụng  Dexamethasone 
qua  đường  uống  và  qua  chích  thuốc  trực  tiếp 
vào mô mềm vùng phẫu thuật. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Chọn mẫu thuận tiện gồm 60 bệnh nhân đến 
nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm tại bộ 
môn  Phẫu  thuật  miệng,  Khoa  Răng  Hàm  Mặt, 
Đại  Học  Y  Dược  Tp.  Hồ  Chí  Minh  từ  tháng 
1/2013  đến  tháng  5/2013.  Thoả  tiêu  chí  chọn 
mẫu:  có  răng  khôn  hàm  dưới  lệch  ngầm  thuộc 
phân loại I, II, III và độ sâu B, C dựa theo phân 
loại  của  Pell  và  Gregory.  Loại  trừ  những  bệnh 
nhân  dị  ứng  với  thuốc  trong  nghiên  cứu,  đang 

359


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

sử  dụng  bất  kỳ  một  loại  thuốc  nào  khác  trong 
thời  gian  nghiên  cứu,  có  bệnh  toàn  thân:  tim 
mạch, cao huyết áp, tiểu đường…, đang có thai 
hoặc cho con bú, đang có tình trạng nhiễm trùng 
tại  chỗ,  không  hợp  tác  trong  quá  trình  nghiên 
cứu... 


Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Thử nghiệm lâm sàng mù đơn không nhóm 
chứng 

Mỗi bệnh nhân được kê một toa thuốc gồm 
thuốc kháng sinh và thuốc giảm đau. 
Amoxicillin 500mg, 15 viên, ngày uống 3 lần, 
mỗi lần 1 viên. 
Paracetamol  500mg  được  hướng  dẫn  uống 
khi xuất hiện cơn đau không chịu được. 

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ 
Đánh giá đau 
Bệnh nhân ghi nhận các dữ liệu sau: 

Qui trình nghiên cứu 
Trước phẫu thuật 
Bệnh  nhân  được  khám  tổng  quát,  xét 
nghiệm  thường  quy,  chụp  phim  quanh  chóp. 
Mỗi bệnh nhân chọn vào trong nghiên cứu được 
mã  hóa  bằng  một  mã  số  và  được  chia  ngẫu 
nhiên vào hai nhóm:  
Nhóm  A:  sử  dụng  Dexamethasone  (4mg) 
uống  (Dexamethasone  viên  nén  0,5mg,  sản 
phẩm của công ty dược phẩm Mekophar). 
Nhóm  B:  sử  dụng  Dexamethasone  (4mg) 
chích trực tiếp vào vùng cơ cắn (Dexamethasone 
dạng  ống  4mg/1ml,  sản  phẩm  công  ty  dược 
phẩm Trung ương 2 Dopharma). 

Trong khi phẫu thuật  
Bệnh  nhân  nhóm  A:  uống  4mg 
Dexamethasone (8 viên 0,5mg) trước phẫu thuật 
1 giờ. 
Bệnh  nhân  được  gây  tê  vùng  thần  kinh 
xương ổ răng dưới và gây tê tại chỗ bằng thuốc 
tê  Lidocaine  2%  có  thuốc  co  mạch  Epinephrine 
1:100.000. 
Bệnh nhân nhóm B được chích vào trong cơ 
cắn  bên  phẫu  thuật  1ml  Dexamethasone  (4mg) 
sau  khi  gây  tê,  tại  3  vị  trí  khác  nhau  theo  kỹ 
thuật được Messer và Keller đề nghị(1). 
Sau đó, tất cả các bệnh nhân đều được một 
bác  sĩ  tại  bộ  môn  phẫu  thuật  miệng  thực  hiện 
theo kỹ thuật phẫu thuật  cơ  bản  đang  được  áp 
dụng  tại  bộ  môn  gồm  các  bước:  tạo  vạt,  khoan 
xương có hay không kèm cắt răng, nhổ răng và 
khâu kín vết thương. 

360

Sau phẫu thuật  

Mức  độ  đau  nhiều  nhất  trong  hai  ngày  sau 
phẫu thuật theo thang Likert 7 điểm: 
0: không đau   1: Đau rất nhẹ (khó chịu)   2: 
Đau nhẹ 
3: Đau trung bình,vừa phải  
4: Đau nhiều  5: Đau rất nhiều 
Đau không thể tưởng tượng nổi 


 

6: 

Số  lượng  thuốc  giảm  đau  (paracetamol)  đã 
sử dụng trong 2 ngày sau phẫu thuật. 

Đánh giá sưng 
Vào ngày thứ nhất (T1) và ngày thứ hai (T2) 
sau  phẫu  thuật  so  với  thời  điểm  trước  phẫu 
thuật (T0). 
Xác định bằng cách dùng thước dây đo theo 
độ  lồi  má  (được  làm  tròn  đến  vạch  mm  gần 
nhất): 
Theo  chiều  dọc:  từ  góc  mắt  ngoài  đến  góc 
hàm dưới. 
Theo chiều ngang: khoảng cách từ chân dái 
tai đến khóe miệng. 

Đánh giá độ há miệng 
Độ  há  miệng  được  xác  định  vào  ngày  thứ 
nhất  (T1)  và  ngày  thứ  2  (T2)  sau  phẫu  thuật  so 
với thời điểm trước phẫu thuật (T0). 
Độ  há  miệng  được  đo  bằng  thước  kẹp 
(khoảng cách từ rìa cắn răng cửa giữa hàm trên 
với rìa cắn răng cửa giữa hàm dưới). 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

chia  làm  hai  nhóm  nghiên  cứu  với  số  lượng 
bằng nhau. 
Trong nghiên cứu này, không có sự khác biệt 
có  ý  nghĩa  giữa  nhóm  uống  và  nhóm  chích  về 
liều lượng thuốc tê, thời gian phẫu thuật (Bảng 
1).  
Bảng 1: Liều lượng thuốc tê và thời gian phẫu thuật  
 

Nhóm uống Nhóm chích
Liều lượng thuốc tê (ml) 3,0 ± 0,2
3,0 ± 0,2
Thời gian phẫu thuật
13,3 ± 8,0 13,8 ± 6,7
(phút)

Hình 1: Độ há miệng 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Nghiên  cứu  được  thực  hiện  trên  60  bệnh 
nhân,  trong  đó  có  30  bệnh  nhân  nam,  30  bệnh 
nhân  nữ.  Đồng  thời  các  đối  tượng  nghiên  cứu 

p
0,79

0,74

Đánh giá đau 
Mức độ đau của 2 nhóm 

Bảng 2: Phân bố bệnh nhân theo mức độ đau 
Thời
điểm
Nhóm chích

Mức độ đau

T1
T2

Nhóm uống

T1
T2

0

1

2

3

4


5

6

5
16,7%
14
46,7%
1
3,3%
9
30%

1
3,3%
3
10%
1
3,3%
6
20%

10
33,3%
3
10%
14
46,7%
11
36,6%


5
16,7%
3
10%
5
16,7%
2
6,7%

9
30%
7
23,3%
9
30%
2
6,7%

0
0
0
0
0
0
0
0

0
0

0
0
0
0
0
0

Tổng
cộng
30
100%
30
100%
30
100%
30
100%

Bảng 3: Mức độ đau nhiều nhất của bệnh nhân trong 2 ngày sau phẫu thuật 
 
Nhóm chích 
Nhóm uống 



16,7% 

3,3% 




3,3% 

3,3% 

Mức độ đau nhiều nhất 



10 


33,3% 
16,7% 
30,0% 
14 


46,7% 
16,7% 
30,0% 



 

 




 

 

Tổng 
30 
100% 
30 
100% 

Kiểm định 2, p = 0,50

Bảng 4: Mức độ đau trung bình của 2 nhóm ở từng 
thời điểm 
Thời điểm
T1
T2

Nhóm chích
2,4 ± 1,4
1,5 ± 1,7

Nhóm uống
2,7 ± 1,1
1,4 ± 1,2

p
0,41
0,73


Trong  nghiên  cứu  này,  trong  2  ngày  sau 
phẫu thuật mức độ đau nhiều nhất ở mức độ 4 ở 
cả  hai  nhóm  (Bảng  3).  Mức  độ  đau  trung  bình 
vào  ngày  thứ  nhất  sau  phẫu  thuật  là  2,4  ±  1,4 
(nhóm chích) và là 2,7 ± 1,1 (nhóm uống). Ngày 
thứ  2  sau  phẫu  thuật,  mức  độ  đau  trung  bình 
của nhóm chích là 1,5 ± 1,7 và nhóm uống là 1,4 
± 1,2 (Bảng 4). 

Răng Hàm Mặt 

So  với  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Thị  Minh 
Hân(10),  thì  trong  nghiên  cứu  này  mức  độ  đau 
nhiều  nhất  thấp  hơn  và  đặc  biệt  có  20%  bệnh 
nhân  nhóm  chích  và  6,6%  bệnh  nhân  nhóm 
uống chỉ ở mức độ 0 ‐1.  
So  với  nghiên  cứu  của  White(13),  54%  bệnh 
nhân  đau  ở  mức  độ  4‐6,  trong  khi  nghiên  cứu 
này  ghi  nhận  có  30%  ở  mỗi  nhóm  đau  nhiều 
nhất ở mức độ 4. 
Nghiên cứu này ghi nhận không có sự khác 
biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  hai  nhóm  trong 

361


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
T2

p(*)

kiểm  soát  đau  tương  tự  như  nghiên  cứu  của 
Antonio nhưng Antonio dùng thang VAS(1). 

101,2 ± 5,2
0,000

0,000

100,8 ± 5,4
0,001

0,000

Số lượng thuốc giảm đau đã uống 

(*)

Phân tích ANOVA một yếu tố có lặp (**)So sánh với thời 
điểm trước phẫu thuật, kiểm định t test bắt cặp  

Bảng 5. Số lượng viên thuốc giảm đau đã uống đến 
từng thời điểm 

Bảng 8: Sự thay đổi mức độ sưng mặt theo chiều 
ngang giữa 2 nhóm  

T1
T2


Nhóm chích Nhóm uống
0,57±0,77
0,63±0,77
0,70+ 1,06
0,67+ 0,80

p
0,74
0,89

Bảng 6. Phân bố bệnh nhân theo số lượng thuốc 
giảm đau đã uống 2 ngày sau phẫu thuật 

Nhóm
chích
Nhóm
uống

Số lượng viên thuốc giảm đau đã
Tổng
uống
cộng
0
1
2
3
4
18
6

4
1
1
30
60%
20% 13,3% 3,3% 3,3% 100%
16
8
6
0
0
30
53,3% 26,7% 20%
100%

Thời điểm Nhóm chích (mm) Nhóm uống (mm)
T1
1,1 ± 1,2
1,5 ± 2,4
T2
1,6 ± 1,7
1,4 ± 1,9

Trong  nghiên  cứu  này,  sự  thay  đổi  mức  độ 
sưng  mặt  lần  lượt  của  2  nhóm  chích  và  nhóm 
uống vào ngày thứ nhất là 1,1 ± 1,2 mm và 1,5 ± 
2,4 mm, vào ngày thứ hai là 1,6 ± 1,7 mm và 1,4 ± 
1,9 mm (Bảng 7, Bảng 8).  
So  nghiên  cứu  này  với  nghiên  cứu  của 
Nguyễn  Thị  Minh  Hân(10)  và  Nguyễn  Hữu  Bảo 

Thi(9)  sự  thay  đổi  mức  độ  sưng  mặt  theo  chiều 

Kiểm định 2, p = 0,59. 

Trong  nghiên  cứu  này,  trong  2  ngày  phẫu 
thuật có nhiều bệnh nhân không cần phải uống 
thuốc  giảm  đau  sau  phẫu  thuật  (60%  ở  nhóm 
chích và 53,3% ở nhóm uống) (Bảng 6). 
Vào  ngày  thứ  nhất  sau  phẫu  thuật  trung 
bình  bệnh  nhân  nhóm  chích  uống  0,57  ±  0,77 
viên  thuốc  giảm  đau,  bệnh  nhân  nhóm  uống 
uống 0,63 ± 0,77 viên. Cho đến ngày thứ 2 bệnh 
nhân nhóm chích uống 0,7 ± 1,06 và nhóm uống 
uống 0,67 ± 0,8. Không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa hai nhóm (Bảng 5). 
Như vậy, nhìn chung hiệu quả giảm đau của 
Dexamethasone  ở  nhóm  uống  và  nhóm  chích 
không có sự khác biệt có ý nghiã thống kê. Còn 
khi  so  với  nghiên  cứu  sử  dụng  kháng  viêm 
không  steroid  như  Cù  Hoàng  Anh(4),  Nguyễn 
Thị  Minh  Hân(10),  chúng  tôi  nhận  thấy 
Dexamethasone có hiệu quả giảm đau hơn. 

ngang  trong  nghiên  cứu  chúng  tôi  thấp  hơn  so 
với  2  nghiên  cứu  trên.  Điều  này  có  thể  gợi  ý 
Dexamethasone  có  hiệu  quả  trong  việc  giảm 
sưng mặt theo chiều ngang sau phẫu thuật răng 
khôn hàm dưới.  
Giữa  nhóm  chích  và  nhóm  uống  không  có 
sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Kết  quả  này 

phù  hợp  với  kết  luận  của  Antonio(1)  cho  rằng 
Dexamethsone  ở  nhóm  uống  và  nhóm  chích 
không có sự khác biệt trong kiểm soát sưng mặt 
theo  chiều  ngang.  Tuy  nhiên,  Antonio  sử  dụng 
điểm mốc hơi khác so với nghiên cứu của chúng 
tôi  là  gờ  bình  tai‐khóe  mép  bên  phẫu  thuật,  gờ 
bình tai ‐ điểm nhô nhất của cằm. 

Mức độ sưng theo chiều dọc 
Bảng 9: Mức độ sưng mặt theo chiều dọc ở 2 nhóm 
Thời
điểm

Đánh giá mức độ sưng  
Mức độ sưng theo chiều ngang 
Bảng 7: Mức độ sưng mặt theo chiều ngang ở 2 
nhóm so với trước phẫu thuật 
Thời
Nhóm Chích
Nhóm uống
điểm Trung bình (mm) p(**) Trung bình (mm) p(**)
To
99,6 ± 5,3
99,4 ± 5,9
T1
100,7 ± 5,4
0,000
100,9 ± 6,0
0,002


362

p
0,42
0,61

To
T1
T2
p(*)

Nhóm chích
Trung bình
(mm)
103,7 ± 6,7
104,6 ± 6,9
105,5 ± 6,7
0,000

Nhóm uống
(**)

p

0,001
0,000

Trung bình
(mm)
104,2 ± 5,7

105,9 ± 5,4
106 ± 5,5
0,000

p(**)

0,000
0,000

Phân tích ANOVA một yếu tố có lặp  

(*)

So sánh với thời điểm trước phẫu thuật, kiểm định t test bắt cặp  

(**)

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Bảng 10: Sự thay đổi mức độ sưng mặt theo chiều 
dọc giữa 2 nhóm 
Thời điểm
T1
T2

Nhóm chích
(mm)
0,9 ± 1,4

1,8 ± 1,7

Nhóm uống
(mm)
1,7 ± 1,7
1,8 ± 2,4

p
0,054
1,000

Trong  nghiên  cứu  này,  sự  thay  đổi  mức  độ 
sưng mặt theo chiều dọc so với trước phẫu thuật 
vào ngày thứ nhất là 0,9 ± 1,4 mm (nhóm chích) 
và 1,7 ± 1,7 mm (nhóm uống), vào ngày thứ hai 
là  1,8  ±  1,7  mm  (nhóm  chích)  và  1,8  ±  2,4  mm 
(nhóm uống) (Bảng 9, Bảng 10).  
So  với  nghiên  cứu  sử  dụng  Ibuprofen  sau 
phẫu  thuật  của  Nguyễn  Thị  Minh  Hân(10), 
Suzyme  của  Nguyễn  Hữu  Bảo  Thi(9),  sự  thay 
đổi  mức  độ  sưng  mặt  theo  chiều  dọc  trong 
nghiên cứu chúng tôi thấp hơn. Điều này gợi ý 
có  thể  Dexamethasone  có  hiệu  quả  trong  việc 
giảm sưng mặt theo chiều dọc hơn kháng viêm 
không steroid. 
Khi so sánh giữa nhóm uống và nhóm chích 
với  nhau  thì  không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa 
thống kê, điều này phù hợp với nghiên cứu của 
Antonio cho rằng trong kiểm soát mức độ sưng 
theo  chiều  dọc  Dexamethasone  dạng  uống  và 

dạng  chích  không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa 
thống kê(1). 

Đánh giá độ há miệng 
Bảng 11: Độ há miệng của 2 nhóm  
Thời
điểm
T0
T1
T2
p(*)

Nhóm chích
Trung bình
p(**)
(mm)
47,5 ± 4,4
43,6 ± 7,8
0,001
44,2 ± 7,2
0,002
0,001

Nhóm uống
Trung bình
p(**)
(mm)
47,6 ± 5,8
41,8 ± 9,2
0,000

43,7 ± 9,1
0,000
0,000

(*)

Phân tích ANOVA một yếu tố có lặp  

(**)

So sánh với thời điểm trước phẫu thuật, kiểm định t test 
bắt cặp  

Bảng 12: Sự thay đổi độ há miệng (mm) giữa 2 nhóm 
Thời điểm
T1

Nhóm chích
(mm)
-3,9 ± 6,0

Nhóm uống
(mm)
-5,8 ± 5,2

0,20

T2

-3,4 ± 5,5


- 3,9 ± 5,0

0,68

Răng Hàm Mặt 

p

Nghiên cứu Y học

Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy  trong  2 
ngày  sau  phẫu  thuật,  độ  há  miệng  ở  2  nhóm 
giảm có ý nghĩa thống kệ so với thời điểm trước 
phẫu thuật. Sự thay đổi độ há miệng  sau  phẫu 
thuật  so  với  thời  điểm  trước  phẫu  thuật  vào 
ngày thứ nhất là ‐3,9 ± 6,0 mm (nhóm chích) và ‐
5,8 ± 5,2 mm (nhóm uống), vào ngày thứ hai là ‐
3,4  ±  5,5  mm  (nhóm  chích)  và  ‐3,9  ±  5,0  mm 
(nhóm uống). (Bảng 11, Bảng 12) 
So sánh giữa 2 nhóm uống và chích với nhau 
thì  không  có  sự  khác  việt  có  ý  nghĩa  thống  kê 
(Bảng 12). Điều này tương tự với nghiên cứu của 
Antonio khi sử dụng 8mg Dexamethasone(1). 
So với kết quả của các nghiên cứu trên, kể cả 
nghiên  cứu  của  Laureano(6)  có  sử  dụng 
Dexamethsone với nhóm có liều lượng 4mg như 
trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  độ  há  miệng 
trong nghiên cứu này ít bị hạn chế hơn. Có lẽ do 
chúng  tôi  đã  dặn  kỹ  bệnh  nhân  thực  hiện  các 

biện  pháp  giảm  sưng  sau  phẫu  thuật  như: 
chườm  lạnh  trong  ngày  đầu  sau  phẫu  thuật  và 
chườm ấm vào các ngày sau đó ở vị trí ngoài má 
phía bên có phẫu thuật nhổ răng khôn. Việc sử 
dụng  các  biện  pháp  vật  lý  trị  liệu  như  chườm 
giữ vai trò quan trọng và được xem như là một 
điều trị hỗ trợ rất hữu hiệu cho việc giảm sưng, 
điều  này  đã  được  y  văn  ghi  nhận  và  được  sự 
đồng ý của nhiều tác giả. 
*Sử  dụng  liều  lượng  thông  thường  của 
corticosteroid trong 3‐4 ngày không có tác động 
xấu đến quá trình điều trị bệnh và chúng  cũng 
ức chế chức năng của tuyến thượng thận ở mức 
độ  nhẹ.  Mức  cortisol  sẽ  trở  về  giá  trị  bình 
thường  trong  khoảng  5‐7  ngày.  Trong  nghiên 
cứu  này  tôi  sử  dụng  Dexamethasone  với  1  liều 
duy nhất (4mg) trước phẫu thuật nằm trong giới 
hạn bình thường với người lớn (4‐6mg).  
Không  ghi  nhận  được  tác  dụng  phụ  nào 
của thuốc chỉ có một trường hợp cảm thấy hơi 
nhức đầu nhưng tác dụng phụ này có lẽ là do 
tai biến khi phẫu thuật hơn là do tác dụng phụ 
của thuốc.  

363


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014


KẾT LUẬN 
Nghiên  cứu  thử  nghiệm  lâm  sàng  mù  đơn 
đánh  giá  hiệu  quả  Dexamethasone  dạng  uống 
và dạng chích trong kiểm soát đau, sưng và khít 
hàm  sau  phẫu  thuật  nhổ  răng  khôn  hàm  dưới 
trên 60 bệnh nhân. Chúng tôi rút ra được một số 
kết luận như sau: 
1.  Hiệu  quả  giảm  đau,  giảm  sưng,  giảm 
khít hàm của Dexamethasone giữa dạng chích 
và dạng uống không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. 
2.  Mức  độ  sưng  mặt  theo  chiều  ngang  so 
với trước phẫu thuật: 
‐ Ngày thứ nhất sau phẫu thuật tăng 1,1 ± 
1,2  mm  (nhóm  chích)  và  1,5  ±  2,4  mm  (nhóm 
uống). 
‐  Ngày  thứ  hai  sau  phẫu  thuật  tăng  1,6  ± 
1,7  mm  (nhóm  chích)  và  1,4  ±  1,9  mm  (nhóm 
uống).  

tại  bộ  môn  Phẫu  Thuật  Miệng  của  Cù  hoàng 
Anh(4),  Nguyễn  Minh  Hân(10),  và  Nguyễn  Hữu 
Bảo  Thi(9)  trước  đây.  Kết  quả  nghiên  cứu  cũng 
cho  thấy  không  có  sự  khác  biệt  khi  sử  dụng 
Dexamethasone  qua  đường  uống  và  đường 
chích, vì vậy chúng tôi khuyến cáo nên sử dụng 
Dexamethasone qua đường uống vì tính ít xâm 
lấn,  ít  biến  chứng  và  bệnh  nhân  dễ  chấp  nhận 
hơn. Tuy nhiên do nghiên cứu thời gian nghiên 

cứu  ngắn,  nghiên  cứu  thực  hiện  trên  cỡ  mẫu 
nhỏ, số lượng bệnh nhân ít và chưa có nhóm đối 
chứng  để  có  thể  so  sánh  và  đưa  ra  kết  quả  có 
tính ứng dụng hơn trong lâm sàng. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
3. Mức độ sưng mặt theo chiều dọc so với 
trước phẫu thuật:  
‐ Ngày thứ nhất sau phẫu thuật tăng 0,9 ± 
1,4  mm  (nhóm  chích)  và  1,7  ±  1,7  mm  (nhóm 
uống). 

4.

‐  Ngày  thứ  hai  sau  phẫu  thuật  tăng  1,8  ± 
1,7  mm  (nhóm  chích)  và  1,8  ±  2,4  mm  (nhóm 
uống). 

5.

Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 

6.


4. Độ há miệng so với trước phẫu thuật: 
‐  Ngày  thứ  nhất  sau  phẫu  thuật  độ  há 
miệng giảm 3,9 ± 6,0 mm (nhóm chích) và 5,8 ± 
5,2 mm (nhóm uống). 

7.

‐ Ngày thứ hai sau phẫu thuật độ há miệng 
giảm  3,4  ±  5,5  mm  (nhóm  chích)  và  3,9  ±  5,0 
mm (nhóm uống). 

8.

Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  bước  đầu  thực 
hiện  cho  thấy  hiệu  quả  của  Dexamethasone 
trong kiểm soát sưng đau và khít hàm sau phẫu 
thuật nhổ răng khôn hàm dưới khi so với một số 
nghiên cứu sử dụng kháng viêm không steroid 

364

9.

10.

Antunes AA, Avelar RL, et al (2011). “Effect of two routes 
of  administration  of  dexamethasone  on  pain,  edema,  and 
trismus  in  impacted  lower  third  molar  surgery”.  Oral 

Maxillofac Surg, 15(4): 217‐23. 
Ata‐Ali  J,  Ata‐Ali  F,  Penarrocha‐Oltra  D,  Penarrocha  M 
(2011).  “Corticosteroids  use  in  controlling  pain,  swelling 
and  trismus  after  lower  third  molar  surgery”.  J  Clin  Exp 
Dent ,3(5): 469‐475. 
Bamgbose  BO,  Akinwande  JA,  Adeyemo  WL,  Ladeinde 
AL,  Arotiba  GT,  Ogunlewe  MO.  (2005).  “Effects  of  co‐
administered Dexamethasone and Diclofenac potassium on 
pain, swelling and trismus following third molar surgery”. 
Head Face Med, 1: 11. 
Cù Hoàng Anh, Phạm Thị Hương Loan (2004). “Hiệu quả 
giảm đau của Meloxiacam và Paracetamol sau phẫu thuật 
nhổ  răng  khôn  hàm  dưới  lệch”.  Tiểu  luận  tốt  nghiệp  bác  sĩ 
RHM niên khóa 1998‐2004. Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
Kim  K,  et  al  (2009).  “The  use  of  corticosteroids  and 
nonsteroid  antiimflammatory  medication  for  the 
management  of  pain  and  inflammation  after  third  molar 
surgery”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod, 
107: 630‐640. 
Laureano  Filho  JR,  Maurette  PE,  Allais  M,  Cotinho  M, 
Fernandes  C  (2008).  “Clinical  comparative  study  of  the 
effectiveness  of  two  dosages  of  Dexamethasone  to  control 
postoperative swelling, trismus and pain after the surgical 
extraction of mandibular impacted third molars”. Med Oral 
Patol Oral Cir Bucal, 13(2): 129‐32. 
Lê Đức Lánh, Nguyễn Thị Bích Lý (2000). “Nghiên cứu thử 
nghiệm lâm sàng tác dụng giảm đau của Nimesulide trong 
phẫu thuật nhổ răng khôn dưới lệch”. Tuyển tập công trình 
nghiên cứu khoa học RHM 2000: 13‐27. 
Moore PA, Brar P, et al (2005). “Preemptive Rofecoxib and 

Dexamethasone  for  prevention  of  pain  and  trismus 
following  third  molar  surgery”.  Oral  Surg  Oral  Med  Oral 
Pathol Oral Radiol Endod, 99: 1‐7. 
Nguyễn Hữu Bảo Thi, Lê Đức Lánh (2004). “Hiệu quả đặt 
ống  dẫn  lưu  sau  phẫu  thuật  răng  khôn  hàm  dưới”.  Tiểu 
luận tốt nghiệp Bác Sĩ Răng Hàm Mặt niên khóa 1998‐2004, Đại 
Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
Nguyễn Thị Minh Hân, Lê Đức Lánh, Lê Huỳnh Thiên Ân 
(2008).  “Đánh  giá  tình  trạng  sưng  và  đau  của  bệnh  nhân 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

11.

12.

sau  phẫu  thuật  nhổ  răng  khôn  hàm  dưới  mọc  lệch”.  Tiểu 
luận tốt nghiệp bác sĩ Răng Hàm Mặt niên khóa 2003‐2008. Đại 
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
Nguyễn  Trường  Hải,  Lê  Huỳnh  Thiên  Ân  (2011).  “Đánh 
giá  hiệu  quả  giảm  đau  của  Nefopam  và  Paracetamol  sau 
phẫu  thuật  nhổ  răng  khôn  hàm  dưới  lệch”.  Tiểu  luận  tốt 
nghiệp Bác sĩ Răng hàm Mặt niên khóa 2005‐2011.  Đại  học  Y 
Dược TP Hồ Chí Minh. 
Pell  GJ,  Gregory  GJ.  “Impacted  mandibular  third  molars, 
classification  and  modified  technique  for  removal”.  Dent 
Piagn, 39(1933): 330‐338. 

 

Răng Hàm Mặt 

13.

Nghiên cứu Y học

White  RP,  et  al  (2003).  “Recovery  After  Third  Molar 
Surgery  Clinical  and  Health  Related  Quality  of  Life 
Outcomes”. J Oral Maxillofac Surg, 61(5): 535‐544. 

 

Ngày nhận bài báo: 22/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/12/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

365



×