Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SANG KIEN KINH NGHIEMsang kien Chu'''' Truong` PHT Tho Son.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.51 KB, 12 trang )

B. Nội dung đề tài
Tên đề tài:
Tuân thủ nguyên tắc
trực quan trong dạy học tiếng việt - thực trạng và giải
pháp
-------------------------------------
I. lý do chọn đề tài:
Việc dạy học Tiếng Việt ở tiểu học đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ
cần phải giải quyết, nhất là trong giai đoạn đang tiến hành đổi mới nội dung, chơng
trình, sách giáo khoa hiện nay.
Mặt khác môn tiếng việt là môn học cơ bản và chiếm nhiều thời lợng nhất ở
bậc tiểu học. Do đó, nhiều cán bộ nghiên cứu, nhiều nhà giáo tâm huyết đã bỏ
nhiều công sức, đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết kinh nghiệm, giới thiệu những
thành tựu tiến nhất của khoa học giáo dục, khoa học kĩ thuật vào việc dạy học
Tiếng Việt- Tiếng mẹ đẻ.
Ngành giáo dục ở các địa phơng, các nhà trờng, các cán bộ quản lý và giáo
viên cũng đã có nhiều cố gắng trong quá trình tiếp thu, triển khai việc thực hiện
việc đổi mới mục tiêu, nội dung, phơng pháp dạy học ở tiểu học và trong quá trình
đó cũng đã có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều sáng kiến kinh nghiệm của họ bàn về
việc dạy học môn tiếng việt.
ở phạm vi địa phơng và đặc biệt là ở đơn vị nhà trờng chúng tôi, thực tiễn
kinh nghiệm công tác đã cho thấy: Việc Tuân thủ nguyên tắc trực quan trong việc
dạy học Tiếng Việt thật sự là một việc làm cần thiết, nhằm góp phần nâng cao chất
lợng dạy và học Tiếng Việt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ môn học đặt ra.
1) Cơ sở lý luận:
Luận điểm chủ nghĩa Mác - Lê Nin cho rằng Ngôn ngữ không chỉ là phơng
tiện giao tiếp quan trọng nhất mà còn là phơng tiện đặc trng cho loài ngời, không
có ngôn ngữ, xã hội không thể tồn tại.
Nếu ngôn ngữ là phơng tiện giao tiếp, trao đổi thôn tin, t tởng tình cảm
thì nhiệm vụ trong trọng nhất của nhà trờng là phát triển ngôn ngữ cho học sinh
Ta thấy tất cả các giờ dạy tiếng việt phải đi theo khuynh hớng phát triển các kỹ


năng: Nghe, đọc, viết, nói, học sinh cần hiểu rõ ngời tra nói và viết không phải chỉ
để cho mình mà cho ngời khác, nên ngôn ngữ cần phải chính xác, dễ hiểu.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin cho rằng Con đờng biện chứng của
nhận thức chân lí đi qua hai giai đoạn, nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính tâm
lí học đã chứng minh rằng: Đặc điểm nhận thức của HS tiểu học là chuyên từ
không chủ định sang có chủ định, chuyển từ cảm tính sang lí tính và chuyển từ trực
quan cụ thể sang trừu tợng khái quát. Đặc điểm nhân cách của HS tiểu học có một
số nét nổi bật đó là tính cả tin và tính bắt trớc (các em bắt trớc hầu nh tất cả, đặc
biệt là học sinh đầu cấp.
Lý luận về dạy học đã nêu rõ Dạy học trực quan bao gồm. Đồ dùng trực
quan và học và học sinh tiến hành quan sát chúng một cách khoa học dới vai trò
chủ đạo của giáo viên. Đồ dùng trực quan phải phản ánh nội dung, kiến thức bài
học. Đồ dùng trực quan phải đợc sử dụng đúng thời điểm trong dạy học.
Tất cả những nội dung nêu trên thuộc phạm vi nghiên cứu khoa học lý luận.
Đó là cơ sở của nguyên tắc trực quan, trong dạy học tiếng và cũng là cơ sở để đề
lên nguyên tắc. phải tính đến đặc điểm tiếng mẹ đẻ của HS trong quá trình dạy học
TV. Do đó dạy học TV cần dựa trên kinh nghiệm sống và kinh nghiệm lời nói của
HS.
2) Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay, sách giáo khoa mới, sách giáo viên, vở bài tập Tiếng Việt là
những phơng tiện thuận lợi giúp cho giáo viên và học sinh đổi mới cách dạy và học
môn Tiếng Việt theo hớng thực hành giao tiếp, chú trọng còn các kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết Và thực tế trong những năm gần đây, chất lợng dạy và học môn tiếng
việt đã đợc nâng cao rõ rệt, kĩ năng thực hành tiếng việt của học sinh đã có nhiều
tín bộ
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, thực trạng việc dạy học tiếng việt
vẫn biểu hiện một số tồn tại cơ bản sau:
Hầu nh các giáo viên tiểu học đều nhận thức đợc vai trò quan trọng của trực
quan trong việc nâng cao hiệu quả dạy học, nhng quan niệm nh thế nào là đảm bảo
nguyên tắc trực quan, nh thế nào là một tài liệu trực quan có chất lợng và sử dụng

ra sao trong giờ dạy. Tiếng Việt vẫn còn là vấn đề cần làm sáng tỏ hơn.
Thông thờng khi nói đến trực quan, giáo viên hay nghỉ đến các vật thật, vật
thay thế nh: Tranh ảnh, mô hình, các sơ đồ biểu bảng
Trên thực tế (ở nhiều trờng tiểu học) có cán bộ quản lý khi dự giờ của giáo
viên, các giáo viên khi dự giờ đồng nghiệp thờng phê là không có đồ dùng dạy học,
không sử dụng trực quan khi không thấy có tranh ảnh hoặc các đồ dùng và xen đó
là một điểm yếu đáng nói của giờ dạy. Từ lý do đó dẫn đến một ứng sử thông thờng
là: Hễ biết có ngời dự giờ thì việc đầu tiên ngời giáo viên dạy phải lo cho đợc các
hình hoặc các bức vẽ phóng to, các bảng phụ, thu thập tranh ảnhMà việc làm đó,
những đồ vật đó có khi không thật sự hoặc không cần thiết.
Để minh hoạ cho một giờ tập đọc, có giáo viên phải bỏ ra hàng trăm nghìn
đồng để có đợc một bức tranh và sử dụng bức tranh đó nh trong giờ Mĩ thuật: Giảng
giải về hình ảnh, mầu sắc, vẻ đẹp của bức tranh.
Khi dạy phần tìm hiểu bài của bài tập đọc, không ít giáo viên đã sử dụng một
hệ thống các bảng phụ bằng giấy, cái to, cái nhỏ để ghi các ý chính và đại ý (nội
dung) của bài rồi dán lên hầu nh kín bảng để cho học sinh quan sát.
Khi dạy những bài có nội dung ghi nhớ hay quy tắc nh ở phân môn ngữ pháp
(Lớp cải cách) phân môn tập làm văn hay các môn học khác, giáo viên cũng dùng
bảng phụ tơng tự nh vậy
Thực tế những việc nêu ra trên đây phản ánh một quan niệm không đầy đủ
về trực quan và minh chứng cho việc sử dụng trực quan không đích cho việc dạy
học Tiếng Việt.
Một tồn tại khác nữa là có khá nhiều giáo viên có những hạn chế, những nh-
ợc điểm về tiếng nói, về chữ viết phơng tiện trực quan cơ bản của giáo viên khi dạy
tiếng việt, có giáo viên đã không tự hoàn thiện đợc kĩ năng đọc của mình Học
sinh vẫn mắc nhiều lỗi phát âm, đọc ê- a, ngắc ngứ tiếng địa phơng, chữ viết sấu và
mắc lỗi chính tả Đó cũng chính là hậu quả của việc không tuân thủ nguyên tắc
trực quan trong dạy học Tiếng Việt
Dới đây là bảng thống kê kết quả một số nội dung của nhà trờng trong năm
học 2004- 2005 phản ánh và liên quan đến thực trạng nêu trên:

TT Nội dung Số lợng
Kết quả xếp loại
Giỏi- tốt Khá T, bình Yếu
1
Nhận thức của giáo viên
về tính trực quan trong
dạy học Tiếng Việt
16 GV
3
18,7%
5
31,2%
4
25%
4
25%
2
Kĩ năng nói- đọc đúng
của giáo viên
16 GV
3
18,7%
4
25%
5
31,2%
4
25%
3
Kĩ năng viết chữ của

giáo viên
16 GV
5
31,2%
4
25%
4
25%
3
18,7%
4
Giờ dạy tiếng việt
đợc đánh giá xếp loại
36 giờ
6
16,7%
14
38,9%
10
27,7%
6
16,7%
5
Học lực môn tiếng việt
cuối học kỳ I
460 HS
34
7,4%
188
40,9%

190
41,3%
48
10,4%
6
Học lực môn tiếng việt
cuối năm
460 HS
40
12,4%
156
33,9%
193
43,0%
38
8,3%
7
Kết quả thi viết chữ đẹp
của học sinh
460 HS
57
12,4%
156
33,9%
183
39,8%
64
13,9%
Từ thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu tìm tòi đa ra một số giải pháp và áp
dụng vào thực tiễn công tác chỉ đạo chuyên môn, nhằm khắc phục những tồn tại,

góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Tiếng Việt trong nhà trờng.
II. nội dung chính của đề tài:
A. Các giải pháp thực hiện:
1. Giải pháp thứ nhất: Cũng cố và nâng cao nhận thức về tính trực quan và
tài liệu trực quan trong việc dạy học Tiếng Việt.
2. Giải pháp thứ hai: Phải sác định đúng và chuẩn bị tốt những tài liệu trực
quan cơ bản nhất, thiết thực nhất và sử dung đúng mức cho mỗi giờ dạy học tiếng
việt.
3. Giải pháp thứ ba: Phải điều chỉnh và khắc phục triệt để những nhợc điểm
về tiếng nói và chữ viết ở giáo viên, thực hành nói và việt đúng tiếng Việt
phổ thông.
B. Các biện pháp tổ chức thực hiện:
Ngay từ đầu năm học 2005- 2006 tôi đã báo cáo với hiệu trởng nhà trờng
về thực trạng của vấn đề và các giải pháp, biện pháp tổ chức thực hiện. Đợc sự nhất
trí ủng hộ của lảnh đạo nhà trờng cùng với tập thể s phạm nhà trờng, tôi cùng với
tập thể s phạm nhà trờng đã tiến hành các biện pháp tổ chức thực hiện nh sau:
1) Thông qua việc tổ chức một buổi họp chuyên môn cho toàn thể giáo viên
nhà trờng để nêu thực trang của vấn đề. Triển khai các giải pháp để giáo viên có
định hớng thực hiện.
2) Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của các khối lớp: Yêu cầu giáo
viên trao đổi, thảo luận, đánh giá thực trạng, tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề đợc đề
cập nhằm cũng cố và nâng cao nhận thức về tính trực quan và tài liệu trực quan
trong dạy học Tiếng Việt. Cụ thể giúp giáo viên nhận thức có một số vấn đề sau:
Thế nào là sử dụng trực quan trong giờ dạy tiếng việt?. Thế nào là tài liệu cơ bản,
có chất lợng trong giờ dạy tiếng việt? Hiểu theo nghĩa đầy đủ, các yếu tố trực
quan là các yếu tố có khả năng tác động lên giác quan ( Có 5 giác quan).
Khi lời nói , ngôn trở thành đối tợng xem xét thì thực hiện nguyên tắc trực
quan trong giờ tiếng việt không chỉ là sử dụng các đồ dùng , các sơ đồ, biểu bảng
mà còn quan trọng nhất là lời nói, ngôn ngữ của giáo viên. Tài liệu trực quan cơ
bản trong giờ học tiếng việt phải tiếng việt trong những mẫu tốt nhất. Tức là những

ngữ liệu tiêu biểu (văn học dân gian, tác phẩm văn học cổ điển việt nam, những
bài, đoạn, câu văn hay thơ của các tác giả nổi tiếng)
Yêu cầu đầu tiên, những ngữ liệu đợc sử dụng trong giờ học tiếng việt cần
tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ngôn ngữ mà nó đợc đa ra làm dẫn chứng. Không
nên dẫn ra các trờng hợp đặc biệt, các trờng hợp có tính trung gian hoặc
cha thống nhất ý kiến của các nhà việt ngữ.
Yêu cầu thứ hai là những ngữ liệu này phải mang tính trực quan , nghĩa là
làm sao cho đối tợng nghiên cứu dể dàng tác động vào giác quan của trẻ em.

×