Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Chẩn đoán và điều trị bảo tồn thai vết mổ cũ tại Bệnh viện Hùng Vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.51 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN THAI VẾT MỔ CŨ  
TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG 
Tạ Thị Thanh Thủy *, Đỗ Ngọc Xuân Trang** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Thai bám vết mổ cũ (Thai VMC) là một dạng hiếm gặp của thai lạc chỗ do thai làm tổ ở sẹo mổ 
lấy thai cũ. Ngày nay, thai VMC thường gặp hơn do tỉ lệ mổ lấy thai tăng. Đây là loại bệnh lý rất nguy hiểm, có 
thể đưa đến vỡ tử cung, xuất huyết ồ ạt và những biến chứng đe dọa mạng sống nếu thai phát triển lớn. Chẩn 
đoán sớm và chính xác thai bám VMC có vai trò quan trọng trong việc quyết định điều trị nhằm giảm bệnh suất 
và tử suất của bệnh nhân. 
Mục tiêu: Tổng kết tình hình chẩn đoán và điều trị thai VMC tại bệnh viện Hùng Vương trong năm 2012 
nhằm; (1) Xác định tỉ lệ thai VMC bị chẩn đoán lầm với thai trong tử cung ; (2) Xác định tỉ lệ điều trị bảo tồn 
thành công thai VMC; (3) Xác định thời gian chờ đợi để βhCG và siêu âm âm tính sau điều trị. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả 58 trường hợp thai VMC được chẩn đoán và điều trị 
bảo tồn trong năm 2012 tại bệnh viện Hùng Vương. 
Kết quả: Tuổi thai trước điều trị của thai VMC thay đổi từ 4,5 đến 13 tuần. Trước nhập viện, tỉ lệ thai 
VMC bị chẩn đoán lầm với thai trong tử cung hay sẩy thai là 55%. Hút nạo lòng tử cung hoặc phá thai nội 
khoa ở thai VMC trước nhập viện gây xuất huyết âm đạo nặng nề. Có 7 trong 58 trường hợp rơi vào trạng 
thái sốc và 2 trường hợp buộc phải cắt tử cung cấp cứu để cầm máu. 100% trường hợp thai VMC được điều 
trị bảo tồn thành công với tiêm Methotrexate (MTX) tại chỗ dưới sự hướng dẫn của siêu âm hoặc đường 
toàn thân. Không có trường hợp nào có tác dụng phụ trầm trọng trong thời gian điều trị. Thời gian chờ đợi 
để βhCG âm tính và hình ảnh thai VMC biến mất trên siêu âm lần lượt là 57,4 ± 34,0 ngày (7‐127 ngày), và 
67,8 ± 35,7 ngày (20‐150 ngày). 
Kết luận: Siêu âm giúp chẩn đoán sớm và chính xác thai bám VMC. Tiêm MTX tại chỗ dưới hướng dẫn 
của siêu âm là phương pháp cho tỷ lệ thành công cao nhằm giúp bảo tồn chức năng sinh sản của người phụ nữ 
với tỉ lệ biến chứng thấp nhất.  
Từ khóa: thai bám VMC, điều trị bảo tồn, tiêm Methotrexate tại chỗ hoặc toàn thân  



ABSTRACT 
DIAGNOSIS AND TREATMENT OF CESAREAN SCAR PREGNANCY  
AT HUNG VUONG HOSPITAL 
Ta Thi Thanh Thuy, Do Ngoc Xuan Trang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 189 ‐196 
Background: Cesarean scar pregnancy (CSP) is the development of a gestational sac in a cesarean scar of 
the lower uterine segment. It is a rare form of ectopic pregnancy. The incidence of cesarean scar pregnancy has 
risen  during  the  past  few  years  because  of  rising  cesarean  section  rates  worldwide.  The  CSP  is  a  dangerous 
condition,  possibly  leading  to  uterine  rupture,  profuse  bleeding,  and  life‐threatening  complications  as  the 
pregnancy advances. An early and accurate diagnosis of CSF may constitute pivotal points in the management in 
order to decrease morbidity and mortality rate for patients. 

* Khoa Phụ ngoại Phụ khối u Bệnh viện Hùng Vương,  ** Bộ môn Sản Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: TS. Tạ Thị Thanh Thủy  ĐT: 0913633899 
Email:  

Sản Phụ Khoa

189


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Objectives: To review the diagnosis and treatment of CSF among patients admitted Hung Vuong hospital 
in  2012  for:  (1)  To  determine  rate  of  misdiagnosis  from  CSF  with  intrauterine  pregnancy;  (2)  To  determine 
successful rate of conservative treatment of CSF, and (3) To determine time for serum βhCG to drop to normal, 
and for the CSP mass to be resolved completely. 

Methods: Retrospectively review of 58 CSF cases which were diagnosed and conservatively treated at Hung 
Vuong hospital in 2012 
Results: Gestational age fluctuated from 4.5 to 13 weeks. Before admitting the hospital, 55% CSF cases were 
misdiagnosed with intrauterine pregnancy. D&C or medical abortion of CSF caused profuse bleeding. 7 in these 
58 cases were fallen in serious shock and had to suffered hysterectomy for avoiding life threatening. 100% CSF 
cases were successfully treated with local or systemic methotrexate without any complication. Waiting time for 
serum βhCG to drop to normal and for the CSP mass to be resolved completely were 57.4 ± 34.0 days (7 ‐ 127 
days) and 67.8 ± 35.7 days (20 ‐ 150 days), respectively. 
Conclusions: Cesarean scar pregnancy could be diagnosed early and accurately by transvaginal ultrasound. 
Local  or  systemic  methotrexate  was  found  to  be  effective  in  conservative  treatment  of  CSF  without  any 
complication. 
Key words: cesarean scar pregnancy, local or systemic methotrexate injection.  
máu, vỡ tử cung, mở bụng cầm máu hay thậm 
GIỚI THIỆU 
chí  cắt  tử  cung(6,9,12,15).  Do  đó  khảo  sát  siêu  âm 
Thai bám vết mổ cũ (thai VMC) là một dạng 
(SA) một túi thai trên một bệnh nhân có vết mổ 
hiếm gặp của thai lạc chỗ, do thai làm tổ tại mô 
lấy thai cũ phải hết sức cẩn thận. Việc chẩn đoán 
xơ  sẹo  của  vết  mổ  lấy  thai  cũ,  với  ca  đầu  tiên 
sớm cho kết cục tốt hơn với bất kỳ phương pháp 
được  mô  tả  bởi  Larsen  và  Solomon  vào  năm 
điều trị nào(18). Khoảng 31 phương pháp điều trị 
1978(11). Chẩn đoán chỉ được đặt ra sau khi bệnh 
thai VMC được tổng kết trong báo cáo của Ilan 
nhân này bị cắt tử cung do nỗ lực cầm máu thất 
E.  Timor‐Tritsh  và  Ana  Monteagudo  năm 
bại.  Tiếp  đó  rải  rác  các  trường  hợp  vỡ  tử  cung 
2012(18), nhưng nội soi buồng tử cung lấy túi thai 
sớm(1,8)  hay  nhau  cài  răng  lược(5,16)  sớm  lần  lượt 

và chích Methotrexate trực tiếp vào túi thai được 
được báo cáo khiến cho tình trạng thai bám vết 
xem là 2 phương pháp điều trị hiệu quả với ít tai 
mổ cũ ngày càng được chú ý nhiều hơn. Từ năm 
biến  nhất(15,18).  Bệnh  viện  Hùng  Vương  là  một 
1990  đến  năm  1999  chỉ  có  khoảng  19  bài  báo 
trong  các  bệnh  viện  sản  phụ  khoa  lớn  ở  thành 
dưới  dạng  mô  tả  từng  trường  hợp(18),  kết  thúc 
phố  Hồ  Chí  Minh  với  số  sanh  hằng  năm  hơn 
năm 2012 đã xuất hiện hơn 110 bài báo lớn với 
40.000  ca  (theo  báo  cáo  thống  kê  năm  2011  và 
các nghiên cứu tổng quan có giá trị. Hầu hết các 
2012  của  phòng  KHTH  –  BV  Hùng  Vương). 
tác  giả  đều  ghi  nhận  sự  xuất  hiện  ngày  càng 
Trong  năm  2010,  số  ca  thai  VMC  xuất  hiện  rải 
nhiều  của  thai  bám  VMC  đòi  hỏi  một  phương 
rác và thường được chẩn đoán lầm với thai ở cổ 
tiện chẩn đoán sớm và chính xác(2,4,20,18). Siêu âm 
tử  cung.  Đến  năm  2011,  số  ca  thai  VMC  vào 
ngã âm đạo với đầu dò tần số cao, có hay không 
khoảng  26  trường  hợp  và  được  điều  trị  bằng 
sự  giúp  đỡ  của  Doppler  cho  phép  phát  hiện 
nhiều  phương  pháp  khác  nhau.  Trong  năm 
được các trường hợp thai bám VMC với độ nhạy 
2012,  các  ca  thai  VMC  nhập  viện  tăng  đáng  kể 
86,4%(3,10).  Tuy  nhiên  khoảng  13,6%  các  trường 
và  đa  số  được  điều  trị  bằng  một  phương  pháp 
hợp  thai  bám  VMC  được  chẩn  đoán  nhầm  với 
thống nhất chung. Nhằm đánh giá hiệu quả của 
sẩy thai diễn tiến, thai ở cổ tử cung và thai trong 

phương  pháp  điều  trị  đang  áp  dụng  tại  bệnh 
tử  cung(18).  Hút  nạo  lòng  tử  cung  hay  phá  thai 
viện, một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện.  
nội khoa những trường hợp này gây nên nhiều 
Mục tiêu của nghiên cứu này là: (1) Xác định 
hậu quả nghiêm trọng như băng huyết, sốc mất 
tỉ lệ thai VMC bị chẩn đoán lầm với thai trong tử 

190

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
cung  ;  (2)  Xác  định  tỉ  lệ  điều  trị  bảo  tồn  thành 
công  thai  VMC;  (3)  Xác  định  thời  gian  chờ  đợi 
để βhCG và siêu âm âm tính sau điều trị. 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tất  cả  những  hồ  sơ  bệnh  án  của  những 
trường  hợp  thai  VMC  được  chẩn  đoán  và  điều 
trị tại bệnh viện Hùng Vương từ 01/01/2012 đến 
31/12/2012 ‐ thoả tiêu chí thu nhận và loại trừ ‐ 
đều  được  hồi  cứu  để  tìm  những  dữ  liệu  cần 
thiết.  Điều  kiện  thu  nhận  là  những  hồ  sơ  bệnh 
án  có  chứa  đầy  đủ  thông  tin  của  những  bệnh 
nhân  được  chẩn  đoán,  điều  trị  đủ  liều  và  theo 
dõi  tại  bệnh  viện  cho  đến  khi  điều  trị  kết  thúc. 
Những trường hợp điều trị dở dang hoặc hồ sơ 
bệnh  án  không  có  đủ  thông  tin  đều  bị  loại  trừ 

khỏi nghiên cứu. 

Nghiên cứu Y học

Ở  nhóm  (2),  do  sự  hình  thành  của  khối  tụ 
máu ở vị trí thai VMC sau can thiệp ngoại viện 
nên chỉ định điều trị rất thay đổi, tùy thuộc tình 
trạng  bệnh  nhân  lúc  nhập  viện.  Ở  những  bệnh 
nhân  có  xuất  huyết  ồ  ạt  lúc  nhập  viện  thường 
được  nạo  cầm  máu  và  đặt  sonde  foley  (bóng 
chèn)  chèn  ép  nơi  chảy  máu.  Chỉ  định 
Methotrexate  sau  đó  tùy  thuộc  vào  kích  thước 
khối  tụ  máu  được  hình  thành  và  lượng  βhCG 
sau cấp cứu ban đầu. 
Số  liệu  được  nhập  và  xử  lý  bằng  phần 
mềm  thống  kê  Stata  12.0.  Thống  kê  mô  tả  và 
các test so sánh χ2, ttest, Anova được áp dụng 
để xử lý số liệu. 

KẾT QUẢ 

Tất cả thông tin từ hồ sơ bệnh án đều được 
ghi chép vào phiếu thu thập số liệu cấu trúc sẵn. 
Phương pháp điều  trị  đang  được  áp  dụng 
tại  bệnh  viện  phụ  thuộc  2  nhóm  bệnh  nhân 
khác nhau: 
‐Nhóm  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  thai 
VMC và chưa được can thiệp gì trước đó, và: 
‐Nhóm  bệnh  nhân  đã  được  can  thiệp  trước 
khi  nhập  viện  bằng  cách  hút  nạo  lòng  tử  cung 

hoặc  phá  thai  nội  khoa.  Những  bệnh  nhân  này 
khi  nhập  viện  thường  có  khối  máu  tụ  tại  vị  trí 
thai VMC, có thể lớn hay nhỏ tùy theo mức độ 
can thiệp ngoại viện. 

 

Hình 1: Thai ở VMC 

Ở  nhóm  (1),  bệnh  nhân  được  điều  trị  bằng 
Methotrexate tiêm tại chỗ vào khối thai qua ngã 
bụng hoặc âm đạo dưới hướng dẫn của siêu âm, 
có  hoặc  không  có  bổ  sung  bằng  Methotrexate 
tiêm  bắp  (đường  toàn  thân).  Khám  siêu  âm  và 

 

xét nghiệm βhCG được thực hiện mỗi tuần. Khi 
lượng  βhCG  bắt  đầu  giảm,  đồng  thời  với  sự 

Hình 2: Khối máu tụ do thai VMC 

hình thành khối máu tụ tại vị trí  thai VMC, thì 
bệnh  nhân  được  theo  dõi  ngoại  trú  mỗi  tuần. 
Đến thời điểm βhCG âm tính (< 5 UI/L) thì tùy 
theo kích thước khối máu tụ tại VMC mà bệnh 
nhân được chỉ định can thiệp thêm hay không. 

Sản Phụ Khoa


191


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Tuổi trung bình 34 ± 4,5, với gần 2/3 trường 
hợp có tuổi còn rất trẻ <34 tuổi, cho thấy nhu cầu 
bảo tồn chức năng sinh sản là cần thiết. 
Số lần mang thai trung bình 2,7 ± 1,4 lần (1‐7 
lần) với 53% trường hợp có vết mổ cũ mổ sanh 1 
lần, 45% mổ sanh 2 lần và 2% mổ sanh 3 lần.  

 

Khoảng cách từ lần mổ sanh cuối cùng đến 
lúc thai VMC trung bình 43,2 ± 26,6 tháng (8‐120 
tháng),  trong  đó  đa  số  trường  hợp  có  khoảng 
cách thời gian ≥ 24 tháng. 
Tuổi thai trước can thiệp nhỏ nhất 4,5 tuần, 
lớn  nhất  13  tuần,  tuổi  thai  trung  bình  6  ±  1,4 
tuần.  

Hình 3: Thai có nhau bám ở VMC 

Bảng 2: Bệnh cảnh lâm sàng của những trường hợp 
nhập viện 

 


Hình 4: Thai ở VMC sau điều trị MTX 2 liều 
Trong  năm  2012,  58  trường  hợp  thai  bám 
VMC được chẩn  đoán  và  điều  trị  tại  bệnh  viện 
với một số đặc tính được mô tả ở bảng 1. 
Bảng 1: Một số đặc tính của mẫu nghiên cứu 
Đặc tính
Tuổi

Số lần mổ sanh
trước
Khoảng cách từ lần
mổ sanh cuối đến
lần thai này
Số con sống
Tuổi thai lúc nhập
viện

192

< 29
– 34
> 34 – 39
≥ 39
1 lần
2 lần
3 lần
< 12 tháng
12 – 23 tháng
≥ 24 tháng
≤ 2 con

≥ 3 con
< 7 tuần
– 9 tuần
> 9 tuần

Số ca Tỉ lệ %
8
14
27
46
16
28
7
12
31
53
26
45
1
2
5
9
4
7
49
84
51
88
7
12

40
69
15
26
3
5

Triệu chứng
Lý do nhập viện
Khám thai
Ra huyết âm đạo bất thường
Muốn phá thai nội khoa
Đau bụng
Không đau
Đau ít
Đau nhiều
Ra huyết âm đạo
Không ra huyết
Ra huyết ít
Ra huyết nhiều
Có can thiệp trước nhập viện
Hút lòng tử cung (nạo/ ĐHKN)
Phá thai nội khoa
Điều trị MTX (đã chẩn đoán +)
Không can thiệp
Lượng βhCG/máu lúc nhập viện
≤ 1000 UI/L
1001 – 10000 UI/L
10001 - 100000 UI/L
> 100000 UI/L


Số ca

Tỉ lệ %

11
8
39

19
14
67

30
26
2

52
45
3

28
20
10

48
34
18

6

14
1
37

10
24
2
64

5
21
27
5

9
36
46
9

Trong  58  trường  hợp  nhập  viện  có  7 
trường hợp sốc mất máu nặng được mô tả chi 
tiết như sau: 
‐1 trường hợp băng huyết ồ ạt tại tuyến dưới 
khi  đang  hút  thai  8  tuần.  Khi  đến  viện,  bệnh 
nhân  đang  trong  tình  trạng  sốc  mất  máu  nặng 
tri giác lơ mơ. Lượng máu ước tính 3000mL và 
chỉ  định  cắt  tử  cung  cấp  cứu  được  thực  hiện. 
Hậu phẫu ổn. 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
‐5 trường hợp sốc mất máu sau hút thai và 
phá thai nội khoa do tuyến dưới chuyển được 
kiểm soát cầm máu tốt với bóng Foley chèn cổ 
tử  cung  song  song  với  hồi  sức  truyền  dịch, 
truyền máu. Tình trạng bệnh nhân ổn định sau 
đó  và  được  can  thiệp  tiếp  theo  như  một 
Hematome VMC. 
‐1 trường hợp thai 13 tuần, phá thai nội khoa 
tại viện do chẩn đoán nhầm thai trong tử cung, 
gây sốc mất máu 1000mL lúc sẩy thai. Can thiệp 
chèn  bóng  Foley  ở  cổ  tử  cung  được  thực  hiện 
ngay. Tuy nhiên mỗi sau lần rút bóng Foley, chỗ 
nhau  bám  xuất  huyết  trở  lại  gây  thiếu  máu 
nghiêm trọng. Phẫu thuật mở bụng cầm máu và 
tái tạo vết mổ thất bại dẫn cắt tử cung. 

Nghiên cứu Y học

Bệnh cảnh lâm sàng của những trường hợp 
nghiên cứu được mô tả chi tiết trong bảng 2. 
Đa số bệnh nhân trong nhóm này là có thai 
ngoài ý muốn và muốn phá thai (67%). 
Đa  số  bệnh  nhân  thai  VMC  không  có  triệu 
chứng đau bụng hoặc đau rất nhẹ (97%). 
Xuất huyết âm đạo cũng không thường gặp 
(49%), trừ trường hợp có can thiệp hút nạo lòng 
tử  cung  hoặc  phá  thai  nội  khoa  trước  đó  (χ2  = 

32,8 ; p < 0,000). 
Những  bệnh  nhân  được  can  thiệp  trước 
nhập  viện  có  lượng  máu  mất  nhiều  hơn  so  với 
những trường hợp không có can thiệp (bảng 3). 

Bảng 3: Lượng máu mất của các trường hợp nhập viện 
Can thiệp trước nhập viện
Hút lòng tử cung (nạo/ ĐHKN)
Phá thai nội khoa
Điều trị MTX (đã chẩn đoán +)
Không can thiệp
Tổng cộng

Hút nạo lòng tử cung gây mất máu nhiều so 
với phá thai nội khoa ở những trường hợp thai 
VMC (p < 0,001). Thai VMC nhập viện chưa có 
can thiệp trước đó thường ít mất máu ngoại trừ 
trường hợp thai quá to. 
Lúc  nhập  viện  chỉ  có  7%  trường  hợp  được 
chẩn  đoán  thai  VMC,  so  với  98%  trường  hợp 
được chẩn đoán thai VMC khi nhập khoa (chỉ có 
1 ca được chẩn đoán sẩy thai) (Bảng 4). 
Tổng  số  bệnh  nhân  được  điều  trị  tại  khoa 
nội trú là 56 trường hợp (1 trường hợp cắt TC 
trước khi nhập khoa, 1 trường hợp cắt TC khi 
nhập khoa). 

Lượng máu mất (ml)
< 100 100-500 501 – 1000 > 1000
Số ca (%)

1 (02,2) 1 (66,7) 2 (28,6) 2 (66,7)
8 (17,8) 2 (33,3) 3 (42,8) 1 (33,3)
1 (02,2) 0 0 0
35 (77.8) 0 2 (28,6) 0
45 (77,5) 3 (5,2) 7 (12,1) 3 (5,2)

Cộng
Số ca (%)
6 (10,3)
14 (24,2)
1 (01,7)
37 (63,8)
58 (100)

Bảng 4: Chẩn đoán thai ở VMC 
Chẩn đoán
Trước nhập viện
Chưa xác định vị trí
Thai trong TC
Thai đang sẩy
Thai đoạn eo TC
Thai VMC
Tại khoa
Sẩy thai
Thai VMC
Khối tụ máu do thai VMC
Thai trứng bán phần ở VMC
Cắt TC do thai VMC chảy máu

Số ca Tỉ lệ %

19
25
7
3
4

33
43
12
5
7

1
43
12
1
1

2
74
20
2
2

Chi tiết điều trị của 56 trường hợp này được 
mô tả ở bảng 5. 
*

 Phá thai nội khoa với Misoprostol. ** Bệnh nhân được điều trị đủ 3 liều MTX ngoại viện nên chỉ chọc hút ối và theo dõi. ¶ 
Theo dõi không chích thuốc MTX. ¥ MTX toàn thân theo phác đồ hóa trị trong thai trứng 


Trong  số  51  trường  hợp  chích  MTX  (không 

lại phải tiêm hỗ trợ mũi MTX thứ 2 (tại chỗ hoặc 

kể trường hợp thai trứng) có 37 ca (73%) chỉ tiêm 

toàn thân). Không có trường hợp nào phải tiêm 

1 mũi MTX tại chỗ duy nhất. Số trường hợp còn 

mũi thứ 3. 

Sản Phụ Khoa

193


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

Tỉ  lệ  điều  trị  bảo  tồn  thành  công  là  100% 
trường hợp với lượng máu mất không đáng kể. 
Khi lượng βhCG/ máu trở về âm tính, có 41/ 54 
trường  hợp  (75,9  %)  không  cần  can  thiệp  gì 
thêm. Số trường hợp còn lại (24,1%) được thoát 
khối  máu  tụ  ngã  âm  đạo,  trong  đó  chỉ  có  2 
trường  hợp  cần  dùng  bóng  chèn  bổ  sung  sau 
thoát lưu máu tụ. 


Thời gian trung bình để βhCG âm tính: 57,4 
± 34,0 ngày (7‐127 ngày). 
Thời gian trung bình để khối thai (khối máu 
tụ)  ly  giải  hoàn  toàn  quan  sát  qua  siêu  âm  ngã 
âm đạo là 67,8 ± 35,7 ngày (20‐150 ngày). 
Sự  khác  biệt  về  thời  gian  lành  bệnh  của  2 
nhóm  bệnh  nhân  khi  nhập  viện  được  mô  tả  ở 
bảng 6. 

Bảng 5: Điều trị thai VMC tại khoa nội trú 
Điều trị
Chẩn đoán tại khoa
Sẩy thai
Thai VMC
Khối tụ máu do thai VMC
Thai trứng bán phần/ VMC
Cộng

MTX tại chỗ
Số ca (%)
36 (83,7)

36

MTX toàn thân
Số ca (%)

Khác
Số ca (%)


Cộng

6 (14,0)
9 (81,8)

1*
1 (2,3)**
2 (8,2)¶

1
43
11
1
56

16

4

Bảng 6: So sánh thời gian lành bệnh của 2 nhóm bệnh nhân 

 

Thai VMC (N = 43)

Máu tụ VMC (N = 12)

P*


Nồng độ βhCG khi nhập khoa (UI/L) 
Thời gian trung bình βhCG âm tính (ngày) 
Thời gian ly giải hết khối máu tụ (ngày)

25.440 ± 4.760 
60,9 ± 5,1 
70,9 ± 5,4

9.412 ± 3.708 
46,3 ± 9,8 
58,0 ± 10,4 

0, 05
0,44 
0,46

* T.test 

Nhóm thai VMC chưa can thiệp có nồng độ 
βhCG  cao  hơn  nhóm  đã  có  can  thiệp  trước  đó. 
Nhóm  có  can  thiệp  trước  (tạo  khối  tụ  máu)  có 
thời  gian  βhCG  về  âm  tính  cũng  như  thời  gian 
cho  khối  tụ  máu  ly  giải  hoàn  toàn  ngắn  hơn 

nhóm  có  thai  VMC  chưa  xử  lý.  Tuy  nhiên  sự 
khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê. 
Sự  tương  quan  giữa  tuổi  thai  và  thời  gian 
lành bệnh được mô tả ở bảng 7: 

Bảng 7: So sánh thời gian lành bệnh theo tuổi thai 


 
Thời gian trung bình βhCG âm tính (ngày) 
Thời gian ly giải hết khối máu tụ (ngày) 

 < 7 tuần 
 51,3 ± 31,4 
 61,4 ± 32,7

Tuổi thai
7 – 9 tuần 
67,8 ± 36,3 
78,1 ± 37,6

P*
> 9 tuần 
106,5 ± 17,7 
124,0 ± 22,6

0, 03
0,02

 * Test Anova 

Có sự tương quan giữa thời gian lành bệnh 
với  tuổi  thai:  Tuổi  thai  càng  lớn  thì  thời  gian 
lành  bệnh  càng  kéo  dài  (cả  thời  gian  βhCG  trở 
về âm tính lẫn thời gian ly giải khối máu tụ). 

BÀN LUẬN 

Thai  VMC  là  một  dạng  thai  lạc  chỗ  nguy 
hiểm  với  nhiều  biến  chứng  nặng  nề.  58  trường 
hợp thai VMC được thu thập với tuổi thai trung 
bình  là  6  ±  1,4  tuần  (4,5  ‐  13  tuần).  Đa  số  các 
trường hợp thai VMC ít có triệu trứng đặc hiệu. 

194

Việc  chẩn  đoán  sớm  và  can  thiệp  tích  cực  thai 
VMC  mang  lại  hiệu  quả  an  toàn  và  cải  thiện 
chức năng sinh sản trong những lần có thai tiếp 
theo.  Đặc  biệt  thai  VMC  tập  trung  vào  những 
phụ  nữ  trẻ  ≤  34  tuổi  (60%).  Tổng  quan  của 
Timor‐Tritsch  và  cộng  sự(18)  cho  rằng  việc  chẩn 
đoán  sớm  thai  VMC  không  đơn  giản.  Nghiên 
cứu của chúng tôi ghi nhận 58 trường hợp thai 
vết mổ cũ, trong đó có 20 trường hợp chẩn đoán 
nhầm  thai  VMC  với  thai  trong  tử  cung  và  sẩy 
thai diễn tiến. Quyết định hút nạo lòng tử cung 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
và  uống  thuốc  phá  thai  nội  khoa  tạo  ra  20% 
trường hợp biến thể của thai VMC – Hematome 
VMC, trong đó 7 trường hợp rơi vào trạng thái 
sốc  mất  máu  nặng  600‐3000mL.  Can  thiệp  hồi 
sức chống sốc, truyền dịch, truyền máu, truyền 
huyết  tương  đông  lạnh  cùng  đặt  bóng  Foley 

chèn  cổ  tử  cung  giúp  bảo  tồn  được  5  tử  cung. 
Hai  trường  hợp  buộc  phải  cắt  tử  cung  để  cầm 
máu.  Vì  quan  niệm  thai  VMC  ở  Việt  Nam  chỉ 
được  chú  ý  trong  5  năm  gần  đây,  tập  trung  ở 
những  bệnh  viện  lớn,  những  báo  cáo  về  thai 
VMC  lại  chưa  được  phổ  biến  rộng  rãi  nên  tỉ  lệ 
chẩn đoán nhầm với thai trong tử cung hay sẩy 
thai tiến triển còn khá cao. Siêu âm ngã âm đạo 
với  đầu  dò  tần  số  cao,  có  hay  không  phối  hợp 
với Doppler cộng với thái độ thận trọng sẽ giúp 
chẩn đoán sớm thai bám VMC ở những thai phụ 
từng  có  vết  mổ  lấy  thai.  Việc  chẩn  đoán  muộn 
hay  nhầm  với  thai  trong  tử  cung  cho  tiếp  tục 
dưỡng  thai  có  thể  dẫn  đến  vỡ  tử  cung  tự  phát 
khi  thai  được  13‐17  tuần(7,14),  thậm  chí  thoát  vị 
bàng quang vào tử cung(8). Can thiệp khi vỡ thai 
VMC có tiên lượng khá xấu. Một số khác sẽ diễn 
tiến  thành  nhau  cài  răng  lược  sớm(16,18).  Cắt  tử 
cung  thường  là  kết  cục  thường  gặp(15,18,17,19,,21). 
Điều  trị  sớm  và  tích  cực  mang  lại  hiệu  quả  an 
toàn  cao.  31  phương  pháp  được  đề  nghị(18) 
nhưng  hút  nạo  lòng  tử  cung  hay  phá  thai  nội 
khoa không phải là lựa chọn hàng đầu. Hầu hết 
các nghiên cứu đều gặp phải tai biến xuất huyết 
nặng  và  đôi  khi  phải  cắt  tử  cung  khi  can  thiệp 
hút  nạo  lòng  tử  cung  được  thực  hiện  ở  thai 
VMC(11,13,14,15,18,17,19,21). Nghiên cứu của chúng tôi có 
7 trường hợp sốc mất máu nặng vì can thiệp này 
và hai trường hợp phải cắt tử cung. Hai phương 
pháp điều trị được xem là hiệu quả với ít tai biến 

nhất là nội soi buồng tử cung lấy túi thai và tiêm 
Methotrexate trực tiếp vào túi thai(18). Năm 2011 
chúng  tôi  có  thực  hiện  vài  trường  hợp  lấy  túi 
thai qua nội soi buồng tử cung. Tuy thành công 
nhưng  cuộc  mổ  lại  mất  khá  nhiều  thời  gian  và 
chi phí cho bệnh nhân. Đó là chưa nói đến phải 
có  sự  đầu  tư  về  dụng  cụ  nội  soi  cũng  như  đòi 
hỏi  bác  sĩ  phụ  khoa  phải  thật  kinh  nghiệm. 
Những yêu cầu đó mang lại nhiều bất lợi trong 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

công tác điều trị thai VMC hiện nay. Năm 2012, 
việc  tiếp  cận  với  phương  pháp  tiêm 
Methotrexate  trực  tiếp  vào  khối  thai  mang  lại 
nhiều  thành  công.  100%  trường  hợp  bảo  tồn 
được  tử  cung  –  chức  năng  sinh  sản  của  người 
phụ  nữ  với  chi  phí  điều  trị  thấp,  trong  đó  73% 
trường  hợp  chỉ  tiêm  1  mũi  Methotrexate  duy 
nhất. Tuy nhiên thời gian theo dõi khá dài, trung 
bình 2 tháng. Thời gian để βhCG âm tính trung 
bình  57,4  ±  34,0  ngày  và  thời  gian  để  mất  hình 
ảnh  thai  VMC  trên  siêu  âm  ngã  âm  đạo  trung 
bình  là  67,8  ±  35,7  ngày.  Nghiên  cứu  của  Seow 
KM  và  cộng  sự  năm  2004  cũng  có  những  ghi 
nhận tương tự, khối thai VMC thoái triển chậm 
từ 2 tháng đến 1 năm sau điều trị(15). Tuy nhiên 
khi βHCG âm tính mà khối thai VMC còn lớn >= 

3cm, chúng tôi sẽ tiến hành nong CTC và thoát 
lưu  khối  máu  tụ  dưới  sự  hướng  dẫn  của  siêu 
âm. Về mặt thống kê y học, có vẻ như can thiệp 
hút lòng tử cung  hoặc  uống  thuốc  phá  thai  nội 
khoa có thể rút ngắn thời gian theo dõi (p=0,44 
và  p=0,46)  nhưng  thực  sự  không  nhiều  mà  tai 
biến do hai can thiệp này gây ra lại hết sức nặng 
nề. Thay vào đó, tuổi thai ở thời điểm điều trị có 
liên quan đến thời gian lành bệnh hơn: tuổi thai 
càng nhỏ thì việc điều trị càng thuận lợi và thời 
gian càng ngắn. 
Tuy  mẫu  nghiên  cứu  chưa  nhiều  nhưng 
cũng  cho  chúng  tôi  một  cái  nhìn  tổng  quát  về 
những gì đã và đang  diễn  ra  xung  quanh  chẩn 
đoán thai VMC, đồng thời giúp chúng tôi đánh 
giá  được  phần  nào  hiệu  quả  điều  trị  thai  VMC 
bằng tiêm MTX taị chỗ.  

KẾT LUẬN 
Siêu âm thận trọng thai trong giai đoạn sớm 
ở bệnh nhân có vết mổ lấy thai cũ giúp phát hiện 
sớm thai VMC. Can thiệp hút lòng tử cung hay 
phá thai nội khoa không nên được chọn lựa đầu 
tay  để  điều  trị  thai  VMC.  Trong  bối  cảnh  Việt 
Nam  hiện  tại,  chích  Methotrexate  (tại  chỗ  hoặc 
toàn  thân)  giúp  bảo  tồn  tử  cung  thành  công 
100% cho bệnh nhân thai VMC với nguy cơ tai 
biến thấp nhất.  

195



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Abraham RJ & Weston MJ (2012). Expectant management of a 
caesarean scar pregnancy. Journal of Obstetrics and Gynaecology ; 
32: 695–696. 
2. Anis  Fadhlaoui,  Mohamed  Khrouf,  Khaled  Kh´  emiri,  Kais 
Nouira,  Anis  Chaker  and  Fethi  Zhioua  (2012).  Successful 
Conservative  Treatmentofa  CesareanScar  Pregnancy  with 
Systemically  Administered  Methotrexate  and  Subsequent 
Dilatation  and  Curettage:  A  Case  Report.  Obstetrics  and 
Gynecology; 1‐6. 
3. Ash  A,  Smith  A,  Maxwell  D  (2007).  Caesarean  scar  pregnancy. 
BJOG; 114:253‐263. 
4. Bignardi  T  and  Condous  G  (2010).  Transrectal  ultrasound‐
guided surgical evacuation of Cesarean scar ectopic pregnancy. 
Ultrasound Obstet Gynecol 2010; 35: 481–485. 
5. Clark SL, Koonings PP, Phelan JP (1985). Placenta previa/accrete 
and prior cesarean section. Obstet Gynecol; 66:89‐92. 
6. Deniz Cemgil Arikan, EmreTurgut, Gὕrkan Kiran, Hakan Kiran 
(2012). Cesarean scar pregnancy treated with methotrexate and 
dilatation‐currettage:  case  report.  Dicle  Medical  Journal  39(1): 
102‐104. 
7. Godin  PA,  Bassil  S,  Donnez  J(1997).  An  ectopic  pregnancy 

developing  in  a  previous  caesarian  section  scar.  Fertility  And 
Steriltty; 67:398‐400. 
8. Goodyear  ES,  Freeman  AJ  (1956).  Ceasarean  scar  rupture: 
Herniation of bladder wall into uterus through rupture of low 
cervical  cesarean  scar;  report  a  case.  Obstetric  and  Gynecology; 
7(1): 78‐79. 
9. Halperin R, Schneider D, Mendlovic S, Pansky M, Herman  A, 
and  Maymon  R  (2009).  Uterine‐preserving  emergency  surgery 
for  cesarean  scar  pregnancies:  another  medical  solution  to  an 
iatrogenic problem. Fertility and Sterilit; 91(6): 2623‐2627.  
10. Jurkovic D, Hillaby K, Woelfer B, Lawrence A, Salim R, Elson 
CJ  (2003).  First  trimester  diagnosis  and  management  of 
pregnancies implanted into the lower uterine Caesarean section 
scar. Ultrasound Obstet Gynecol; 21:220‐7.  
11. Larsen  JV,  Solomon  MH  (1978).  Pregnancy  in  a  uterine  scar 
sacculus – an unusual cause of postabortal haemorrhage. Acase 
report. S Afr Med J; 53:142‐3. 

12. Maymon  R,  Svirsky  R,  Smorgick  N,  Mendlovic  S,  Halperin  R, 
Gilad  K,  Tobvin  Y(2011).  Fertility  Performance  and  Obstetric 
Outcomes  Among  Women  With  Previous  Cesarean  Scar 
Pregnancy. J Ultrasound Med ; 30:1179–1184. 
13. Osborn  DA,  Williams  TR,  Craig  BR  (2012).  Cesarean  Scar 
Pregnancy:  Sonographic  and  Magnetic  Resonance  Imaging 
Findings,  Complications,  and  Treatment.  J  Ultrasound  Med; 
31:1449–1456. 
14. Rotas MA, Haberman S, Levgur M (2006). Cesarean scar ectopic 
pregnancies:  Etiology,  Diagnosis,  and  Management.  Obstet 
Gynecol; 107(6): 1373‐81. 
15. Seow  KM,  Huang  LW,  Lin  YH,  Yan‐Sheng  Lin  M,Tsai  YL 

(2004).  Cesarean  scar  pregnancy:  issues  in  management. 
Ultrasound Obstet Gynecol; 23: 247‐253. 
16. Sinha  P,  Mishra  M  (2012).  Caesarean  scar  pregnancy:  A 
precursor  of  placenta  percreta/accreta.  Journal  of  Obstetrics  and 
Gynaecology; 32: 621–623. 
17. Tan WC, Pang YPC, Yong TT, Koh PKE, Tan HK, Ho TH (2012). 
Caesarean  section  scar  pregnancy:  a  case  series  at  a  single 
tertiary centre. Singapore Med J 53(10) : 638. 
18. Timor‐Tritsch  IE,  Monteagudo  A  (2012).  Unforeseen 
consequences of the increasing rate of cesarean deliveries: early 
placenta accrete and cesarean scar pregnancy. A review. Am J 
Obstet Gynecol: 14‐29.  
19. Vaknin Z, Maymon R, Halperin  R,  Mendlovic  S,  Schneider  D, 
Herman A, Pansky M (2004). Ectopic pregnancies in Caesarean 
section scar: the 8 year experience of one medical center. Human 
Reproduction; 19(2): 278‐284. 
20. Vikhareva OO et al (2011). Clinical Importance of Appearance 
of  Cesarean  Hysterotomy  Scar  at  Transvaginal 
Ultrasonography  in  Nonpregnant  Women.  Obstetrics  & 
Gynecology ; 117( 3): 525‐532. 
21. Yam  PKL,  Hong  SC,  Lau  MSK,  (2011).  Ectopic  pregnancy  in 
previous Caesarean section scar. Singapore Med J; 52(6) : 115. 

 
Ngày nhận bài báo 

 

 


: 30/09/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

: 30/10/2013 

Ngày bài báo được đăng 

: 05/01/2014 

 

 

196

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



×