Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
HỘI CHỨNG BOERHAAVE HAY HỘI CHỨNG VỠ THỰC QUẢN
DO NÔN ÓI MẠNH TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
VÀ BỆNH VIỆN CẤP CỨU TRƯNG VƯƠNG TRONG 14 NĂM (1999 ‐ 2012)
Nguyễn Công Minh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Vỡ thực quản do nôn ói mạng hay hội chứng (HC) Boerhaave’s không thường gặp. Tử vong cao
thường do chẩn đoán trễ với biến chứng viêm mủ trung thất nặng, nhiễm trùng nhiễm độc, suy đa phủ tạng.
Mục tiêu của công trình này nhằm trình bày bệnh cảnh lâm sàng thường gặp và các phương thức can thiệp
trong 14 năm tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương cùng các quan điểm mới hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Hồi cứu trong 14 năm (từ năm 1999 đến năm 2012) chúng tôi có
được 19 BN vỡ thực quản do nôn ói mạnh. Tất cả đều là nam, tuổi trung bình lúc nhập viện là 49 (nhỏ nhất là
36 và cao nhất là 64 tuổi). Đỉnh cao từ 46 đến 55 tuổi. Tất cả được chẩn đoán xác định qua X quang ngực và X
quang điện toán cắt lớp với chất cản quang uống kết hợp. Thời gian nằm viện trung bình là 36 ngày (ngắn nhất
là 18 ngày và lâu nhất là 60 ngày). • 15 BN được mở ngực: 6 tử vong.‐ 9 BN mở ngực khâu thực quản lần đầu:
5 chết do nhiễm trùng nhiễm độc, suy đa phủ tạng, 4 nhiễm trùng bục xì chỗ khâu, phải khâu lại lần hai.‐ 6 BN
được dẫn lưu mủ ở ngực (5 ca được mở ngực khâu thì hai sau đó, 1 phẫu thuật nội soi lồng ngực): 1 tử vong do
nhiễm trùng suy kiệt sau mổ.• 4 BN được chẩn đoán trễ trong tình trạng nặng, chỉ dẫn lưu ngực: 3 BN tử vong
sau đó do nhiễm trùng nhiễm độc. Tỷ lệ tử vong là 47%.
Kết luận: Mặc dù HC Boerhaave’s ít gặp và phương thức xử lý thường không giống nhau, nhưng phát
hiện và mổ sớm sẽ làm giảm tối đa biến chứng mủ trung thất gây nhiễm trùng nhiễm độc nặng, suy đa phủ tạng
và giảm tỷ lệ tử vong. Do đó phải khai thác kỹ bệnh sử và luôn nghĩ đến hội chứng này. Về kinh điển, chẩn đoán
sớm, phẫu thuật khâu phục hồi thì đầu sớm là tốt nhất. Gần đây các tác giả cho thấy can thiệp tối thiểu thì đầu
nhưng phải lấy sạch thức ăn mô hoại tử, dẫn lưu hiệu quả và nuôi ăn thật tốt là các yếu tố giúp thành công.
Từ khóa: Hội chứng Boerhaave, vỡ thực quản.
ABSTRACT
BOERHAAVE’S SYNDROME OR SPONTANEOUS OESOPHAGEAL RUPTURE DUE TO VIOLENT
VOMITING AT CHO RAY HOSPITAL AND TRUNG VUONG EMERGENCY HOSPITAL DURING 14
YEARS (1999‐2012)
Nguyen Cong Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 45 ‐ 53
Objective: Forceful vomitting oesophageal rupture or Boerhaave’s syndrome, is an uncommon condition. It
has a hight mortality due to the commonly delayed diagnosis, with a severe complication ‐ the purulent
mediastinitis, severe sepsis, multiple organ dysfunction syndromes. The purpose of this research is designed the
clinical presentations and oprative management over a period of 14 years at Cho Ray and Trung Vuong hospital,
as well as the recent opinions.
Methods and results: Retrospective in 14 years, between 1999 to 2012, we are 19 violent vomitting
oesophageal perforation. All of them are men, who ages ranged from 36 to 64 years (median: 49 years) at
presentation, the peak from 46 to 55 years old. All patients was confirmed by chest X‐ ray and computed
*
Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương
Tác giả liên lạc: PGS.TS.Nguyễn Công Minh
44
ĐT: 0903732399
Email:
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Nghiên cứu Y học
tomography with contrast study swallow. The median postoperative stay was 36 days (range: 18‐60 days). •15
patients underwent thoracotomy: 6 died. ‐ Nine patients had primary closure thoracotomy with tissue
renforcement: 5 died of multiorgan failure related to septic shock, 4 patients suture line leakage of the infectious
condition, secondary reconstruction.‐ Six primary underwent thoracic drainage (five were repaired secondary
with thoracotomy, one of them was thoracoscopic surgery): One died for empyemas and sepsis with thoracic
drainage. • 4 patients late diagnosis with widespread inflammation from the perforation, only single thoracic
drainage and three patients subsequently died of septic shock. Mortality rate was 47%.
Conclusion: Although Boerhaave’s syndrome is rare and its managenent is not uniform, the early
recognition and prompt operative treatment will reduce the severity of the mediastinitis, septic shock, multiple
organs failure and the mortality. Therefore make full use of patient’s history and keep in mind to think of these
syndrome. Classically, the best condition is the primary repair is appropriate for ruptures diagnosed. Recently,
the studies show that minimize primary surgical management with Adequate surgical drainage, Remove all of
food remaints, the necrotic tissue from the mediastinum and pleural cavity combined with Adequate nutrition are
the best factors for success.
Keywords: Boerhaave’s syndrome, oesophageal rupture.
PHẦN MỞ ĐẦU
Vài dòng lịch sử, trước nửa khuya ngày
29/10/1723, Hermann Boerhaave, Giáo sư người
Đức, dạy tại Đại học Y khoa Leyden,
Netherlands được mời đến khám cho Baron Jan
van Wassenaer, một đại đô đốc hạm đội Hà Lan,
đang la hét, kêu đau dữ dội sau cơn ói mạnh từ
một bữa ăn thịnh soạn và uống nhiều bia.
Boerhaave kết luận là không phát hiện được gì ở
bụng. Bệnh nhân (BN) chết 18 giờ sau đó. Kết
quả tử thiết: Ông nhận thấy khí lép bép nơi
thành ngực bụng và vỡ thực quản ở thành sau‐
bên, trên cơ hoành 7,5 cm (3 inches), mà không
có dấu viêm ‐ loét gì cả. 70 trang biên bản tử
thiết được công bố năm 1724 và hội chứng được
mang tên ông từ đó(9,10,13,14). Tại Bệnh viện (BV)
Chợ Rẫy, thuở ban đầu, thương tổn trên vẫn bị
xử lý muộn do không chẩn đoán được. Trong
những năm sau này ở cả hai BV Chợ Rẫy và BV
Cấp cứu Trưng Vương đã có nhiều tiến bộ trong
chẩn đoán và xử lý sớm thương tổn trầm trọng
này. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục
đích tìm các đặc điểm lâm sàng giúp chẩn đoán
sớm và các phương thức điều trị cấp cứu kinh
TỔNG QUAN SINH LÝ BỆNH ‐ GIẢI PHẪU
BỆNH
Kết hợp với sự gia tăng áp lực đột ngột
trong ổ bụng, cơ chế chấn thương khí áp
(barotrauma) gây vỡ thực quản (TQ) với các
triệu chứng lâm sàng (LS) tương tự, đều được
gọi là HC Boerhaave hay “HC vỡ thực quản do
nôn ói mạnh”(1,9).
Trên người bình thường, phản xạ ói là sự
phối hợp đồng bộ giữa sự gia tăng áp lực
trong ổ bụng (do cơ hoành nhanh chóng hạ
xuống và thành bụng co thắt lại) kết hợp với
sự dãn các cơ thắt của thực quản. Trên người
say rượu, người dùng thuốc an thần, BN đang
mê toàn thân hoặc trên người bị ói mửa liên
tục, phản xạ này có tác dụng ngược lại: cơ thắt
trên của thực quản không dãn ra, khiến áp lực
trong lòng thực quản gia tăng và vỡ. Áp lực ấy
có thể lên đến 200 mm thủy ngân, gấp 5 lần áp
lực bình thường. Trên thực tế áp lực thấp hơn
vẫn có thể gây vỡ nếu có bệnh thực quản có
sẵn như thoát vị hoành qua khe thực quản
hoặc loét thực quản hoặc ung thư(1,2,9,13).
Chỗ vỡ thường gặp nhất: thành sau ‐ bên
của 1/3 dưới thực quản, thức ăn sẽ thóat ra
khoang màng phổi (T), chiếm 70% các trường
hợp và nếu muộn hơn, sẽ mủ màng phổi 2
điển và hiện đại trong các tình huống đặc biệt.
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
45
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
bên(12). Nếu chỗ vỡ cao hơn (1/3 giữa TQ) dịch sẽ
thoát ra khoang màng phổi (P)(7).
Chỗ vỡ ngay dưới hoành dẫn đến các TC ở
bụng, điều này hiếm gặp(7,13).
90% thương tổn của HC Boerhaave thường
là 1 vết nứt dọc, bờ rõ, thay đổi từ 0,5‐20 cm,
thường ở thành sau ‐ bên trái của thực quản.
Cách cơ hoành 2‐3 cm. Vết nứt thành sau ‐ bên
phải, thường cao hơn và chỉ chiếm 8% các
trường hợp, hiếm thấy ở thành trước. Ít khi gặp
đường nứt ngang. Sở dĩ tổn thương thành sau –
bên trái là do yếu tố giải phẫu tại chỗ: thớ cơ
thưa, ít cơ dọc, ít được che chở và là nơi đi vào
của các TK và mạch máu, thực quản ở sâu, khó
tiếp cận, là ống tiêu hoá không có thanh mạc, có
hệ thống mạch máu nuôi bất thường và nằm sát
các cấu trúc quan trọng. Ngoài ra còn có yếu tố
giải phẫu: sự gập góc ra trước của thực quản tại
trụ (T) của cơ hoành.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu và giả định vai
trò quan trọng của bố trí cấu trúc lớp cơ niêm
không đồng bộ của thành thực quản là nguyên
nhân gây nên hội chứng này, khi nôn mạnh(1,3).
Ngoài ra còn có một số bệnh lý là các yếu tố
nguy cơ như HC trào ngược dạ dày – thực quản.
Chính pH của dịch dạ dày trào ngược gây viêm
mạn tính kéo dài làm rối loạn chức năng của cơ
vòng và làm yếu thành TQ. Và có phải chăng
chính các yếu tố trên khiến cho chỗ khâu TQ dễ
bị bục trong thời kỳ hậu phẫu(1).
Cần phân biệt với hội chứng Mallory ‐ Weiss
gây xuất huyết tiêu hoá trên (ở đoạn dưới thực
quản) cũng do nôn ói, nhưng chỉ ảnh hưởng ở
lớp niêm mạc mà thôi, khác với HC Boerhaave(3).
TƯ LIỆU, BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP
Trong 14 năm (từ tháng 1999 đến 2012)
chúng tôi có 19 trường hợp vỡ thực quản tự phát
sau nôn mạnh tại BV Chợ Rẫy và BV Cấp cứu
Trưng Vương.
Là công trình hồi cứu, chúng tôi vẫn xử lý
thực quản vỡ theo phương pháp kinh điển.
46
Tuổi
Trẻ nhất là 36 tuổi, cao tuổi nhất là 64 tuổi.
Đỉnh cao là 46 ‐ 55 tuổi (79%). Tuổi trung bình là
49 tuổi.
Bảng 1: Nhóm tuổi
TUỔI
15 - 25
26 - 35
36 - 45
46 – 55
56 - 65
TỔNG CỘNG
SỐ BN
0
0
1 (5%)
15 (79%)
3 (16%)
19
TỬ VONG
0
0
0
6
3
9
Tử %
0
0
40%
100%
47%
3 BN trên 60 tuổi đều tử vong (100%), so với
40% (6/15 BN). Sự khác biệt có ý nghĩa (P< 0,01).
Hội chứng này thường nghiêng về người
cao tuổi. Khác biệt có ý nghĩa với phép kiểm
chính xác Fisher, P< 0,001.
Giới
Tất cả đều là nam. Không có BN nữ.
Tình huống lâm sàng phát hiện
Khảo sát hoặc hồi cứu bệnh sử trên 19 BN.
Bảng 2: Triệu chứng lâm sàng
Lâm sàng
Nôn ói mạnh
Đau kiểu xé ngực
Tiêu phân đen hoặc ói ra máu
Khó thở-ho khan sau nôn
N= 19
19
19
1
15
Tỉ lệ
100%
100%
5%
79%
Các BN khai là sau lần nôn mạnh thứ ba
hoặc thứ tư thì bắt đầu có cảm giác khó thở. 30
phút sau BN cảm thấy đau xé ngực, tất cả BN tin
rằng đau là do nôn ói.
Phương thức phẫu thuật
Đặt NKQ chọn lọc.
80% (12/15 BN) Mở ngực (T) đường sau‐bên,
qua gian sườn 7.
20% (3/15 BN) Mở ngực (P) qua gian sườn 5.
Sau khi vào ngực, chúng tôi mở trung thất
sau, bơm rửa nhẹ và lấy triệt để các tổ chức hoại
tử, vật lạ và thức ăn.
Chúng tôi có 1 trường hợp (TH) được PTNS
lồng ngực, 3 tuần sau khi dẫn lưu dịch mủ màng
phổi thì đầu.
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Nghiên cứu Y học
PTNS lồng ngực, chúng tôi sử dụng tất cả 4
trocars:
thương này...cho đến khi có CT scan nghi ngờ,
nghĩ đến HC Boerhaave và khai thác kỹ bệnh sử.
1 camera 30° LS 7‐8, đường nách giữa (ống
12mm).
‐ 6 ca được chẩn đoán ban đầu là viêm tuỵ
cấp. Sau đó, qua X quang, phát hiện tràn dịch
màng phổi bên (trái) không giải thích được và
sau cùng với CT scan: nghĩ đến HC Boerhaave.
1 dụng cụ kẹp kéo, LS 3‐4 (ống 12mm)
2 ống 5 mm: một vào LS 4 đường nách giữa.
Một lỗ dưới xương vai dùng để tưới rửa và hút
dịch.
KẾT QUẢ
Thời gian phát hiện bệnh đến khi được mổ
và tử vong
Bảng 3: Thời gian chờ mổ
Thời gian
Trong 24 giờ
24 - 48 giờ
sau 48 giờ
Tổng số
BN(%)
0
5
14
19
Tử vong(%)
0
1 (20%)
8 (57%)
9 (47%)
Khác biệt có ý nghĩa (P< 0,01)
5 BN phát hiện 24 ‐ 48 giờ: qua bất thường
của X quang và được chụp CT scan (quá trình
chẩn đoán hình ảnh).
4 chẩn đoán được nên mở ngực, khâu thực
quản, dẫn lưu: tất cả đều tốt. 1 BN chết do
nhiễm trùng nhiễm độc do bục chỗ khâu.
1 BN chẩn đoán là mủ màng phổi, dẫn lưu
màng phổi (T). Dò mủ kéo dài, cho BN uống
xanh Methylen và nội soi thực quản mới chẩn
đoán được là do vỡ thực quản của HC
Boerhaave. Mở thông dạ dày và hổng tràng nuôi
ăn. Mở ngực khâu thực quản thì hai, kết quả tốt.
14 BN phát hiện trễ sau 48 giờ.
‐ 5 ca chẩn đoán là tràn khí‐ tràn dịch màng
phổi, chỉ định dẫn lưu màng phổi có dấu hiệu
dò thực quản, chụp CT scan và hỏi lại bệnh sử.
Sau đó mới xác định vỡ thực quản bằng các
phương pháp kết hợp khác (uống xanh
methylen, chất cản quang).
‐ Chỉ có 8 ca (trong những năm sau này)
chẩn đoán được là HC vỡ thực quản do nôn ói
(qua bệnh sử và chẩn đoán hình ảnh). Tất cả đều
được xử lý khâu thực quản kỳ đầu.
12 BN được chụp dạ dày có uống thuốc cản
quang: 8(+), 4 ca không phát hiện, phải nhờ đến
phương pháp chẩn đoán khác.
Điều trị
Có 15 BN được mở ngực: 6 tử vong.
‐ 9 BN mở ngực khâu thực quản lần đầu: 5
chết do nhiễm trùng nhiễm độc, suy đa phủ
tạng, 4 nhiễm trùng bục xì chỗ khâu, phải khâu
lại lần hai.
‐ 6 BN được dẫn lưu mủ từ ngực (5 ca được
mở ngực khâu thì hai sau đó, 1 phẫu thuật nội
soi lồng ngực): 1 tử vong do nhiễm trùng suy
kiệt sau mổ.
4 BN được chẩn đoán trễ trong tình trạng
10 BN vẫn được mở ngực khâu thực quản
vỡ: (5 BN bị nhiễm trùng nhiễm độc, suy đa phủ
tạng, tử vong hậu phẫu. 2 BN không thể khâu
TQ thì đầu do hoại tử TQ rộng, buộc phải đưa
TQ ra da và xử lý sau).
nặng, chỉ dẫn lưu ngực: 3 BN tử vong sau đó do
4 trong tình trạng nặng, dẫn lưu tối thiểu: 3
BN do nhiễm trùng suy kiệt dần và tử vong.
tử vong, có 4 BN tiểu đường, chiếm tỷ lệ 44%
nhiễm trùng nhiễm độc.
Bệnh nặng và tử vong
Trong số 9 BN dò mủ kéo dài nhiễm độc và
(4/9 BN).
Chẩn đoán
Tử vong 9 BN, chiếm tỷ lệ là 47% (9/19 BN).
Tất cả đều nhập viện trong tình trạng đau
kiểu xé ngực kèm theo tình trạng sốc, nhưng sau
đó dịu đi, do đó bị bỏ quên, không nghĩ đến tổn
Thời gian nằm viện trung bình là 36 ngày
(ngắn nhất là 18 ngày và lâu nhất là 60 ngày).
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
47
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Sau đó nhờ các phương tiện chẩn đoán hình
ảnh… mới nghĩ đến HC Boerhaave.
BÀN LUẬN
Xuất độ và nguyên nhân
Ochiai(10) trong 10 năm, có 4 BN.
A G Hill, ở New Zealand trong 9 năm chỉ có
8 BN, tương đương với 1/53.000 BN nhập bệnh
viện Middlemore.
Benoit D’Journo(1) trong 16 năm (1989‐2004)
ở BV St. Marguerite, Marseille, nước Pháp: có
18 BN.
Haveman(5) trong 23 năm có 24 BN.
Veno, trên khắp đất nước Đan Mạch, với 5
triệu 300 nghìn dân, trong 9 năm (1997‐2005) có
89 BN(14).
Trong 14 năm (1999‐2012) ở cả hai BV.Chợ
Rẫy và BV.Cấp cứu Trưng Vương, chúng tôi có
được 19 BN.
Theo Ochiai(10) ngoài nguyên nhân nôn ói
mạnh, tác giả còn kể đến cơn nôn mạnh do loét
dạ dày tá tràng.
Giới tính và tuổi tác
HC này thường xảy ra ở tuổi trung niên,
85% các trường hợp xảy ra ở nam giới, trong lứa
tuổi 40‐70 tuổi(7,9).
Công trình của A G Hill, 7 nam, 2 nữ. tuổi
trung bình là 64 (nhỏ nhất là 37 tuổi và cao nhất
là 80 tuổi).
Benoit 13 nam và 5 nữ. Tuổi trung bình là
(1)
‐ Chỉ có 8 ca sau này, với bệnh sử kết hợp
với X quang và CT scan, nghĩ đến HC vỡ thực
quản do nôn ói.
• Lâm sàng rất nghèo nàn. Gần 1/3 các
trường hợp HC Boerhaave có biểu hiện LS
không điển hình, do đó dễ bỏ sót(7).
‐ BN kêu đau xé ngực sau cơn nôn ói mạnh
từ bữa tiệc uống nhiều bia rượu(9).
Nếu chỉ dựa vào lâm sàng ban đầu, dễ chẩn
đoán nhầm là thủng dạ dày, viêm tụy cấp, nhồi
máu cơ tim, thoát vị cạnh thực quản nghẹt…cho
đến khi được xác định trên X quang và CT scan.
‐ Hiếm khi có TC tiêu phân đen(8,9).
• Biến chứng đáng sợ nhất của vỡ thực quản
do nôn ói mạnh là viêm mủ trung thất, với hiện
tượng hoại tử xuất huyết. Thường màng phổi
trung thất bị tổn thương sớm với tràn dịch màng
phổi lượng nhiều, gây khó thở và sốc(9).
‐Trong vài trường hợp, màng phổi trung
thất còn nguyên vẹn, tình trạng viêm tấy sẽ lan
lên trên và xuống dưới trung thất. Những
trường hợp này thường phát hiện trễ, BN kêu
đau âm ỉ, có khi nhiều ngày sau thậm chí cả tuần
sau mới vỡ vào khoang màng phổi.
‐ 65% các trường hợp có tràn khí dưới da
vùng cổ, nhưng thường xuất hiện muộn(9).
64.
Vai trò của các xét nghiệm sinh hóa
Tất cả BN của chúng tôi đều là nam, tuổi
trung bình là 49.
Chúng tôi có 6 trường hợp được tiến hành
XN sinh hoá dịch màng phổi. Nhưng không
được tiến hành đồng bộ (như định lượng:
đường, đạm, LDH, Amylase, pH, cấy và tìm tế
bào học).
Hội chứng này thường nghiêng về người
cao tuổi và tuổi càng cao, tử vong càng nhiều(8,9).
Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán
• Tất cả BN của chúng tôi đều được nhập
viện trong tình trạng đau khủng khiếp kèm theo
tình trạng sốc, 79% (15/19) có kèm theo khó thở,
nhưng sau đó lại dịu đi, do đó không nghĩ đến
tổn thương này... cho đến khi có CT scan nghi
ngờ, khai thác kỹ bệnh sử mới nghĩ đến.
Theo nhiều tác giả, đánh giá nồng độ pH của
dịch màng phổi rất quan trọng. Trong giai đoạn
sớm, nếu pH của dịch màng phổi < 6: phải nghĩ
nhiều đến nguyên nhân vỡ TQ. Ngay cả các
trường hợp mạn tính, với mủ màng phổi khu
trú, pH vẫn < 6(12).
‐ 6 ca được chẩn đoán ban đầu là viêm tuỵ
cấp. 5 ca chẩn đoán là tràn khí‐ máu màng phổi.
48
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Vai trò của chẩn đoán hình ảnh
Chẩn đoán vỡ thực quản do nôn ói của HC
Boerhaave là một thách thức lớn đối với các BS
lâm sàng. Nhiều trường hợp chỉ phát hiện được
khi mổ xác(2,13).
‐ X quang là phương tiện phổ thông và định
hướng chẩn đoán: khí bất thường trong trung
thất; tràn khí dưới da vùng cổ; tràn dịch hoặc
tràn khí màng phổi‐tràn dịch màng phổi một
bện hoặc hai bên. Chụp X quang có uống chất
cản quang gastrografin được thực hiện từ lâu.
Tuy nhiên X quang và các phương pháp soi hiện
nay vẫn có thể âm tính giả, nhất là các sang
thương đơn giản. Không phải lúc nào kết quả
cũng rõ ràng(2,3,9,13).
‐ Nội soi thực quản thường không thực hiện,
vì khi bơm hơi sẽ dễ làm tét rộng đẩy khí vào
trung thất và màng phổi(12,13).
Bệnh án điển hình phát hiện sớm
Một BN ở tuổi trung niên, sau khi uống rượu
bia, nôn ói mạnh: đột ngột đau như xé ngực,
kèm theo khó thở, sốt, mạch nhanh, huyết áp hạ,
lại thêm đau bụng. Sờ thấy có dấu tràn khí dưới
da tại chỗ. X quang gợi ý viêm mủ trung thất.
Chụp X quang, CT scan có uống cản quang xác
định HC Boerhaave, giúp xử trí sớm(7).
Bệnh án điển hình phát hiện muộn(9)
Một BN uống rượu, sau cơn ói nhiều. Nhập
viện và chẩn đoán nhầm là viêm phổi. Sử dụng
kháng sinh đường tĩnh mạch. Sau đó BN bị mủ
màng phổi, phải bóc vỏ phổi… Phổi nở nhưng
mủ vẫn ra nhiều (600‐800 ml) không thể rút ống
dẫn lưu được.… Nghi ngờ trong dịch dẫn lưu
mủ có thức ăn. Kiểm tra với dung dịch xanh
Methylen qua đường uống. Khi đó mới nghĩ
đến dò thực quản. Mở ngực khâu TQ, kèm theo
bóc vỏ phổi lần hai, tưới rửa… Sau mổ kiểm tra
sự lành chỗ vỡ bằng cách chụp X quang BN
uống Gastrograffin 10 ngày sau mổ.
Làm sao chẩn đoán được sớm
• Trước hết là phải khai thác kỹ bệnh sử và
phải nghĩ đến tổn thương này.
Nghiên cứu Y học
• Soreide(12) có gợi ý một phương thức chẩn
đoán sớm là:
Chụp X quang ngực đứng thẳng nghiêng có
thể phát hiện những bất thường như: tràn dịch
màng phổi, khí bất thường trung thất, tràn khí
dưới da, tràn khí màng phổi. Nếu nghi ngờ, X
quang ngực có uống chất cản quang tan trong
nước (gastrgraffin tốt nhất). Mặc dù barium dễ
phát hiện hơn với lỗ thủng nhỏ, nhưng dễ bị
biến chứng xơ hóa, gây khó khăn cho cuộc mổ
sau này(12,13).
• Khabuss(7) đề xuất phân tích sinh hoá và tế
bào học dịch màng phổi lấy ra (nhiều tế bào vẫy,
mô hoại tử, khúm vi khuẩn, khúm nấm Candida
qua nhuộm Papanicolaou). Làm thêm cell block
dịch màng phổi rồi nhuộm H & E… để chẩn
đoán là có dò thức ăn.
Vỡ thực quản trong HC Boerhaave thường
nặng và tử vong cao hơn các loại vỡ TQ
khác
• Nhiều yếu tố nguy cơ khiến vỡ TQ do nôn
ói mạnh có biến chứng nặng, tử vong cao:
Tần suất bệnh ít gặp và biểu hiện lâm sàng
không đặc hiệu, do đó can thiệp muộn, bệnh
rơi vào nhiễm trùng nhiễm độc, suy đa phủ
tạng, tử vong.
Đa số là BN tuổi trung và cao niên. Tuổi tác
là yếu tố quan trọng trong chức năng thần kinh
và cũng làm tăng tỷ lệ tử vong(13).
X quang ngực giai đoạn sớm thường không
đặc hiệu. Nếu chỗ vỡ rách nhỏ, nội soi thực
quản có thể bình thường, kể cả khi chụp với
thuốc cản quang uống(3).
Hầu hết các BN sống được nhờ mức độ tổn
thương được khu trú (không lan toả)(4)
Với đường vỡ rách TQ nhỏ, tiên lượng
thường tốt, nhưng với HC nôn mạnh, tiên lượng
hoàn toàn khác(6).
• Có một điều tiên lượng rất xấu trong loại
vỡ thực quản này: thức ăn mới, chứa đầy dịch
dạ dày đổ mạnh vào trung thất và khoang màng
phổi gây nên các tác động(5,9).
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
49
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Hóa học: pH acid từ dạ dày làm cháy bỏng
các mô, khiến nhiễm trùng nặng, sớm và nhanh
chóng dẫn đến xơ hóa các tổ chức.
Vật lý ‐ mô học: chỗ vỡ thành TQ thiếu máu,
có khả năng tiếp tục hoại tử thứ phát…do đó
khâu có thể khó lành, dễ bục.
Sinh học: với pH ở dạ dày, vi trùng bị khống
chế, nhưng khi đổ ra màng phổi và trung thất,
với pH trung hòa sẽ giúp vi trùng phát triển
nhanh mạnh.
Miễn dịch học: cũng pH acid ấy kết hợp với
sang chấn mạnh nơi thành TQ vỡ ra nhiều mảnh
mô hoại tử và thức ăn… là vật lạ tạo thuận lợi
cho nhiễm trùng phát triển.
Đường vào ngưc
Tùy theo chỗ vỡ (bên tụ dịch) mà chúng tôi
chọn đường vào ngực bên phải hoặc bên trái
(80% vào gực bên trái). Bởi vì chỗ vỡ thường là
đoạn cuối thực quản.
Các tác giả khác cũng tương tự, đa số vào
đường ngực (T)(4,6,10,11,13).
Tử vong
Nghiên cứu của chúng tôi: 20% tử vong số
BN phát hiện từ 24 ‐ 48 giờ và 57% tử vong số
BN được phát hiện trễ sau 48 giờ.
Trong các trường hợp trễ (sau 24 giờ), các
phương thức điều trị vẫn còn nhiều bàn cãi(6).
Griffin(4), Tamatey(13)cho rằng khâu trong giai
đoạn trễ, dễ bục và khuyên nên khâu trên ống
chữ T đặt vào trong lòng TQ và bao quanh tăng
cường bằng mạc nối và rút ống vào khoảng
ngày thứ 45, kết quả tốt(13) Hoặc nội soi thức
quản cấp cứu để đặt khung nong (stent) kim
loại(10) Vogel(15) thì chỉ cần dẫn lưu ngực là đủ.
Ngược lại, Kiev và một số tác giả khác: bằng
mọi giá phải khâu TQ dù cho BN được phát
hiện sớm hoặc muộn(1,9,10). Tương tự, Siddique
không đồng thuận với các phương thức điều trị
bảo tồn, kể cả đặt stent thực quản(11).
Trong lô hồi cứu này, nếu tổng trạng cho
phép, chúng tôi mở ngực đẻ khâu thực quản
tăng cường bằng mạc nối có mạch nuôi ở thì đầu
hoặc thì hai.
Theo các tác giả kinh điển, nên tăng cường
bằng các mô có mạch máu nuôi như mảnh mạc
nối, cơ gian sườn có cuống, cơ hoành, màng
phổi hoặc mỡ quanh tim(6,7).
Theo hầu hết các tác giả, tử vong từ 20‐25%
mổ sớm trong vòng 24 giờ đầu.
Nếu thành thực quản bị hoại tử rộng, mở
thực quản ra da. Tạo hình thực quản bằng cuộng
mổ sau bằng đoạn dạ dày hoặc đại tràng sau 6
tuần(13) Chúng tôi cũng có 2 ca phải đưa thực
quản ra da. Thực ra, phương pháp này chỉ định
cho các trường hợp nặng(7).
40‐60% nếu mổ trễ, sau 48 giờ. Và 100% nếu
không điều trị(3,6,7,12,13,14).
Kết quả của chúng tôi: tử vong còn cao do
nhiễm độc và nhiễm trùng suy kiệt.
Các phương thức điều trị và tiên lượng
Quan điểm điều trị hiện nay
Bởi vì HC Boerhaave thường phát hiện trễ
khi chẩn đoán được, BN thường ở trong tình
trạng biến chứng nhiễm trùng nhiễm độc nặng
dễ dẫn đến tử vong(5).
Với thương tổn TQ trong HC Boerhaave
thì không thể điều trị bảo tồn được bởi vì bệnh
tiến triển rất nhanh, dẫn đến viêm tấy trung
thất, sốc nhiễm trùng nhiễm độc, suy đa phủ
tạng và nhanh chóng tử vong (khác với thủng
do nội soi TQ)(12).
Quan điểm kinh điển
Nếu phát hiện vỡ thực quản trong vòng 24
giờ đầu: khâu TQ và khâu tăng cường là lý
tưởng nhất và đặc biệt là nên dẫn lưu ngực bằng
ống có khẩu kính to(3,6,10,13,14).
50
Nếu phải mở ngực, khâu thực quản thì đầu,
lợi hay hại?
Mở ngực, khâu thực quản là phẫu thuật
nặng, làm tăng yếu tố sốc nặng. Hơn nữa chỗ
thực quản bị chấn thương khí áp, bầm dập đập
vỡ mô tại chỗ, khiến cho hiện tượng thiếu máu
nuôi do phản ứng co mạch, do đó khâu sớm khó
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Nghiên cứu Y học
lành, dễ bục. Cho nên một vài tác giả gần đây
vẫn còn là thử thách lớn cho các BS ngoại khoa,
cho rằng mở ngực hoặc nội soi khâu thực quản
bởi vì tổn thương ít được nghĩ đến, do đó
thì đầu chưa phải là phương thức lý tưởng để hạ
thường can thiệp muộn, dẫn đến viêm trung
tử vong(5).
thất cấp gây nên nhiễm trùng nhiễm độc nặng,
Nên làm tối thiểu thì đầu: phải lấy triệt để
tử vong cao. Trong xử trí kinh điển, tốt nhất là
các thức ăn, vật lạ, mô hoại tử, dẫn lưu hiệu
chẩn đoán và khâu thực quản sớm, khâu tăng
quả trung thất và khoang màng phổi bằng ống
cường với các tổ chức có mạch nuôi là “điều
cỡ lớn, kèm theo tưới rửa, nuôi ăn qua ống
kiện vàng”. Gần đây, các tác giả chủ trương: nếu
thông hổng tràng và giải áp dạ dày, kết hợp
được, nên can thiệp tối thiểu qua nội soi lồng
với kháng sinh đường tĩnh mạch thích hợp
ngực lấy sạch thức ăn‐vật lạ và các mô hoại tử,
liên tục trong 7‐10 ngày(12). Nên chú ý phẫu
dẫn lưu hiệu quả trung thất là khoang màng
thuật dẫn lưu đơn thuần mà không lấy sạch
phổi bằng ống cỡ to kèm theo tưới rửa và kháng
các mô chết, thức ăn vừa vỡ ra thì đều thất bại,
sinh quang phổ rộng qua đường tĩnh mạch (mà
tử vong cao như một hình thức điều trị bảo tồn
không cần phải khâu thực quản thì đầu) phù
không can thiệp(5). Bởi vì hậu quả của HC
hợp với sinh bệnh học và mang lại hiệu quả,
Boerhaave thường khủng khiếp hơn các
giảm tỷ lệ tử vong trên hội chứng đặc biệt này.
trường hợp vỡ thực quản tự phát khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ưu thế của PTNS lồng ngực, nói riêng, PTNS
1.
nói chung đã được chứng minh qua hầu hết các
công trình gần đây(5,7).
Sử dụng ống T để kiểm soát chỗ dò thực
2.
3.
quản(12) hoặc nội soi thực quản đặt khung nong
(stent) mang lại kết quả khả quan theo một số
báo cáo, nhưng phải theo dõi thật sát và nuôi ăn
4.
5.
qua đường truyền trong nhiều tuần lễ. Chụp
kiểm tra uống cản quang sau 1 tháng và lấy ra
6.
sau 6 tuần(3,11). Điều này có phù hợp với điều
kiện chúng ta hiện nay không.
7.
• Một số tác giả hiện nay đề xuất nên tiến
hành khâu thực quản thì hai tăng cường bằng
8.
các tổ chức có cuống mạch, sau khi BN tạm ổn
định. Bởi vì không khâu lại đồng nghĩa với sự
9.
chấp nhận dò mủ kéo dài, BN suy kiệt, không
hiệu quả(1,8,9).
10.
KẾT LUẬN
11.
Mặc dù trải qua hơn 280 năm kinh nghiệm
cùng với những tiến bộ không ngừng của y học,
12.
D’Journo BX, Doddoli C. et al.(2006): “Long‐Term observation
and Functional State of the Esophageal Rupture”. Ann Thorac
Surg.81: 1858‐62.
Corns RA and Edwards JL.(2004), “Boerhaave’s syndrome:
CT diagnosis”. Ann Royal College of Surg. Engl.: 85‐86.
Ferdinand E, Adjepong S. et al.(2013): “A rare but important
cause of chest pain”. J of the Royal Society of Medicine Short
Reports.4: 25.
Griffi SM, Lamb PJ. et al.(2008): “Spotaneous rupture of the
oesophagus”. Br J Surg. 95: 1115‐1120.
Haveman JW, Nieuwenhuijs B et al.(2011): “Adequate
debridement and drainage of the mediastinum using open
thoracotomy or video‐assisted thoracoscopic surgery for
Boerhaave’s syndrome”. Surg Endosc.25: 2492‐2497.
Karman L, Iqbal J, Kundil B and Kochhar R. (2010):
“Management of Esophageal Perforation in Adults”.
Gastoenterology Research. 3 (6): 235‐44.
Khalbuss WE, Hooda S and Auger M (2012):
“Cytomorphology of Boerhaave’s syndrome: a critical value
in cytology”. Chest. 102: 976‐978.
Lyman D (2011): “Spontaneous Esophageal Perforation in a
Patient with Mixed Connective Tissue Disease”. The Open
Rhumatology J. 5: 138‐143.
Nguyễn Công Minh (2005): “Hội chứng Boerhaave ‐ Chấn
thương thực quản”. Chấn thương ngực. NXB Y học. TP
HCM: 150‐151.
Ochiai T, Hiranuma S. et al (2004): “Treatment strategy for
Boerhaave’s syndrome”. Diseases of Esophagus. 17: 98‐103.
Siddique K and Harinath G (2010): “Surgical management of
Boerhaave’s syndrome in a tertiary oesophasogastric center”.
Ann Royal College of Surg. Engl. 92.: 173‐74.
Soreide JA and Viste A (2011): “Esophageal perforation:
diagnosis work up and clinical decision‐making in the first 24
HC Boerhaave hay vỡ thực quản do nôn mạnh
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013
51
Nghiên cứu Y học
13.
14.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
hours”. Scandinavian J of trauma ‐ Resuscitation and
Emergecy Medicine.19: 66.
Tamatey MN, Sereboe LA et al. (2013): “Boerhaave’s
syndrome: Diagnosis and successful primary repair one
month after the oesophageal perforation”. Ghana Medical J.
47: 53‐55.
Veno S and Eckardt J (2013): “Boerhaave’s syndrome and
tention pneumothorax secondary to Norovirus induced
forceful emesis”. J Thorac Dis. 5 (2): 38‐40.
15.
Vogel SB, Rout WR et al.(2005): “Esophageal perforation in
adults: aggressive, conservative treatment lowers morbidity
and mortality”. Ann Surg. 241: 1016‐21.
Ngày nhận bài
20/08/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo
29/08/2013.
Ngày bài báo được đăng:
10/10/2013
52
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013