ĐẶT VẤN ĐỀ
Loài người có tớnh sinh sản yếu trong số các loài động vật cao cấp.
Trong suốt quá trình thai nghén, đời sống thai nhi luôn bị đe dọa, trong đó có
sẩy thai.
Sẩy thai là hiện tượng thai bị tống ra khỏi buồng tử cung trước khi thai
có thể sống được. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) – 1977, giới hạn tuổi thai
bị sẩy là dưới 20 tuần hay cân nặng dưới 500gr[1],[2]. Ở Việt Nam , theo
chuẩn quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, tuổi thai bị sẩy được tính là
dưới 22 tuần theo ngày kinh cuối cùng [3].
Sẩy thai tự nhiên thường diễn ra qua hai giai đoạn: doạ sẩy và sẩy thực
sự. Ở giai đoạn doạ sẩy thai, trứng còn sống, chưa bị bong khỏi niêm mạc tử
cung. Chẩn đoán và điều trị sớm tiên lượng sẽ tốt, có khả năng giữ được thai.
Ở Việt Nam theo thống kê của Nguyễn Thìn – Thanh Kỳ 1978, tỷ lệ sẩy
thai là 10-12% [27]. Theo Trần Thị Lợi trong 6 tháng đầu năm 2004 có tới 280
trường hợp sẩy thai tự nhiên và 456 trường hợp thai lưu tại bệnh viện Từ Dũ
[21].
Tỷ lệ sẩy thai ở các nước phát triển chiếm 6-10% so với tổng số phụ nữ
có thai [27. Tỷ lệ sẩy thai ở các nước đang phát triển là 10-12% so với tổng số
phụ nữ có thai [27]. Theo Schneider P.F. [6] tỷ lệ doạ sẩy thai ở Mỹ là 13%,
Kennon R.W [60] tỷ lệ doạ sẩy thai ở Anh là 15,35%, cũn theo Beckmann
R.B tỷ doạ sẩy thai là 25% [43].
Sẩy thai lõm sàng chiếm tới 15-20% tổng số thai nghén, cũn sẩy thai
nội tiết (βhCG +) cao hơn (75%). Khoảng 2/3 trường hợp thai bị sẩy trước 6
tuần, cũn lại 1/3 trường hợp sẩy thai ở từ tuần thứ 7 đến 22 [43].
Xác định chớnh xác doạ sẩy thai để điều trị không thôi đã khó, đặc biệt
cần phải phõn biệt cho được với chửa ngoài tử cung thể giả sẩy [29]. Xác định
1
được nguyên nhõn doạ sẩy thai cũn khó hơn nhiều nhưng rất quan trọng. Ở
Việt Nam còn rất nhiều hạn chế về phương tiện kỹ thuật, sự cộng tác của
người bệnh nên chẩn đoán doạ sẩy thai thường muộn, điều trị khó khăn và kết
quả không cao. Một khó khăn nữa cho điều trị doạ sẩy thai là có tới 30% doạ
sẩy người ta cũn chưa rừ nguyên nhõn [1].
Hậu quả của sẩy thai là giảm sút sức khoẻ người mẹ, ảnh hưởng tới
nguồn lao động của gia đình và xã hội, thậm trí nguy hiểm đến tính mạng
người mẹ do băng huyết, nhiễm trùng, gây tình trạng vô sinh thứ phát, ảnh
hưởng đến hạnh phúc gia đình và chất lượng dõn số .
Nguyên tắc điều trị chủ yếu đối với dọa sẩy thai là để thai phụ nằm
nghỉ tuyệt đối, dùng thuốc giảm co cơ tử cung và nếu tỡm được nguyên nhõn
thì điều trị nguyên nhõn [2], [5].
Chẩn đoán xác định doạ sẩy thai thường không khó khăn. Nhưng việc
xác định tình trạng bào thai, thai cũn sống hay đã chết để tiên lượng thai
nghén, đánh giá và theo dừi quá trình điều trị, từ đó có thái độ xử trí đúng đắn
thì phải dựa vào cả lõm sàng và cận lõm sàng.
Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nhận xét mối tương quan giữa lõm sàng, βhCG, siêu õm với kết quả
điều trị doạ sẩy thai 3 tháng đầu tại bệnh viện PSTƯ từ tháng 01 đến
tháng 06 năm 2009.” với mục tiêu sau:
1. Nghiên cứu đặc điểm lõm sàng và cận lõm sàng của doạ sẩy thai 3
tháng đầu tại BVPSTƯ từ tháng 01-06/2009.
2. Đánh giá bước đầu mối liên quan giữa kết quả điều trị doạ sẩy thai
3 tháng đầu với lõm sàng, βhCG, siêu õm tại BVPSTƯ từ tháng 1-
6/2009.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ SẨY THAI
1.1.1. Khái niệm
Doạ sảy thai, với triệu chứng ra máu âm đạo trong giai đoạn 22 tuần
đầu tiên của thời kỳ mang thai – là một triệu chứng phổ biến nhất của thai
nghén, xảy ra trong khoảng một phần năm số trường hợp có thai [66],[17].
Sảy thai có khả năng gấp 2,6 lần tỷ lệ nói trên [66], và 17% trong số các
trường hợp doạ sảy được dự đoán là sẽ có các biến chứng trong giai đoạn
muộn hơn của thời kỳ thai nghén [57].
Theo Charles R.B. Beckmann, tất cả những chảy mỏu từ tử cung trong
nửa đầu của thai kỳ, không có nguyên nhõn thực thể thì đó là triệu chứng của
doạ sẩy thai [43].
1.1.2. Nguyên nhân
Xác định nguyên nhõn doạ sẩy thai là rất quan trọng, nhưng thường
khó khăn. Phải hỏi kỹ tiền sử, khám toàn thõn, khám phụ khoa, kết hợp với
các xét nghiệm cận lõm sàng như huyết học, sinh hoá nội tiết, giải phẫu bệnh
lý tổ chức sẩy, chụp buồng tử cung ngoài thời kỳ có thai, xác định nhiễm sắc
đồ, yếu tố Rh, nhúm mỏu, miễn dịch
1.1.2.1. Nguyên nhõn do thai
Năm 1981, Poland và cộng sự nhận thấy rằng với những thai sẩy có
chiều dài đầu mông khoảng 30mm, tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể là 70%; tỉ lệ
này là 25% nếu chiều dài đầu mông từ 30–180mm.
Những bất thường về phát triển thai nhi được chia làm 2 loại:
3
- Bất thường về số lượng nhiễm sắc thể: sẩy thai trước tuần thứ 8: đơn
bội (45,X: hội chứng Turner), tam bội (tam bội NST 16: thai trứng bán phần),
tứ bội.
- Số lượng nhiễm sắc thể bình thường: sẩy thai muộn hơn, vào
khoảng tuần thứ 12, tăng đáng kể khi mẹ ≥ 35 tuổi. Các nguyên nhân: đột
biến gen, một số yếu tố của mẹ hay của cha.
Trước đây người ta cho rằng những bất thường nhiễm sắc thể là nguyên
nhân chớnh gõy sẩy thai tự phát và sẩy thai liên tiếp. Trong những năm gần
đây với những nghiên cứu mới về di truyền - tế bào, người ta thấy rằng
nguyên nhân này ngày càng thu hẹp đặc biệt là sẩy thai liên tiếp. Theo
M.H.Howert có khoảng 9,5-15,4% những cặp vợ chồng bị sẩy thai liên tiếp có
NST bất thường [54].
Ngoài ra, đa thai, thai dị dạng cũng là nguyên nhõn gõy doạ sẩy thai,
sẩy thai.
1.1.2.2.Nguyên nhõn do mẹ
Yếu tố giải phẫu
Những bất thường về giải phẫu ở tử cung gây sẩy thai liên tiếp là
nguyên nhân đã biết rõ. Theo E Malcolm Symonds và E. Ian Symonds (1998)
nguyên nhân này chiếm tỷ lệ 15-35% STLT [47]. Ngoài ra yếu tố này còn liên
quan tới sinh non tháng, thai chậm phát triển, ngôi thai bất thường
Các bất thường về giải phẫu tử cung bẩm sinh bao gồm: tử cung hai
sừng, tử cung đôi, tử cung có vách ngăn, tử cung kém phát triển, tử cung gấp
và ngả sau, bất thường ở động mạch tử cung [1],[2],[45].
Những tổn thương mắc phải cũng gây biến đổi về giải phẫu tử cung
như: u xơ tử cung, dính buồng tử cung, lạc nội mạc tử cung, hở eo tử cung là
nguyên nhân hay gặp trong sẩy thai đặc biệt là STLT [2].
4
Yếu tố nội tiết
Những yếu tố nội tiết đề cập tại đây chủ yếu là nội tiết tố sinh dục. Mặc
dù khác bệnh lý nội tiết (đái tháo đường, bệnh lý tuyến giáp trạng ) cũng có
ảnh hưởng đến tình trạng bệnh lý sẩy thai nhưng nay ít được đề cập tới do tỷ
lệ gặp ít, bằng chứng về mối liên quan không rõ ràng ngoại trừ những trường
hợp bệnh lý nặng ảnh hưởng tới toàn thân (nhiễm độc giáp trạng, xuất hiện
kháng thể khỏng giỏp rõ rệt) [41].
Theo D. Mishell (1993) yếu tố nội tiết sinh dục được xem là liên quan
nhiều đến sẩy thai là tình trạng thiểu năng hoàng thể [68]. Sự phát triển không
đầy đủ của các nang trứng có lẽ là do sự kích thích yếu của các nội tiết tố
hướng sinh dục tuyến yên làm cho hoàng thể không cung cấp đủ Progesteron,
khiến nội mạc tử cung không phát triển đầy đủ để giữ thai. Các nguyên nhân
thiểu năng hoàng thể có thể là:
- Bất thường trục dưới đồi - tuyến yên - buồng trứng do thiếu nội tiết tố
hướng sinh dục FSH, tăng tiết Prolactin, LH [71], [55].
- Sự tăng cao nội tiết tố nam như Testosterone, đặc biệt là
Dehydroepiandrosteron (DHEA). Các nội tiết tố nam tăng cao vừa tác động
làm thoái triển hoàng thể vừa tác động ức chế sự phát triển của nội mạc tử
cung. Biểu hiện của sự tăng cao nội tiết tố nam thường là chứng rậm lông,
mụn trứng cá, thiểu kinh hay vô kinh [49], [Error: Reference source not
found], [55].
Chẩn đoán tình trạng thiểu năng hoàng thể có thể dựa vào các yếu tố sau
[1],[71],[8]:
- Theo dõi biểu đồ thân nhiệt: nhiệt độ tăng ít ở pha hoàng thể, dạng
biểu đồ có hình thấp hay thời gian tăng nhiệt độ ngắn hơn 10 ngày, gợi ý thiểu
năng hoàng tuyến.
5
- Nồng độ Progesteron huyết thanh thấp, thường <10ng/ml
- Sinh thiết nội mạc tử cung thấy hình ảnh tăng sinh tuyến và chế tiết ít.
- Siêu âm thấy niêm mạc tử cung mỏng (< 5mm)
Yếu tố nhiễm khuẩn
Một tình trạng nhiễm trùng dù tác nhân là vi khuẩn, siêu vi, ký sinh
trùng hay nấm đều có thể là nguyên nhân gây sẩy thai. Viêm màng ối, thường
là hậu quả của nhiễm trùng ngược dòng từ viờm õm đạo hay viêm cổ tử cung
đi lên là một nguyên nhân gây sẩy thai muộn trong 3 tháng giữa thai kỳ. Tỡnh
trạng sốt cao > 39
0
C trong các nhiễm trùng cấp tính là yếu tố có thể gây dị
dạng thai và có hại cho bào thai [78],[23].
Virus: Herpes simplex : tăng tỉ lệ sẩy thai nếu bị nhiễm Herpes sinh dục
trong nửa đầu thai kỳ hoặc có thai trong vòng 18 tháng sau khi bị nhiễm.
Vi trùng: Mycoplasma hominis, Ureaplasma urealyticum: đó cú bằng
chứng về huyết thanh cho thấy có gây ra sẩy thai, vì vậy có tác giả điều trị
bằng Erythromycin tỷ lệ thành công đạt tới 85%.
Những tác nhân khác như Toxoplasma gondii, Listeria monocytogenes,
Chlamydia trachomatis: chưa kết luận được có phải là nguyên nhân gây ra sẩy
thai hay không.
Các yếu tố khác
* Yếu tố miễn dịch:
Nghiên cứu miễn dịch học về quá trình mang thai đã chỉ ra rằng hoạt
động của hệ thống miễn dịch ở phụ nữ mang thai là quá trình hoạt động phức
tạp, thay đổi theo từng giai đoạn của thai kỳ. Người ta nhận thấy rằng trong
quá trình thai nghén, có sự biến đổi song hành của hai hệ thống:
6
Một là thay đổi hệ thống miễn dịch theo chiều hướng hỗ trợ, kích thích
cho sự phát triển của tử cung, rau thai thuận lợi cho trứng đã thụ tinh có điều
kiện làm tổ và phát triển sau này. Trong chiều hướng này có vai trò quan
trọng của các bạnh cầu đơn nhân và các tế bào lympho thông qua các cytokin
mà chúng sản xuất ra [64].
Hai là biến đổi của hệ thống miễn dịch người mẹ theo chiều hướng ức
chế phản ứng thải loại giúp duy trì, tồn tại của thai trong tử cung như một mụ
ghộp [64].
Hiện nay, yếu tố tự miễn có liên quan nhiều và cũng đề cập nhiều nhất
trong sẩy thai là kháng thể kháng Phospholipid (Anti phospholipid Antibodies –
APA). Trong nghiên cứu thực nghiệm, Branch D.W và cs sử dụng kháng thể
IgG kháng Phosphotidylserin tiêm cho chuột mang thai thì thấy tăng tỷ lệ sẩy
thai hay thai chậm phát triển, trọng lượng bánh rau thấp [37].
Bệnh lý tự miễn: Bất đồng nhóm máu Rh, OAB giữa mẹ và con: càng
đẻ lần sau nguy cơ càng tăng rất cao [64].
Bệnh lý tự miễn của mẹ như lupus, viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ,
xơ cứng bì.
*Bệnh lý toàn thân của mẹ: Bệnh tim mạch: tăng huyết áp, bệnh thận, bệnh
chuyển hoá: đái tháo đường, cường giáp, suy giáp đều có thể gây sẩy thai.
* Tuổi mẹ: ≥ 35 tuổi, đặc biệt >37 tuổi.
* Môi trường: Tiếp xúc thường xuyên với các độc tố như chì, thuỷ ngân,
ethylene oxide , dibromochloropropane trong môi trường trong công việc
hàng ngày làm tăng nguy cơ sẩy thai.
*Nghiện rượu, ma tuý, thuốc lá, caffeine có liên quan đến nguy cơ sẩy thai
[68],[62].
7
Dùng hai ly thức uống có cồn hàng ngày làm tăng gấp đôi nguy cơ sẩy
thai so với phụ nữ không sử dụng thuốc có cồn.
Hút thuốc trờn ẵ gúi mỗi ngày hoặc hít khói thuốc lá nhiều làm tăng
nguy cơ sẩy thai.
Chồng nghiện rượu và thuốc lá làm tăng nguy cơ sẩy thai.
Đối với caffeine, chỉ khi nào dựng trờn 300mg/ngày mới có nguy cơ
sẩy thai.
* Thuốc sử dụng trong thai kỳ: Một số thuốc có thể gõy độc cho thai và làm
chết thai, dị dạng thai, sẩy thai.
* Hoạt động thể lực vừa phải không ảnh hưởng đến thai kỳ ở những phụ nữ
khoẻ mạnh. Tuy nhiên các hoạt động thể lực với cường độ cao như chạy bộ,
aerobic có thể ảnh hưởng tới thai kỳ do sự dịch chuyển một phần lưu lượng
máu từ tử cung đến các cơ ngoại biên.
* Chấn thương trực tiếp vào vùng bụng, phẫu thuật, hoặc do thủ thuật chọc
dò ối qua thành bụng để sinh thiết gai rau có thể gây sẩy thai.
1.1.2.3.Nguyên nhõn do bố
Đảo đoạn nhiễm sắc thể có thể gây sẩy thai. Kulcsar và cộng sự (1991)
tìm thấy có Adenovirus và Herpes simplex virus ở tinh dịch những người vô
sinh nam và trong mô sẩy thai.
1.1.2.3.Nguyên nhõn do phần phụ
Bất thường bánh rau, dây rốn như hoại thư bánh rau, dây rốn chỉ có một
động mạch.
* Ngoài ra có khoảng 20-30% các trường hợp sẩy thai mà không có nguyên nhân
rõ ràng [1].
1.3. DIỄN BIẾN LÂM SÀNG DOẠ SẨY THAI, SẨY THAI
1.3.1. Doạ sẩy thai:
Được gọi là doạ sẩy thai khi có triệu trứng ra máu âm đạo trước tuần lễ
thứ 22 của thai kỳ [1],[3].
8
Trong giai đoạn này trứng còn sống, chưa bị bong ra khỏi niêm mạc tử
cung. Điều trị sớm, tiên lượng tốt, khả năng giữ được thai cao [1],[2].
Triệu chứng cơ năng:
- Ra máu âm đạo số lượng ít, màu đỏ hay đen, thường lẫn với dịch nhầy.
- Có thể kèm theo triệu chứng nặng bụng dưới hay đau lưng.
Khám âm đạo:
Âm đạo cú ớt mỏu. Cổ tử cung còn dài, đóng kín. Tử cung to tương
ứng với tuổi thai.
1.3.2. Sẩy thai thực sự
Triệu chứng cơ năng:
- Ra máu âm đạo nhiều đỏ tươi, loãng lẫn máu cục chứng tỏ rau đã bong
nhiều.
- Đau bụng: đau bụng vùng hạ vị, từng cơn, đều hơn do cơn co tử cung.
Khám âm đạo:
Cổ tử cung xoá mỏng và hé mở. Phần dưới tử cung phình to do bọc thai
bị đẩy xuống phía cổ tử cung làm cổ tử cung có hình như con quay. Đôi khi
sờ thấy bọc thai nằm ở lỗ cổ tử cung.
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ VÀ XÉT NGHIỆM
1.4.1. Siêu âm
Siêu âm trong sản phụ khoa rất có giá trị trong chẩn đoán và theo dõi
điều trị sẩy thai. Là phương pháp thăm dò không xâm nhập, sử dụng tiện lợi,
đơn giản, giá thành rẻ nên được áp dụng rộng rãi. Có thể siêu âm đường bụng
hoặc siờu õm đường âm đạo.
Siêu âm cho thấy thai phát triển bình thường:
- Hình ảnh túi thai có thể thấy được ở tuổi thai 4 - 5 tuần tính theo ngày
kinh cuối qua siêu âm đường âm đạo và tuần thứ 6 qua siêu âm đường
9
bụng. Túi thai là một hình tròn trống âm được viền một lớp phản õm
sỏng nằm trong lớp màng rụng của nội mạc tử cung, lệch một bên so
với đường giữa lòng tử cung. Đường kính trung bình của túi thai tăng
đôi sau 1 tuần. Thai 5 tuần kích thước túi thai khoảng 5mm, thai 6 tuần:
10mm; thai 7 tuần: 20mm [24], [9].
- Tỳi noãn hoàng thấy được ở tuổi thai 5 - 6 tuần, là một vòng tròn đều
trống âm, bờ mỏng, nằm ngoài buồng ối trong khoang ngoài thai. Mỗi
khoang ối chỉ có một tỳi noón hoàng, do đó số lượng tỳi noón hoàng sẽ
được dùng để tính số lượng túi ối trong trường hợp đa thai. Kích thước
tỳi noón hoàng 2 - 8mm (không quá 10 mm). Tỳi noón hoàng xuất hiện
chứng tỏ thai sống [24], [9].
- Phôi thấy rõ ở tuổi thai 6-7 tuần qua siêu õm đường ÂĐ. Hình ảnh
phôi là âm vang đậm đặc, nằm trong buồng ối. Khi phôi thai đo được
5mm nếu không có hoạt động của tim thai có nghĩa là thai đã ngừng
phát triển [24], [9].
Siêu âm có thể phát hiện sự ngừng phát triển của thai trước khi có dấu
hiệu lâm sàng. Những dấu hiệu thai có tiên lượng xấu:
"Trứng trống”: chỉ có túi thai mà không có phôi thai do thai không phát
triển ngay từ sớm hoặc có phát triển nhưng đã chết và bị phân [24] .
Túi thai ≥10mm khi SA qua đường âm đạo hoặc >20mm khi SA qua
đường bụng mà không thấy tỳi noón hoàng [67].
Túi thai ≥18mm khi SA qua đường ÂĐ hoặc >25mm khi SA qua
đường bụng mà không thấy phôi thai [24]
Tỳi noãn hoàng có hình dạng không tròn đều, bờ dầy hoặc calci hoá,
kích thước quá lớn hoặc quá nhỏ đều là những dấu hiệu bất thường [48], [62].
10
- Có túi ối nhưng không có phôi thai.
- Túi thai múp mộp hoặc có hình “giọt nước”.
- Lớp màng rụng kém phát triển: mỏng và phản õm khụng mạnh.
- Xuất huyết quanh túi thai, búc tỏch bỏnh rau >50%. Tuổi thai càng nhỏ
khả năng sẩy sẽ càng cao [46], [70], [69].
Kích thước tương đối khối xuất huyết được tính theo công thức: dài
(cm) x rộng (cm) x cao(cm) x 0,5. Nếu khối lượng <1/4 túi thai và <
60ml thì thai có nhiều khả năng thai sẽ tiếp tục phát triển [77]. 90%
trường hợp có xuất huyết quanh túi thai khối lượng ít và tim thai nhi
hoạt động với nhịp tim bình thường sẽ tiếp tục tiến triển tới cuối thai
kỳ.
- Túi ối lớn theo công thức: Kích thước túi ối - Chiều dài đầu mông >
8mm cũng thường gặp ở những thai ngừng phát triển [53].
- Thiểu ối sớm: túi ối nhỏ so với phôi thai.
- Túi thai nằm thấp trong buồng tử cung.
- Thai ngừng phát triển (thai chết): nếu có phôi thai nhưng không có hoạt
động của tim thai nhi.
Tuy nhiên, khi có dấu hiệu nghi ngờ, siêu âm kiểm tra lại sau 5-7 ngày
nếu thấy các dấu hiệu: Khối máu tụ giảm kích thước, nhịp tim thai bình
thường và đều, các số đo tăng theo đúng mức phát triển thai bình thường thì
đó là những dấu hiệu tiến triển tốt.
1.4.2. Định lượng βhCG
βhCG được chế tiết chủ yếu từ các tế bào lỏ nuụi nờn hàm lượng của
nó phản ánh chức năng hoạt động của lỏ nuụi trong giai đoạn sớm của thai kỳ.
11
Định lượng βhCG có giá trị trong chẩn đoán và theo dõi sự phát triển của thai,
nú cú độ nhạy và độ đặc hiệu cao [15].
βhCG có thể xuất hiện trong máu và nước tiểu chỉ 8 đến 9 ngày sau thụ
tinh, khi các dấu hiệu lâm sàng chưa xuất hiện [11].
Nồng độ của βhCG trong thai nghén bình thường [39]:
Tuổi thai tính từ kinh cuối cùng
Nồng độ βhCG huyết thanh
(mUI/ml)
Tuần thứ 3 đến tuần thứ 4 9- 130
Tuần thứ 4 đến tuần thứ 5 75- 2.600
Tuần thứ 5 đến tuần thứ 6 850- 20.800
Tuần thứ 6 đến tuần thứ 7 4.000- 100.000
Tuần thứ 8 đến tuần thứ 10 50.000- 100.000
Thời gian tăng gấp đôi trong thai nghén bình thường:
Thai phát triển bình thường sau 48 giờ nồng độ βhCG tăng từ 1,4 đến 2
lần so với nồng độ lúc ban đầu nghĩa là ≥66%.
Pittaway Donald E [73] đã phát hiện được hCG trong máu mẹ sau khi
phúng noón từ 7 đến 10 ngày. Ông đã đưa ra một công thức tính thời gian
tăng gấp đôi (TGTGĐ) hCG như sau:
Log2hCG khoảng cách thời gian giữa các ngày
TGTGĐ =
hCG 1
Log 2
hCG 2
hCG 1: Lượng hCG xét nghiệm lần 1
hCG 2: Lượng hCG xét nghiệm lần 2
Kadar đã đưa ra một công thức tính đơn giản hơn:
Nồng độ hCG ở 48 giờ - Nồng độ hCG ban đầu
TGTGĐ = x 100
12
Nồng độ hCG lúc ban đầu
Trong thai nghén bình thường thời gia tăng gấp đôi hCG từ 36-48 giờ.
Tỷ lệ tăng ít nhất là 66%. Nếu tăng quá cao hoặc quá thấp hoặc không tăng là
biểu hiện của một thai nghén không bình thường [73].
Pittaway Donald E [73] khẳng định rằng: quy luật tăng gấp hai chỉ
đúng khi thai được 6 tuần tuổi. Khi tuổi thai trên 6 tuần và nồng độ hCG lớn
hơn 6.000-10.000mUI/ml thì hCG tăng chậm hơn và không ổn định.
Theo Phạm Thị Thanh Hiền [16] chẩn đoán sớm chửa ngoài: Lâm sàng
(chậm kinh, đau bụng hạ vị, ra máu âm đạo) + Nồng độ βhCG huyết thanh <
1500IU/l, độ nhạy : 88%, giá trị chẩn đoán dương tính: 97,5%;
Theo H.M. John (1994) kết hợp giữa siêu âm và định lượng βhCG là
phương pháp tốt nhất theo dõi sự phát triển của thai. Nếu siêu âm có hình ảnh thai
tiếp tục phát triển, βhCG tăng thì được coi là tiên lượng tốt. Nếu βhCG giảm, qua
siêu âm thai không phát triển nữa thì tiên lượng xấu [51].
1.4.3. Thăm dò tế bào nội tiết âm đạo
Niêm mạc âm đạo bao gồm nhiều lớp tế bào. Từ sâu ra nụng cú 4 lớp:
- Lớp C1: là lớp tế bào đỏy sõu.
- Lớp C2: là lớp tế bào đỏy nụng.
- Lớp C3: là lớp tế bào giữa.
- Lớp C4: là lớp tế bào bề mặt.
Các lớp tế bào này phát triển dưới ảnh hưởng của hai hormon sinh dục
là estrogen và progesteron. Bình thường tác động của hai hormon cân bằng,
nếu tác động của hormon progesteron giảm đi thì tác động của estrogen trội
lên sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển và biệt hoá của các lớp tế bào bề mặt cảm
thụ với hormon đó. Tỷ lệ tế bào bề mặt bong ra nhiều hay ít sẽ phản ánh hoạt
động của hormon estrogen nhiều hay ít từ đó giá tiếp đánh giá hoạt động của
progesteron [12].
13
Hai chỉ số phản ánh hoạt động của estrogen là: chỉ số nhõn đụng (IP) và
chỉ số ái toan (IA) [12].
Chỉ số IA: được tớnh bằng tỷ lệ % của những tế bào ưa acid trong 300
tế bào các loại biểu mô õm đạo.
Chỉ số IP: Tỷ lệ % của những tế bào có nhõn đông trong 300 tế bào các
loại biểu mô õm đạo.
1.4.4. Định lượng nội tiết tố Progesteron và Estrogen trong huyết thanh
Mục đích để xác định lượng hormon sinh dục nữ trong cơ thể. Nếu
nồng độ progesteron và estrogen thấp có thể nghĩ tới khả năng thiểu năng
hoàng thể thai nghén.
Nguồn gốc progesteron và estrogen: Khi thai được 5-6 tuần,
progesteron và estrogen có nguồn gốc chủ yếu từ hoàng thể. Trong thời gian
từ 7-12 tuần, rau thai bắt đầu hoạt động chế tiết progesteron và estrogen, đảm
nhận dần vai trò của rau thai trong cơ thể. Sau 12 tuần, rau là nguồn sản xuất
chớnh của progesteron và estrogen trong thời kỳ thai nghén cho đến lúc sinh.
Nồng độ của Progesteron: Ở phụ nữ không có thai, trong giai đoạn
nang noón, nồng độ Progesteron <1ng/ml. Khi quá trình thụ thai xảy ra,
progesteron tăng dần từ 1-2ng/ml kể từ ngày phóng noón và nhanh chóng đạt
tới nồng độ 10-35ng/ml sau 7 ngày. Hàm lượng này giữ ổn định trong vòng
10 tuần đầu của thai nghén. Sau 10 tuần đầu, hàm lượng của progesteron tiếp
tục tăng đến khi thai đủ tháng, đạt nồng độ cực đại 100-300ng/ml [40].
Trong giai đoạn thứ 2 của chu kỳ kinh nguyệt, các phụ nữ có hàm
lượng progesteron huyết thanh thấp hoặc chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn
(<12 ngày) thể hiện một tình trạng suy yếu hoàng thể thường dẫn đến vô sinh.
Trong 3 tháng đầu thai kỳ, nồng độ progesteron thấp phản ánh một tình
trạng thai nghén không được hoàn hảo. 80% sẽ có khả năng sẩy thai khi nồng
độ progesteron <10ng/ml [40].
14
Trong các trường hợp thai lạc chỗ, nồng độ progesteron thường thấp.
Trong thai trứng, hàm lượng progesteron tăng rất cao so với thai nghén
bình thường, đặc biệt là ở giai đoạn từ tuần thứ 10-20 của thai nghén. Nếu nồng
độ của hCG >320.000UI/l sau 14 tuần chậm kinh kết hợp với một nồng độ
progesteron tăng bất thường có thể chẩn đoán một cách xác định đó là thai trứng.
Nồng độ progesteron cũng gia tăng gấp 2 lần trong các trường hợp bất
đồng miễn dịch Rh giữa mẹ và thai nhi, nguyên do có lẽ là do sự gia tăng thể
tích của rau thai một cách bất thường.
Nồng độ của estrogen: Bình thường nồng độ estradiol trong huyết
thanh ở giai đoạn hoàng thể là 28 microgam/100ml. Vào tuần thứ 36-38 của
thai kỳ có thẻ đạt tới 92microgam/ 100ml [12].
Định lượng nội tiết tố progesteron và estrogen là phương pháp tốt
nhưng giá thành cao nên cũn ít được áp dụng ở nước ta.
1.4.5. Nhiễm sắc đồ
Đối với những trường hợp sẩy thai liên tiếp nghi ngờ do rối loạn nhiễm
sắc thể, lấy chất sẩy làm xét nghiệm hoặc làm xét nghiệm nhiễm sắc đồ cho
cả vợ và chồng.
1.4.6. Chẩn đoán trước sinh
Theo tác giả Lưu Thị Hồng nghiên cứu trên 20.345 thai phụ đến khám
tại BVPSTƯ, tỷ lệ dị dạng bẩm sinh là 4,55% [14]. Đối với thai phụ doạ sẩy
thai thì tỷ lệ dị dạng NST cũn cao hơn rất nhiều. Chớnh vì vậy cần chẩn đoán
trước sinh cho tất cả thai phụ doạ sẩy.
Các phương pháp chẩn đoán trước sinh đã được thực hiện một cách có
hệ thống trên thế giới từ năm 1970, bao gồm: siêu õm chẩn đoán, các test
sàng lọc và các phương pháp lấy bệnh phẩm thai. Thai ba tháng đầu, SA chẩn
đoán trước sinh ở tuần 11-14 (12 tuần) là SA sàng lọc dị dạng NST bằng cách
15
đo khoảng sáng sau gáy và cũng phát hiện khá nhiều bất thường hình thái thai
nhi.[10]
1.4.7. Xét nghiệm miễn dịch
Yếu tố tự miễn có liên quan trong sẩy thai là kháng thể kháng
Phospholipid, đõy là vấn đề cũn rất mới ở Việt Nam. Đối với thai phụ có TS sản
khoa nặng nề không tỡm thấy nguyên nhõn cần xét nghiệm tỡm kháng thể kháng
Phospholipid.
1.5. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ DOẠ SẨY THAI
Đối với các thai phụ có triệu chứng doạ sảy thì, các bác sỹ thường hay
chỉ định cho bệnh nhõn nằm nghỉ tại giường, và cho sử dụng progesterone,
nhưng bằng chứng về hiệu quả của các biện pháp này là không đồng nhất, và
ở mức thấp [31].
1.5.1. Nằm nghỉ tại giường:
Theo nghiên cứu của Alexandros S và cs (2004) trong số 1.279 bác sỹ
thực hành được phỏng vấn thì 1.228 người chỉ định cho các thai phụ doạ sảy
với triệu chứng ra máu âm đạo nặng, chế độ nằm nghỉ tại giường, tuy nhiên
chỉ có một phần tám trong số họ cảm thấy chỉ định này là bắt buộc và chỉ có
một phần ba trong số họ cảm thấy biện pháp này có hiệu quả [31].
Theo tác giả Harrison RF báo cáo một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối
chứng tìm hiểu hiệu quả của biện pháp nằm nghỉ tại giường tới quá trình doạ
sảy. Trong nghiên cứu này, 61 thai phụ có thai sống vào ít nhất 8 tuần đầu của
thời kỳ thai nghén bị ra máu âm đạo đã được phân ngẫu nhiên vào một trong
ba nhúm: nhúm được tiêm hCG, nhóm được tiêm giả dược (đối chứng) và
nhóm nằm nghỉ tại giường. Tỷ lệ sảy thai của ba nhóm tương ứng lần lượt là
30%, 48%, và 75%. Như vậy, giữa nhóm được tiêm hCG và nhóm nằm nghỉ
tại giường có khác biệt đạt mức có ý nghĩa thống kê, nhưng giữa nhóm được
tiêm hCG và nhúm tiờm giả dược, và giữa nhúm tiờm giả dược với nhóm nằm
16
nghỉ tại giường thì, khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Mặc dù trong nghiên
cứu này, hCG đạt được kết quả tốt hơn có ý nghĩa thống kê, so với nằm nghỉ
tại giường, nhưng lại không tỏ ra có lợi ích nhiều, so với giả dược, và cũn gõy
ra tiềm năng phát triển hội chứng tăng kích thích buồng trứng (ovarian
hyperstimulation syndrome) [52].
Theo tác giả Gioble M và cs, trong một nghiên cứu hồi cứu thực hiện
trên 226 thai phụ được điều trị nội trú vì các lý do liên quan tới thai nghén của
họ, và lý do đã có các lần doạ sảy từ trước, các tác giả cho biết: 16% trong số
146 thai phụ được chỉ định nằm nghỉ tại giường cuối cùng đã sảy thai, so với
một phần năm (tức 20%) trong số các thai phụ không chọn theo biện pháp
điều trị này (so sánh khác biệt không có ý nghĩa thống kê; P = 0,41) [50].
Ngược lại, một nghiên cứu quan sát nhóm thực hiện trên 230 thai phụ
doạ sảy của tác giả Ben- Haroush A và cs, được chỉ định nằm nghỉ tại giường
đã chứng minh rằng, các thai phụ tuõn thủ với biện pháp này có tỷ lệ sảy thai
là 9,9%, so với tỷ lệ sảy thai 23,3% ở các thai phụ vẫn tiếp tục các hoạt động
thường ngày của họ (P = 0,03). Khoảng thời gian ra máu âm đạo, kích thước
của khối tụ máu sau rau, và tuổi thai vào lúc chẩn đoán không có ảnh hưởng
gì tới tỷ lệ bị sảy thai. Mặc dù không có bằng chứng cuối cùng là nằm nghỉ tại
giường có tác dụng tốt đối với quá trình thai nghén, nhưng giảm bớt hoạt
động trong một số ngày cũng có thể giúp cho thai phụ cảm thấy an toàn hơn,
và như vậy làm cho họ bớt căng thẳng do lao động và vận động [35] .
1.5.2. Progesterone:
Theo các nghiên cứu đã được công bố thì 30% tới 40% thai phụ doạ
sảy được chỉ định sử dụng progesterone. Progesterone là sản phẩm chính của
hoàng thể, khi cho thai phụ dùng progesterone là với hi vọng hỗ trợ cho hoạt
động nội tiết của hoàng thể thai nghén có khả năng bị thiếu hụt và làm cho cơ
tử cung mềm và giãn ra. Tuy nhiên, bằng chứng về hiệu quả của progesterone
17
cũng không cao. Mới đõy, đã có một nghiên cứu siêu-phõn tích về tác động
của progesterone bổ sung tới tỷ lệ sảy thai ở nhiều cơ sở lõm sàng khác nhau;
nhưng nghiên cứu này lại không đưa ra các phõn tích về tác dụng của
progesterone riêng cho các trường hợp doạ sảy. Trong siêu-phõn tích này có 4
bài báo đã được công bố với các đánh giá về mối tương quan giữa
progesterone và doạ sảy. Một trong 4 bài báo đó báo cáo về kết quả so sánh
giữ ba chế độ sử dụng progestogen khác nhau và các số liệu đã được phõn
tích lại trong siêu-phõn tích lớn nói trên. Kết quả phân tích lại cho thấy, nếu
lấy sảy thai là tiêu chí đỏnh giá kết cục thì hiệu quả ngẫu nhiên của nhóm
progestogen có tỷ số nguy cơ (risk ratio) là 1,10 (95% khoảng tin cậy, trong
khoảng từ 0,92 đến 1,31). Chỉ trong các nghiên cứu mà lúc thai phụ đến khám
đó có bằng chứng tim thai hoạt động thì nhóm sử dụng progestogen có nguy
cơ tương đối (relative risk) bị sảy thai là 1,09 (95% khoảng tin cậy; trong
khoảng từ 0,90 đến 1,33). Như vậy, cho rằng chất lượng của các dữ liệu còn
nghèo nàn, nhưng cũng có thể thấy hình như progesterone không cải thiện
được kết cục của các trường hợp doạ sảy. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu
nhỏ, các tác giả lại thấy rằng áp dụng progesterone tại chỗ đã làm cho cơ tử
cung đang co cứng giảm nhanh hơn, theo cảm giác chủ quan của thai phụ, so
với chỉ riêng nằm nghỉ tại giường [71],[22].
1.5.3. Các chế độ điều trị khác:
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng, các tác giả đã chứng
minh rằng: Buphenine hydrochloride (một thuốc giãn mạch cũng được sử
dụng để làm giãn cơ tử cung) có tác dụng tốt hơn so với giả dược (đối chứng).
Nhưng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên của nghiên cứu này lại không rừ
ràng, và không có nghiên cứu nào khác xem xét tới biện pháp chống sảy thai
trong giai đoạn doạ sảy sớm.
18
Ngoài tớnh hiệu quả ra, thì mức độ hỗ trợ tích cực vẫn cũn là vấn đề
cần phải bàn luận thêm nữa trong các trường hợp doạ sảy, vì rằng hầu hết các
trường hợp thai nghén mà dẫn tới chết thai đều là các trường hợp có bất
thường thể nhiễm sắc.
1.5.4. Dự phòng yếu tố Rh:
Ra máu âm đạo trong giai đoạn sớm của thời kỳ thai nghén làm phát
sinh câu hỏi, liệu cú nờn sử dụng globulin miễn dịch kháng D (anti-D
immunoglobin) cho các thai phụ âm tính với yếu tố Rh D hay không. Về đề
tài này, không may là chưa cú cỏc dữ liệu kết luận, và tất cả bằng chứng đều
chỉ xuất phát từ các quan niệm của các chuyên gia và các hội đồng chuyên gia
(cấp C). Theo hướng dẫn của Trường Đại Học Hoàng gia Sản-Phụ khoa và
Trường Đại Học Sản-Phụ khoa Hoa Kỳ thì doạ sảy trong ba tháng đầu của
thời kỳ thai nghén hiếm khi do cơ chế sinh miễn dịch dị chủng với Rh D (Rh
D alloimmunisation), cho rằng phải cân nhắc việc sử dụng globulin khỏng-D
ở các thai phụ âm tính với yếu tố RH D và chưa cảm-ứng đang bị doạ sảy sau
12 tuần của thời kỳ thai nghén, hoặc ở các thai phụ bị ra máu âm đạo nặng,
hoặc tái phát nhiều lần, hoặc ở các thai phụ cú thờm triệu chứng đau bụng,
đặc biệt khi thai nghén đã đến gần được 12 tuần. Ngược lại, immunoglobulin
khỏng-D được xem là không cần thiết ở các thai phụ doạ sảy nhưng thai sống,
và đã ngừng ra máu âm đạo trước tuần 12 của thời kỳ thai nghén [31].
Hiện nay tại Việt Nam, mặc dù cũn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau
về điều trị doạ sẩy thai nhưng theo chuẩn quốc gia năm 2007 về chăm sóc sức
khoẻ sinh sản, điều trị doạ sẩy thai được áp dụng như sau:
* Nguyên tắc:
Tỡm nguyên nhõn và điều trị theo nguyên nhõn
19
Điều trị triệu chứng: Nghỉ ngơi, dùng thuốc giảm co, kháng sinh khi có
ra mỏu õm đạo.
Điều trị theo nguyên nhân
Điều trị rối loạn nội tiết:
Điều trị rối loạn nội tiết như thiếu hụt estrogen, progesteron trong thiểu
năng hoàng thể, thiểu năng giáp trạng, cường giáp trạng. Điều trị sớm từ khi
có thai đến khi vượt thời kỳ thai hay bị sẩy, qua 12 tuần đầu [19].
Khõu vòng eo tử cung:
N. Surico, R. Ribaldone (2000): trong vòng 20 năm 1978- 1998 đã
nghiên cứu ở 275 bệnh nhõn tử cung dị tật, có tiền sử sẩy thai liên tiếp được
khõu vòng eo tử cung đạt kết quả 65% [80].
Năm 1997, L.Leo, S.Arduino đó khõu vòng eo tử cung cho những bệnh
nhân kém phát triển kết hợp với liệu pháp progesteron thì thấy có kết quả tốt [63].
Chỉ định khâu vòng eo tử cung cho những trường hợp:
• Sẩy thai liên tiếp do tổn thương ở cổ tử cung (cổ tử cung ngắn, hở eo tử
cung)
• Dự phòng cho những trường hợp sẩy thai hai lần trở lên không rừ
nguyên nhõn, đa thai trong thụ tinh ống nghiệm (cũn là vấn đề đang
bàn cói).
Điều trị triệu chứng
Đối với các trường hợp vào viện có dấu hiệu doạ sẩy:
Xác định thai còn sống hay đã chết dựa vào siêu âm và định lượng βhCG.
- Hướng dẫn bệnh nhõn nghỉ ngơi tuyệt đối, ăn dễ tiêu, kiêng các chất
kích thích, tránh táo bún, kiêng sinh hoạt tình dục.
- Sử dụng các thuốc giảm co: Papaverin, spasfon
20
- Điều trị hormon: progesteron ( có thể kết hợp với estrogen, pregnyl).
- Kháng sinh nếu có dấu hiệu nhiễm khuẩn, nguy cơ nhiễm khuẩn hoặc
có TS thai chết lưu.
- Thuốc an thần khi thật cần thiết.
- Kháng Anti- phospholipide.
Dừng thuốc khi hết các dấu hiệu doạ sẩy 1 tuần. Đối với các trường
hợp có TS sẩy, thai chết lưu thì điều trị hết 12 tuần hoặc qua thời điểm sẩy,
chết lưu một tuần.
Đối với các trường hợp không có dấu hiệu dọa sẩy nhưng có tiền sử sẩy
hoặc thai chết lưu:
- Điều trị dự phòng theo nguyên nhõn: Hở eo tử cung thì khõu vòng eo
tử cung, rối loạn nội tiết thì điều trị nội tiết.
- Nếu không tỡm được nguyên nhõn thì điều trị dự phòng bằng hormon +
thuốcgiảm co + kháng sinh.
1.6. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VỀ DỌA SẨY THAI
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy (2005), nghiên cứu trên 330
BN có tiền sử STLT từ 2 lần trở lên, tại BVPSTƯ. Kết quả, tỷ lệ thành công ở
nhúm BN có dấu hiệu doạ sẩy thai thấp hơn (78,6%) nhúm không có triệu
chứng doạ sẩy thai (97%). Trong nhúm có triệu chứng doạ sẩy thai, tỷ lệ
thành công khi chỉ có ra mỏu là (44/54) chiếm 81,4%, khi chỉ có đau bụng là
(43/51) chiếm 85,6%, khi có hai triệu chứng tỷ lệ thành công là (13/22) chiếm
59,1% [26].
Theo nghiên cứu của Phan Thị Lưu (2008), nghiên cứu hồi cứu 90 BN
doạ sẩy thai tại khoa phụ BV Y học cổ truyền TƯ trong 3 năm (2005-2007).
Kết quả, tỷ lệ điều trị doạ sẩy thai ở nhóm chỉ có triệu chứng đau bụng là 66,7%,
ở nhóm chỉ có ra máu là 82,1% và ra máu cộng đau bụng là 82,9% [20]
21
1.7. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI VỀ DỌA SẨY THAI
1.7.1. Nghiên cứu về hoạt động tim thai trên siêu âm
Theo nghiên cứu của Chittacharoen A (2004), 240 phụ nữ có thai có
dấu hiệu doạ sẩy trong 3 tháng đầu được làm siêu õm qua õm đạo. Nghiên
cứu cho thấy những thai phụ có nhịp tim thai <120 chu kỳ/phút thì có tăng
nguy cơ sẩy thai [44].
Theo nghiên cứu của Tannirandorn Y và cs (2003), nghiên cứu 87 bệnh
nhõn doạ sẩy thai đã có hoạt động tim thai, thấy có 3 bệnh nhõn bị sẩy thai
trước 20 tuần chiếm 3,4% [81].
Nghiên cứu phân tích siêu âm của Anderson SG (1980), đánh giá trên
158 bệnh nhân doạ sẩy thai. Hoạt động tim thai đươc phát hiện ở tuần thứ 7 của
thai kỳ và sau đó tần số tim thai tăng dần. Sự xuất hiện hoạt động tim thai sau 7
tuần có thể đưa đến những tiên lượng về thai. 97,3% thai phụ có hoạt động tim
thai ở tuần thứ 7 tiếp tục phát triển cho tới cuối thai kỳ. Ngược lại, 98,4% thai
không có hoạt động tim thai ở tuần thứ 7 bị sẩy [32].
Theo Jouppila P và cs (1980), nếu sau 9 tuần trên siêu õm không thấy
hoạt động của thai thì 100% trường hợp thai hỏng. Cũn nếu trên SA thấy
được hoạt động của tim thai thì tỷ lệ sống là 90%, mặc dù có dấu hiệu doạ sẩy
thai [59].
1.7.2. Nghiên cứu về dấu hiệu máu tụ dưới màng nuôi:
Theo nghiên cứu của Macso G và cs (2005), nghiờn cứu hồi cứu trên
184 bệnh nhân có máu tụ dưới màng nuôi. Tỷ lệ sẩy thai là 14,3%, thai phát
triển chậm: 7,7%, đẻ non: 6,6%. Nói chung, khối máu tụ được phát hiện dưới 9
tuần làm tăng nguy cơ bất lợi cho sự phát triển của thai gấp 2,4 lần với tỷ xuất
chênh (OR) = 2,37; độ tin cậy 95%, khoảng tin cậy (CI): 1,20-4,70. Xột riờng
22
về sẩy thai, máu tụ dưới màng nuôi trước 9 tuần làm tăng nguy cơ sẩy thai có ý
nghĩa thống kê (OR = 14,79; CI 1,95 -112,09) [65].
Theo nghiên cứu của Bennett GL và cs (1996), nghiên cứu hồi cứu thực
hiện với những hình ảnh siêu õm của 516 BN ra mỏu ÂĐ, thai sống và có
hình ảnh mỏu tụ dưới màng nuôi trong 3 tháng đầu. Kết quả: Tỷ lệ sẩy thai là
9,3%. Tỷ lệ sẩy thai ở nhúm có mỏu tụ dưới màng nuôi rộng cao gần gấp 2
lần so với nhúm có kích thước nhỏ và vừa (tương ứng là 18,8%, 7,7% và
9,2%). Rau bong rộng có thể làm tăng nguy cơ sẩy thai lên gấp 3 lần [36].
Theo nghiên cứu của Ball RH và cs (1996), nghiên cứu bệnh - chứng,
không có sự khác biệt về đặc điểm của mẹ giữa nhúm. Chảy mỏu dưới màng
nuôi là 1,3% trong tổng số thai phụ và chiếm gần 20% ở những người có ra
mỏu ÂĐ, tỷ lệ sẩy thai ở nhóm bệnh là 9,3% (OR = 2,8, 95%, CI 1,7- 7,4).
Nguy cơ thai chết lưu , rau bong non và đẻ non ở nhóm bệnh cũng tăng lên:
chết lưu (OR = 4,4, 95%, CI 1,5- 13,2) rau bong non (OR = 11,2 ; 95%, CI
2,7- 46,4), đẻ non (OR = 2,6 ; 95%, CI 1,5- 4,6) [34].
Theo nghiên cứu của Pedersen JF và Mantoni M (1990), nghiên cứu gồm
342 thai phụ có chẩy máu âm đạo từ tuần thứ 9-20 có dấu hiệu thai sống trên
siêu âm. Có 18% máu tụ dưới màng nuụi trờn SÂ. Kích thước trung bình của
khối máu tụ là 20ml (2-150ml). Tỷ lệ sẩy thai tự nhiên là như nhau ở 2 nhóm
7/62 (11%) và 28/280 (10%). Tỷ lệ đẻ non là như nhau ở 2 nhóm 7/62 (11%),
32/280 (11%). Không có mối liên quan giữa tỷ lệ sẩy thai và đẻ non với kích
thước khối máu tụ. Như vậy, máu tụ dưới màng nuôi thấy trên SÂ ở những BN
ra máu ÂĐ từ tuần thứ 9-20 là thường gặp và không quan trọng. [72].
1.7.3. Nghiên cứu về nguyên nhân và yếu tố nguy cơ:
Theo nghiên cứu Kleinhaus K và cs (2006), nghiên cứu bệnh - chứng
trên 13.865 thai phụ. Nhóm nghiên cứu (n= 1.506) là những thai phụ bị sẩy
thai và nhóm chứng là những thai phụ sinh bình thường (n= 12.359). Ở nhóm
23
thai dọa sẩy, tuổi bố của bố <25 có nguy cơ sẩy thai so với tuổi 25-29 là OR
= 0,59 (95%,CI 0,45-0,76, p< 0,0001). Nhóm có tuổi ≥ 40 có nguy cơ sẩy thai
là OR = 1,6 (95%,CI 1,2 -2,0, p< 0,0003) [61].
Theo nghiên cứu Alexandros Sotiriadis (2004), nghiờn cứu trên những
thai phụ doạ sẩy với những phụ nữ trên 34 tuổi có nguy cơ sẩy thai OR = 2,3
(95%,CI 0,76- 7,10). Tuy nhiên, sự ảnh hưởng tuổi của mẹ tới nguy cơ sẩy
thai không có ý nghĩa thống kê (p= 0,13) [31].
Theo nghiên cứu của Rasch V (2003), nghiên cứu bệnh chứng với nhóm
nghiên cứu là những thai phụ sẩy thai từ tuần 6-16 và nhóm chứng là những thai
phụ có thai sống từ tuần 6-16, cho thấy nguy cơ sẩy thai ở những thai phụ có
uống từ 5 đơn vị rượu trở lên trong một tuần (1đơn vị = 10ml (8g) ethanol) là
OR = 4,84, (95%,CI 2,87- 8,16). Nguy cơ sẩy thai ở những thai phụ uống từ ≥
375 mg caffein mỗi ngày là OR = 2,21, (95%,CI 1,53- 3,18) [76].
Theo nghiên cứu của Bennett GL và cs (1996), tỷ lệ sẩy thai tự nhiên ở
phụ nữ trên 35 tuổi cao gấp 2 lần so với người trẻ (13,8% và 7,3%) [36].
1.7.4. Nghiên cứu về biến chứng:
Theo nghiên cứu bệnh chứng của John J và Jauniaux (2006), 214 phụ
nữ doạ sẩy thai làm nhóm nghiên cứu và 214 phụ nữ khoẻ mạnh làm nhóm
chứng. Tỷ lệ sẩy thai chung trong 3 tháng đầu là 9,3%. Phụ nữ doạ sẩy có
nguy cơ đẻ non cao hơn (11,9%) so với nhóm phụ nữ khoẻ mạnh (5,6%) với
RR= 2,92 (95%, CI 1,4-4,6) [57].
Theo nghiên cứu có Zhang J và cs (1994), thấy rằng nguy cơ gây dị tật
bẩm sinh của doạ sẩy thai cao gấp 1,5 lần. Doạ sẩy thai thường liờn quan tới
dị tật của hệ thống sinh dục- tiết niệu, tim mạch, cơ xương khớp chi. Đặc biệt
liên quan tới tật nhiều ngón, tinh hoàn lạc chỗ và lỗ đái lệch thấp [82].
1.7.5. Nghiên cứu liờn quan tới điều trị
24
Theo nghiên cứu Qureshi NS và cs (2005), nghiên cứu kết quả điều trị
hCG liều cao kết hợp progesteron cho doạ sẩy thai với nguyờn nhân pha chế
tiết yếu (giai đoạn progesteron). Nghiên cứu bệnh chứng: nhóm nghiên cứu
có 58 bệnh nhân được điều trị bằng hCG 10.000IU, progesteron 20mg tiêm
bắp trong 2 tuần, sau đó tiêm hCG 5.000, progesteron 10mg cho tới tuần thứ
14. Nhóm chứng có 49 BN được tiêm lần đầu tiên hCG 2.000 IU, progesteon
10mg, những ngày sau cũng tiêm như vậy và cũng tiêm cho đến khi thai 14
tuần. Kết quả: tỷ lệ thành công ở nhóm nghiên cứu là 91,38% cao hơn nhóm
chứng 75,51%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0,05 [75].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Minh (2009) nghiên cứu trên 90 thai phụ
doạ sẩy điều trị tại khoa phụ 2, BVPSTƯ được ngẫu nhiên chia vào hai nhúm
điều trị bằng Utrogestan và Progeffik, kết quả điều trị thành công ở hai nhúm
lần lượt là 77,8% và 73,3%. Tuy số lượng thành công và thất bại giữa hai
nhúm có đôi chút khác nhau xong không có ý nghĩa thống kê [22].
25