TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ ĐẦU TƯ
---------***--------
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài
:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN TẠI TỔNG CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ
VIỆT NAM PVFC
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Tuấn Hoàng
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thu Hà
HÀ NỘI - 2010
Trờng đại học kinh tế quốc dân
khoa KINH Tế ĐầU TƯ
---------***--------
chuyên đề tốt nghiệp
ti:
THC TRNG V GII PHP NHM NNG CAO HIU QU S
DNG VN TI TNG CễNG TY TI CHNH C PHN DU KH
VIT NAM PVFC
Sinh viên thực hiện : Nguyn Tun Hong
Chuyên ngành : Kinh t u t
Lp : Kinh t u t D - QN
Khoỏ : 48
Hệ : chớnh quy
Giáo viên hớng dẫn : ThS. Nguyn Thu H
H NI - 2010
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TSCĐ: Tài sản cố định
TSLĐ: Tài sản lưu động
VCĐ: Vốn cố định
VLĐ: Vốn lưu động
VN: Việt Nam
NHNN: Ngân hàng Nhà Nước
NHTM: Ngân hàng Thương mại
NSNN: Ngân sách Nhà Nước
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
KHCN: Khoa học công nghệ
VĐTCB: Vốn đầu tư cơ bản
VĐTSCL: Vốn đầu tư sửa chữa lớn
Công ty TNHH: Công ty Trách nhiệm hữu hạn
PVFC: Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam
UN: Liên hợp quốc
TD: Tín dụng
CK: Chứng khoán
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Năm 2008 đánh dấu một năm đầy biến động với nền kinh tế Việt Nam
trong nhiều lĩnh vực do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu, ghi nhận
những biến động chưa từng có của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Để thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã đưa ra rất nhiều biện pháp can thiệp hành chính đối với hệ
thống Ngân hàng Thương Mại (NHTM), đã có lúc lãi suất ngân hàng lên
mức 24 - 25%/năm, lãi suất huy động cũng đạt đỉnh 20%/năm. Nhiều
NHTM cho vay cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất
cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ
tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm. Các hoạt động
trong lĩnh vực chứng khoán cũng gặp không ít khó khăn khi lần đầu tiên thị
trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua những diễn biến xấu nhất suốt
hơn 8 năm đi vào hoạt động và sau một thời gian dài phát triển quá nóng thì
thị trường bất động sản đã đóng băng và trải qua đợt sụt giảm về giá nhanh
chóng.
Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam – PVFC, một
trong những công ty tài chính được xem là có thế lực nhất hiện nay cũng
không nằm ngoài tầm ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Kết thúc năm
2008, doanh nghiệp này công bố đây là một năm làm ăn không thuận lợi và
gặp nhiều rủi ro của mình. Với các hoạt động đầu tư bị xemlà dàn trải vào
các lĩnh vực như bất động sản, chứng khoán, các dịch vụ tiêu dùng....đã làm
cho công ty rởi vào tình trạng nợ quá hạn và nợ xấu tăng cao, tuy vẫn có lãi
nhưng hiệu quả sử dụng vốn chưa thực sự tốt.
Từ nhận định thu được trong quá trình tìm hiểu về Công ty về tình
hình sử dụng vốn, tôi quyết định chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng công ty tài chính cổ phần
Dầu khí Việt Nam PVFC” làm Chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung của Chuyên đề gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận về Vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong Công
ty tài chính.
Chương II: Thực trạng sử dụng vốn tại Tổng công ty Tài chính cổ
phần Dầu khí Việt Nam PVFC
Chương III: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tại Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam PVFC.
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY
TÀI CHÍNH
1.1 CÔNG TY TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG KINH TẾ VIỆT
NAM
1.1.1 Khái niệm về công ty tài chính
Công ty tài chính là một loại hình doanh nghiệp với hoạt động chính
là kinh doanh vốn. Theo nghị định số 79/2002/NĐ-CP của Chính phủ, Công
ty Tài chính được định nghĩa “là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng,
với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để
cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực
hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được
làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm.”
1.1.2 Các hình thức của Công ty Tài chính
Để tiện cho việc quản lý và điều tiết các hoạt động của Công ty Tài chính
trong thị trường tiền tệ, Công ty tài chính được chia ra thành các loại sau:
• Công ty Tài chính Nhà nước: là Công ty Tài chính do Nhà nước đầu
tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh.
• Công ty Tài chính cổ phần: là Công ty Tài chính do các tổ chức và cá
nhân cùng góp vốn theo quy định của pháp luật, được thành lập dưới
hình thức Công ty cổ phần.
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Công ty Tài chính trực thuộc của tổ chức tín dụng: là Công ty Tài chính
do một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có của mình và làm chủ
sở hữu theo quy định của pháp luật, hạch toán độc lập và có tư cách
pháp nhân.
• Công ty Tài chính liên doanh: là Công ty Tài chính được thành lập
bằng vốn góp giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín
dụng, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều
tổ chức tín dụng nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
• Công ty Tài chính 100% vốn nước ngoài: là Công ty Tài chính được
thành lập bằng vốn của một hoặc của nhiều tổ chức tín dụng nước
ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN
1.2.1 Khái niệm
Tư bản (hay vốn) trong Kinh tế học là khái niệm để chỉ những vật thể
có giá trị, có khả năng đo lường được sự giàu có của người sở hữu chúng.
Tư bản là sở hữu về vật chất thuộc về cá nhân hay được tạo ra bởi xã hội.
Tuy nhiên tư bản có nhiều định nghĩa khác nhau dưới khía cạnh kinh tế, xã
hội, hay triết học.
• Trong kinh tế học cổ điển, tư bản được định nghĩa là những hàng hóa
sẵn có để sử dụng làm yếu tố sản xuất. Với vai trò là yếu tố sản xuất,
tư bản có thể là mọi thứ như tiền bạc, máy móc, công cụ lao động, nhà
cửa, bản quyền, bí quyết, v.v.. nhưng không bao gồm đất đai và lao
động.
• Trong Kinh tế học Tân cổ điển, tư bản (vốn) là một trong bốn yếu tố
sản xuất. Ba yếu tố còn lại là đất đai, lao động và doanh nghiệp.
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Trong học thuyết kinh tế chính trị của Marx, tư bản lưu động là khoản
đầu tư của nhà tư bản vào lực lượng sản xuất, là nguồn tạo ra giá trị
thặng dư. Nó được coi là “lưu động” vì lượng giá trị mà nó tạo ra
khác với lượng giá trị nó tiêu dụng, có nghĩa là tạo ra giá trị mới. Tư
bản cố định là khoản đầu tư vào yếu tố sản xuất không phải con người
như máy móc, nhà xưởng - những tư bản mà theo Marx, chỉ tạo ra
lượng giá trị để thay thế chính bản thân chúng. Nó được coi là cố định
theo nghĩa giá trị đầu tư ban đầu và giá trị thu hồi ở dạng các hàng
hóa do chúng tạo ra là không đổi.
Trong nền kinh tế thị trường, Doanh nghiệp là những tổ chức được
hình thành nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Các doanh nghiệp có thể thực hiện một hoặc một số các công đoạn
của quá trình đầu tư từ đầu tư sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ ngoài
thị trường nhằm mục tiêu cuối cùng là mang lại lợi nhuận. Để tiến hành
được các hoạt động sản xuất kinh doanh nói trên doanh nghiệp cần phải có
tư liệu lao động (máy móc, nhà xưởng...) và đối tượng lao động (nguyên vật
liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm…), và sức lao động. Điều này đòi hỏi
các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định để mua vật tư, máy móc,
thuê lao động…Do vậy vốn được coi là một điều kiện tiên quyết cho bất kì
hoạt động nào của doanh nghiệp. Một cách tổng quan, “Vốn là toàn bộ giá
trị tài sản được dùng vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục
đích sinh lời. ”
1.2.2 Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, các doanh
nghiệp muốn đạt được hiệu quả trong hoạt động cần phải có những sản
phẩm tốt về chất lượng, mẫu mã, giá cả cạnh tranh, đồng thời doanh nghiệp
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cũng phải nắm bắt được nhu cầu luôn biến động của thị trường tiêu dùng để
có những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu đó. Điều này đòi hỏi doanh
nghiệp phải có các nguồn lực tốt để tiến hành và duy trì hoạt động sản xuất
kinh doanh. Trong các nguồn lực cần thiết thì vốn được coi là nguồn lực
quan trọng nhất. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần có vốn để tiến hành
sản xuất, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
các quyết định của các nhà quản lý. Thực tiễn cho thấy những doanh nghiệp
có quy mô vốn lớn sẽ áp dụng được Khoa học Công nghệ (KHCN), mua
sắm máy móc, xây nhà xưởng mới, tăng cường hoạt động Marketing....do đó
năng suất lao động tăng lên, chất lượng hàng hoá được cải thiện ngày một
tốt hơn, từ đó tăng cường được khả năng cạnh tranh và tồn tại của doanh
nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp nào có lượng vốn càng lớn
thì càng có thế chủ động trong kinh doanh và có lợi thế rất lớn trong môi
trường cạnh tranh đầy biến động của thị trường hiện nay. Do vậy, vốn xét
trên phương diện hình thái hiện vật và hình thái giá trị, là yếu tố quan trọng
nhất trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.
1.2.3 Phân loại Vốn:
Do có vai trò quan trọng và thiết yếu trong qua trình hoạt động của
các doanh nghiệp nên việc phân loại vốn theo các hình thức khác nhau sẽ
giúp doanh nghiệp đề ra được những giải pháp quản lý và sử dụng vốn sao
cho có hiệu quả. Tuy có nhiều phương thức để phân loại nhưng cơ bản theo
đặc điểm luân chuyển của vốn người ta chia thành vốn đầu tư và vốn sản
xuất.
1.2.3.1 Vốn đầu tư
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Vốn đầu tư được chia thành vốn đầu tư tài sản cố định và vốn đầu tư
tài sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài sản cố định bao gồm vốn đầu tư cơ bản
(VĐTCB) và vốn đầu tư sửa chữa lớn (VĐTSCL).
VĐTCB làm tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo đảm bù
đắp số tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang, còn
VĐTSCL không làm tăng khối lượng thực thể của tài sản. Vai trò kinh tế
của VSCL tài sản cố định cũng giống như vốn đầu tư cơ bản, là nhằm đảm
bảo thay thế tài sản bị hư hỏng.
1.2.3.2 Vốn sản xuất
Khái niệm vốn sản xuất được bắt nguồn từ quan niệm về tài sản quốc
gia. Tài sản quốc gia có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc theo nghĩa hẹp.
Tài sản quốc gia theo nghĩa rộng bao gồm
(1) tài nguyên thiên nhiên của đất nước
(2) các loại tài sản được sản xuất ra
(3) nguồn vốn con người.
Tài sản quốc gia theo nghĩa hẹp là toàn bộ của cải vật chất do lao động sáng
tạo của con người được tích lũy lại qua thời gian theo tiến trình lịch sử phát
triển của đất nước.
Theo cách phân loại của Liên hợp quốc (UN), tài sản được sản xuất ra
lại chia thành 9 loại:
(1) công xưởng, nhà máy;
(2) trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng;
(3) máy móc thiết bị, phương tiện vận tải;
(4) cơ sở hạ tầng;
(5) tồn kho của tất cả các loại hàng hóa;
(6) các công trình công cộng;
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
(7) các công trình kiến trúc;
(8) nhà ở
(9) các cơ sở quân sự.
Dựa vào chức năng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế, 9 loại
tài sản trên được chia thành hai nhóm:
• Nhóm thứ nhất bao gồm 5 loại đầu. Những tài sản này được sử dụng
làm phương tiện trực tiếp phục vụ quá trình sản xuất và được gọi là tài
sản sản xuất. Trong đó, 4 loại tài sản từ (1) đến (4) được gọi là tài sản
cố định (vốn cố định), còn lại tài sản (5) được gọi là tài sản lưu động
(vốn lưu động). Tuy nhiên, trên thực tế trong các loại hàng tồn kho,
ngoài các loại nguyên, nhiên vật liệu dự trữ cho sản xuất còn có cả
những giá trị tài sản cố định chưa lắp đặt và thành phẩm chưa tiêu thụ,
vì vậy, cách hiểu ở đây chỉ mang ý nghĩa tương đối. Sự khác nhau
trên nguyên tắc về mặt kinh tế giữa tài sản cố định và tài sản lưu động
là tính chất sử dụng nhiều lần của tài sản cố định và tính chất sử dụng
được một lần của tài sản lưu động, từ đó thời hạn phục vụ của tài sản
cố định thường được quy định kéo dài hơn một năm, còn thời gian
phục vụ của tài sản lưu động là dưới một năm.
• Nhóm thứ hai bao gồm 4 loại cuối, đều có tính chất chung là không
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, nên được gọi là tài sản phi
sản xuất (vốn phi sản xuất).
Vậy, vốn sản xuất là giá trị của những tài sản đựơc sử dụng làm
phương tiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm
vốn cố định và vốn lưu động.
a) Vốn cố định:
Để tiến hành hoạt động sản xuất các doanh nghiệp phải có đủ 3 yếu
tố: Sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động trong đó bộ phận
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chủ yếu của các tư liệu lao động là các tài sản cố định (TSCĐ). Số lượng
vốn tiền tệ nhất định doanh nghiệp ứng ra để có được các tài sản cố định
(TSCĐ) cần thiết cho hoạt động kinh doanh được gọi là Vốn cố định (VCĐ).
(Cũng có thể nói VCĐ là bộ phận của Vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ). Có
thể khái quát một số nét đặc thù về sự vận động và chu chuyển của VCĐ
trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
Một là, VCĐ tham gia vào nhiều chu trình sản xuất kinh doanh sản
phẩm, đièu này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài trong nhiều
chu kỳ sản xuất quyết định.
Hai là, VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ
sản xuất. Khi tham gia vào quá trình đó một bộ phận của TSCĐ được luân
chuyển và cấu thành nên chi phí sản xuất của sản phẩm tương ứng với giá trị
hao mòn của TSCĐ.
Ba là, sau nhiều chu kỳ sản xuất, VCĐ mới hoàn thành một vòng luân
chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm tăng dần lên song phần vốn đầu tư vào TSCĐ lại giảm dần cho đến
khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng thì giá trị của nó được chuyển dịch hết vào
giá trị của sản phẩm đã sản xuất. Khi đó, VCĐ hoàn thành một vòng luân
chuyển.
Những đặc điểm đó đòi hỏi việc quản lý VCĐ phải luôn gắn với việc
quản lý hình thái hiện vật là các TSCĐ của doanh nghiệp.
TSCĐ là những tư liệu lao động chủ yếu mà đặc điểm của chúng là
có giá trị lớn và thời gian sử dụng dài, được sử dụng trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc sắp xếp TSCĐ thành từng loại, từng nhóm theo những đặc điểm
nhất định để thuận tiện cho công tác quản lý và hạch toán tài sản cố định.
Hiện nay tài sản cố định thường được phân ra theo các đặc trưng sau:
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Theo hình thái biểu hiện: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
(1) TSCĐ hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể
do doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh. TSCĐ hữu hình
bao gồm nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận
tải, thiết bị, dụng cụ quản lý. . . .
(2) TSCĐ vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng
xác định được giá trị, do doanh nghiệp quản lý và sử dụng trong các
hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối
tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn TSCĐ vô hình. TSCĐ vô
hình chỉ được thừa nhận khi xác định được giá trị của nó, thể hiện
một lượng giá trị lớn đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều
chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, nó bao gồm quyền sử dụng
đất, nhãn hiệu hàng hoá, quyền phát hành, phần mềm máy tính, bản
quyền sáng chế. . . .
• Theo mục đích sử dụng: TSCĐ dùng cho sản xuất kinh doanh và
TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng:
(1) Tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh là những TSCĐ đang
dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản
xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp.
(2) TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi…là những TSCĐ không mang
tính chất sản xuất do doanh nghiệp quản lý sử dụng cho các hoạt
động phúc lợi, sự nghiệp và các hoạt động đảm bảo an ninh quốc
phòng
• Theo hình thái sử dụng: TSCĐ đang dùng, TSCĐ chưa cần dùng,
TSCĐ không cần dùng và chờ thanh lý.
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Theo quyền sở hữu: TSCĐ tự có và TSCĐ đi thuê.
Tuy nhiên trong thực tế doanh nghiệp có thể kết hợp nhiều phương pháp
phân loại TSCĐ tuỳ theo yêu cầu quản lý của từng thời kỳ.
b) Vốn lưu động:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài các TSCĐ, doanh nghiệp
cũng cần có các tài sản lưu động (TSLĐ). Lượng vốn tiền tệ nhất định đầu
tư vào TSLĐ được gọi là Vốn lưu động (VLĐ). (VLĐ là số vốn ứng ra để
hình thành TSLĐ nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh được thực hiện
thường xuyên, liên tục. VLĐ chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và
được thu hồi toàn bộ.) VLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của
quá trình tái sản xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục, doanh
nghiệp phải có đủ tiền vốn đầu tư vào các hình thái khác nhau của VLĐ,
khiến cho các hình thái này có được mức tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau,
tạo điều kiện cho quá trình chuyển hoá hình thái của vốn trong quá trình
luân chuyển được thuận lợi. Ngoài ra VLĐ còn là công cụ đánh giá, phản
ánh quá trình vận động của vật tư. VLĐ luân chuyển nhanh hay chậm còn
phản ánh số lượng vật tư tiết kiệm hay không, thời gian sản xuất là hợp lý
hay không.
Để quản lý VLĐ cần phải phân loại dựa theo các tiêu thức khác nhau.
Có thể phân loại VLĐ ra như sau:
• Dựa theo hình thái biểu hiện và khả năng hoán tệ của vốn có thể chia
VLĐ thành vốn bằng tiền và vốn về hàng tồn kho:
(1) Vốn bằng tiền gồm tiền mặt trong quỹ, tiền gửi tại NH và tiền đang
chuyển.
(2) Vốn về hàng tồn kho gồm vốn vật tư dự trữ, vốn sản phẩm dở dang,
vốn thành phẩm.
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Việc phân loại vốn theo cách này tạo điều kiện thuận lợi để xem xét
đánh giá mức độ tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó thông qua cách phân loại này có thể tìm các biện pháp phát huy
chức năng các thành phần vốn và biết được kết cấu VLĐ để định hướng điều
chỉnh hợp lý và có hiệu quả.
• Dựa vào vai trò của VLĐ với quá trình sản xuất kinh doanh, VLĐ bao
gồm các loại sau
VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất:
(1) vốn nguyên vật liệu chính
(2) vốn vật liệu phụ
(3) vốn nhiên liệu
(4) vốn phụ tùng thay thế
(5) vốn vật đóng gói
(6) vốn công cụ dụng cụ nhỏ
VLĐ trong khâu trực tiếp sản xuất
(1) vốn sản phẩm đang chế tạo
(2) vốn về chi phí trả trước
VLĐ trong khâu lưu thông
(1) vốn thành phẩm
(2) vốn bằng tiền
Phương pháp này cho phép đánh giá kết cấu VLĐ theo vai trò, từ đó
giúp định hình đánh giá tình hình phân bổ VLĐ trong các khâu của quá trình
luân chuyển vốn, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tổ chức quản lý thích hợp
nhằm tạo ra một kết cấu VLĐ hợp lý, tăng được tốc độ luân chuyển VLĐ.
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Dựa vào quan hệ sở hữu về vốn: TSLĐ được tài trợ bởi hai nguồn đó
là vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. (vốn chủ sở hữu chỉ tài trợ một
phần cho nguồn VLĐ của doanh nghiệp)
(1) Vốn chủ sở hữu: là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp,
doanh nghiệp có đầy đủ quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối, và định
đoạt về nguồn vốn đó, và tuỳ theo loại hình doanh nghiệp mà vốn
chủ sở hữu có nội dung cụ thể như Vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà
Nước (NSNN), Vốn do chủ doanh nghiệp bỏ ra, Vốn góp cổ phần
trong Công ty cổ phần…
(2) Các khoản nợ: là các khoản được hình thành từ vốn vay các Ngân
hàng thương mại (NHTM) hoặc các tổ chức tài chính khác, vốn vay
thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ mà khách hàng chưa
thanh toán…và doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng các khoản nợ này
trong một thời gian nhất định.
Cách phân loại này cho thấy được kết cấu VLĐ của doanh nghiệp
được hình thành bằng vốn của bản thân doanh nghiệp, hay từ các khoản nợ,
từ đó có các quyết định trong huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả hơn,
đảm bảo an ninh tài chính trong doanh nghiệp.
• Dựa vào nguồn hình thành: TSLĐ sẽ được tài trợ bởi các nguồn như
sau
(1) Nguồn vốn điều lệ: là số vốn được hình thnàh từ các nguồn vốn điều
lệ ban đầu khi thành lập hoặc nguồn vốn điều lệ bổ sung trong quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
(2) Nguồn vốn tự bổ sung: là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung
trong quá trình sản xuất kinh doanh (như từ lợi nhuận của doanh
nghiệp được tái đầu tư....)
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
(3) Nguồn vốn liên doanh, liên kết: là số vốn được hình thành từ vốn
góp liên doanh của các bên tham gia liên doanh. Vốn góp liên doanh
có thể bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật là vật tư, hàng hoá theo thoả
thuận của các bên liên doanh.
(4) Nguồn vốn đi vay: là vốn vay của các NHTM hoặc tổ chức tín dụng,
vốn vay từ người lao động trong doanh nghiệp, vay các doanh
nghiệp khác. . .
(5) Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn thông qua việc phát hành cổ
phiếu, trái phiếu…
Việc phân chia VLĐ theo nguồn hình thành giúp cho doanh nghiệp
thấy được cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu VLĐ trong kinh doanh từ đó
xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm thấp chi phí sử dụng vốn của
mình.
TSLĐ là một nguồn tài sản của doanh nghiệp, thường có sự quay
vòng nhanh hơn nhiều so với TSCĐ. Việc quản lý TSLĐ là rất quan trọng
đối với doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp người ta thường chia TSLĐ ra làm hai loại:
TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông. TSLĐ sản xuất bao gồm các loại
nguyên, nhiên, vật liệu; phụ tùng thay thế; bán thành phẩm. . .đang trong
qua trình dự trữ sản xuất hoặc sản xuất, chế biến. TSLĐ lưu thông bao gồm
các sản phẩm hoàn thành đang chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các
khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí kết chuyển, chi phí trả
trước. . . Trong quá trình sản xuất kinh doanh các TSLĐ sản xuất và TSLĐ
lưu thông luôn vận động thay thế và chuyển hoá lẫn nhau đảm bảo cho quá
trình sản xuất kinh doanh được liên tục.
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2.4 Các nguồn vốn của doanh nghiệp nói chung và của Công ty tài
chính nói riêng
1.2.4.1 Nguồn vốn của doanh nghiệp
• Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp: đây là khoản đầu tư ban đầu
khi thành lập doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn
vốn tự có là vốn đầu tư của NSNN. Đối với công ty cổ phần hoặc
công ty Trách nhiệm hữu hạn (Công ty TNHH), nguồn vốn ban đầu
do các cổ đông hoặc thành viên đóng góp để hình thành công ty. Đối
với các Công ty cổ phần, vốn kinh doanh có thể huy động thêm từ
việc phát hành cổ phiếu. Công ty TNHH không thể phát hành cổ
phiếu mà chỉ có thể phát hành trái phiếu.
• Vốn vay: Ngoài phần vốn tự có của doanh nghiệp (vốn góp), thì
nguồn vốn vay có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể đáp ứng các nhu cầu về vốn
trong ngắn hạn hoặc dài hạn, có thể huy động được số vốn lớn, tức
thời. Tuy nhiên, sử dụng vốn vay phải hết sức chú ý đến cơ cấu vốn
của doanh nghiệp, kế hoạch sử dụng vốn phải đảm bảo hợp lý, đúng
mục đích; quản lý tốt quỹ tiền mặt, kỳ trả nợ và kỳ thu tiền, kế hoạch
sản xuất kinh doanh phải được lập bám sát thực tế... nếu không vốn
vay sẽ trở thành một gánh nặng đối với doanh nghiệp.
• Vốn chiếm dụng của nhà cung cấp (Tín dụng thương mại): Đây cũng
là một nguồn vốn tương đối quan trọng trong doanh nghiệp. Nguồn
vốn này xuất phát từ việc doanh nghiệp chiếm dụng tiền hàng của nhà
cung cấp (trả chậm), việc chiếm dụng này có thể phải trả phí (lãi)
hoặc không phải trả phí nhưng lại đáp ứng được việc doanh nghiệp có
nguyên vật liệu, điện, nước,... để sản xuất kinh doanh mà chỉ phải bỏ
ra ngay lập tức một số tiền ít hơn số tiền đáng lẽ phải bỏ ra để có được
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
số nguyên vật liệu, điện, máy móc,... để tiến hành sản xuất. Như vậy,
doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ tiền mặt của mình cho mục đích
khác. Tuy nhiên, sử dụng nguồn vốn này cần lưu ý: nếu chiếm dụng
quá nhiều hoặc quá lâu một khoản nợ nào đó, nó sẽ ảnh hưởng đến uy
tín của doanh nghiệp với đối tác, với thị trường hoặc kiện tụng pháp
luật, tốt nhất nên có sự thoả thuận về việc chiếm dụng vốn.
• Nguồn vốn khác: như lợi nhuận để lại, lương cán bộ công nhân viên
chậm thanh toán, ....
1.2.4.2 Nguồn huy động vốn của Công ty Tài chính
Các Công ty tài chính có thể huy động nguồn vốn bằng cách đi vay từ
các tổ chức tín dụng trong hoặc ngoài nước, vay từ các NHTM, các trung
gian tài chính nhưng lại không được vay từ NHNN như các NHTM, hoặc
cũng có thể vay vốn từ Tập đoàn.
Bên cạnh đó các Công ty tài chính còn có thể nhận uỷ thác đầu tư,
nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện hành, tiếp nhận
vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
1.3 HIỆU QUẢ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
1.3.1 Hiệu quả và hiệu quả sử dụng vốn
Mục tiêu của các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động sản xuất và
tham gia vào thị trường đó là tối đa hoá giá trị tài sản sở hữu (tối đa hoá lợi
nhuận). Một trong những điều quan trọng ảnh hưởng đến mục tiêu này đó
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính là “hiệu quả sử dụng vốn. ” Câu hỏi đặt ra là “hiệu quả sử dụng vốn là
gì?”
Để trả lời cho câu hỏi này, đầu tiên chúng ta đi xem xét vấn đề về
hiệu quả. Bất kỳ một hoạt động nào do con người tiến hành cũng đều có
mục đích rõ ràng và việc xem xét mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và kết quả
đạt được được hiểu là “hiệu quả.” (ví dụ một người muốn xây đươc một cái
nhà, kết quả là cái nhà mà anh ta muốn, còn hiệu quả sẽ xem xét xem để có
đươc nhà anh ta mất bao nhiêu tiền, bao nhiêu thời gian?..) Trong sản xuất
kinh doanh, hiệu quả xem xét mối quan hệ giữa kết quả sản xuất và chi phí
bỏ ra trong quá trình sản xuất đó. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh tế là sự
chênh lệch giữa tổng lượng thu được và chi phí bỏ ra, sự chênh lệch này
càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại.
Từ đó hiệu quả sử dụng vốn có thể được hiểu như sau: “Hiệu quả sử
dụng vốn là thước đo phản ánh tương quan so sánh giữa những chi phí về
vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh để đạt được kết quả đó.”
1.3.2 Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp coi nguồn
vốn cấp phát từ nguồn NSNN đồng nghĩa với “cho không” nên không chú
trọng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, khi bị thua lỗ thì Nhà
nước sẽ là người đứng ra bù đắp, tình hình sản xuất kinh doanh gần như
không có sự quản lý, vốn dùng cho sản xuất hầu như bị lãng phí và thất
thoát rất lớn. Theo con số thống kê cho thấy vốn sản xuất trong khu vực
quốc doanh không nhiều, hiệu quả sử dụng vốn rất thấp, đối với các TSCĐ
mới chỉ được sử dụng 50% -60% công suất thiết kế.....vì vậy hệ số sinh lời
của đồng vốn là vô cùng thấp.
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp phải chuyển hướng theo cơ chế
mới để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển, cạnh tranh ngày càng trở nên gay
gắt và trở thành quy luật tất yếu của thị trường. Đây vừa là một thử thách đặt
ra cho các doanh nghiệp, vừa là cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển.
Muốn tồn tại và phát triển các doanh nghiệp buộc phải tận dụng triệt để
nguồn lực của mình và của toàn xã hội để phục vụ sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới, hạ giá thành, tăng năng suất, nâng cao
chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã để có thể chiếm lĩnh được thị trường
đầy tiềm năng nhưng cũng vô cùng khó tính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
và thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
sẽ vừa đảm bảo cho sản xuất kinh doanh ổn định, vừa đảm bảo an toàn về tài
chính cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ đảm bảo được về việc huy
động nguồn tài trợ, tăng khả năng thanh toán và khắc phục được phần lớn
các rủi ro trong quá trình kinh doanh. Ngoài ra, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn sẽ góp phần nâng cao mức sống cho người lao động, tạo công ăn việc
làm nhờ mở rộng quy mô sản xuất, khuyến khích người lao động nâng cao
trình độ bản thân, nâng cao hiệu quả đóng góp cho xã hội, làm tăng các
khoản thu cho NSNN.
Như vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn rất có ý nghĩa trong nền kinh
tế thị trường, không những mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp
mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sựu phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất
nước nói chung.
1.3.3 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
1.3.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
a) Hiệu suất sử dụng VCĐ
Là chỉ tiêu phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu
đồng Doanh thu (DT) hoặc doanh thu thuần (DTT) trong kỳ.
DTT trong năm
HSSDVCĐ =
Số VCĐ bình quân sử dụng trong năm
Trong đó số VCĐ bình quân trrong kỳ được tính bằng phương pháp
bình quân số VCĐ đầu kỳ và cuối kỳ như sau
VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ
VCĐBQ trong kỳ =
2
Trong đó số VCĐ đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) được tính
Số VCĐ đầu kỳ = Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ - Số tiền khấu hao luỹ kế đầu kỳ
(cuối kỳ) (cuối kỳ) (cuối kỳ)
b) Hàm lượng VCĐ
Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng VCĐ. Nó phản
ánh để tạo ra một đồng DT hoặc DTT cần bao nhiêu đồng VCĐ
VCĐ bình quân trong kỳ
Hàm lượng VCĐ =
DT (DTT) trong kỳ
c) Tỷ suất lợi nhuận VCĐ
Là chỉ tiêu phản ánh một đồng VCĐ trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập)
Lợi nhuận trước thuế (sau thuế)
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ =
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Số VCĐbq trong kỳ
d) Hệ số hao mòn TSCĐ
Là chỉ tiêu phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp
so với thời điểm đầu tư ban đầu. Hệ số càng lơn chứng tỏ mức độ hao mòn
TSCĐ càng cao và ngược lại.
Số tiền khấu hao luỹ kế
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
e) Hiệu suất sử dụng TSCĐ
Là chỉ tiêu phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu hoặc doanh thu thuần. Hiệu suất càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử
dụng TSCĐ càng cao.
DT (DTT) trong kỳ
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐbq trong kỳ
f) Tỷ suất đầu tư TSCĐ
Là chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư vào TSCĐ trong tổng giá trị tài
sản của doanh nghiệp. Nói cách khác, trong một đồng giá trị tài sản của
doanh nghiệp có bao nhiêu đồng được đầu tư vào TSCĐ. Tỷ suất này càng
lớn chứng tỏ doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư vào TSCĐ.
Giá trị còn lại của TSCĐ
Tỷ suất đầu tư TSCĐ =
Tổng tài sản
1.3.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ
Nguyễn Tuấn Hoàng Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
a) Tốc độ luân chuyển VLĐ
Việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm VLĐ được biểu hiện trước hết ở tốc
độ luân chuyển VLĐ của doanh nghiệp nhanh hay chậm. VLĐ luân chuyển
càng nhanh thì hiệu suất sử dụng VLĐ của doanh nghiệp càng cao và ngược
lại.
Tốc độ luân chuyển VLĐ có thể được đo bằng hai chỉ tiêu Số làn luân
chuyển (số vòng quay vốn) và Kỳ luân chuyển vốn (số ngày của một vòng
quay vốn)
Số lần luân chuyển VLĐ phản ánh số vòng quay vốn được thực hiện
trong một thời kỳ nhất định, thường tính là một năm
Tổng doanh thu thuần
Số vòng quay của VLĐ =
VLĐbq
Kỳ luân chuyển vốn phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay
VLĐ
360
Kỳ luân chuyển VLĐ =
Số vòng quay của VLĐ
Vòng quay vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút
ngắn và chứng tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu quả.
b) Mức tiết kiệm VLĐ và hàm lượng VLĐ
Mức tiết kiệm VLĐ là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có
thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn song không cần tăng thêm hoặc
tăng không đáng kể quy mô VLĐ.