Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Hội chứng boerhaave hay hội chứng vỡ thực quản do nôn ói mạnh tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương trong 14 năm (1999-2012)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.92 KB, 9 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

HỘI CHỨNG BOERHAAVE HAY HỘI CHỨNG VỠ THỰC QUẢN  
DO NÔN ÓI MẠNH TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY  
VÀ BỆNH VIỆN CẤP CỨU TRƯNG VƯƠNG TRONG 14 NĂM (1999 ‐ 2012) 
Nguyễn Công Minh*

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Vỡ thực quản do nôn ói mạng hay hội chứng (HC) Boerhaave’s không thường gặp. Tử vong cao 
thường do chẩn đoán trễ với biến chứng viêm mủ trung thất nặng, nhiễm trùng nhiễm độc, suy đa phủ tạng. 
Mục tiêu của công trình này nhằm trình bày bệnh cảnh lâm sàng thường gặp và các phương thức can thiệp 
trong 14 năm tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương cùng các quan điểm mới hiện nay. 
Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Hồi cứu trong 14 năm (từ năm 1999 đến năm 2012) chúng tôi có 
được 19 BN vỡ thực quản do nôn ói mạnh. Tất cả đều là nam, tuổi trung bình lúc nhập viện là 49 (nhỏ nhất là 
36 và cao nhất là 64 tuổi). Đỉnh cao từ 46 đến 55 tuổi. Tất cả được chẩn đoán xác định qua X quang ngực và X 
quang điện toán cắt lớp với chất cản quang uống kết hợp. Thời gian nằm viện trung bình là 36 ngày (ngắn nhất 
là 18 ngày và lâu nhất là 60 ngày). • 15 BN được mở ngực: 6 tử vong.‐ 9 BN mở ngực khâu thực quản lần đầu: 
5 chết do nhiễm trùng nhiễm độc, suy đa phủ tạng, 4 nhiễm trùng bục xì chỗ khâu, phải khâu lại lần hai.‐ 6 BN 
được dẫn lưu mủ ở ngực (5 ca được mở ngực khâu thì hai sau đó, 1 phẫu thuật nội soi lồng ngực): 1 tử vong do 
nhiễm trùng suy kiệt sau mổ.• 4 BN được chẩn đoán trễ trong tình trạng nặng, chỉ dẫn lưu ngực: 3 BN tử vong 
sau đó do nhiễm trùng nhiễm độc. Tỷ lệ tử vong là 47%. 
Kết luận: Mặc dù HC Boerhaave’s ít gặp và phương thức xử lý thường không giống nhau, nhưng phát 
hiện và mổ sớm sẽ làm giảm tối đa biến chứng mủ trung thất gây nhiễm trùng nhiễm độc nặng, suy đa phủ tạng 
và giảm tỷ lệ tử vong. Do đó phải khai thác kỹ bệnh sử và luôn nghĩ đến hội chứng này. Về kinh điển, chẩn đoán 
sớm, phẫu thuật khâu phục hồi thì đầu sớm là tốt nhất. Gần đây các tác giả cho thấy can thiệp tối thiểu thì đầu 
nhưng phải lấy sạch thức ăn mô hoại tử, dẫn lưu hiệu quả và nuôi ăn thật tốt là các yếu tố giúp thành công. 
Từ khóa: Hội chứng Boerhaave, vỡ thực quản. 

ABSTRACT  


BOERHAAVE’S SYNDROME OR SPONTANEOUS OESOPHAGEAL RUPTURE DUE TO VIOLENT 
VOMITING AT CHO RAY HOSPITAL AND TRUNG VUONG EMERGENCY HOSPITAL DURING 14 
YEARS (1999‐2012) 
Nguyen Cong Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 45 ‐ 53 
Objective: Forceful vomitting oesophageal rupture or Boerhaave’s syndrome, is an uncommon condition. It 
has  a  hight  mortality  due  to  the  commonly  delayed  diagnosis,  with  a  severe  complication  ‐  the  purulent 
mediastinitis, severe sepsis, multiple organ dysfunction syndromes. The purpose of this research is designed the 
clinical presentations and oprative management over a period of 14 years at Cho Ray and Trung Vuong hospital, 
as well as the recent opinions.  
Methods and results:  Retrospective  in  14  years,  between  1999  to  2012,  we  are  19  violent  vomitting 
oesophageal  perforation.  All  of  them  are  men,  who  ages  ranged  from  36  to  64  years  (median:  49  years)  at 
presentation,  the  peak  from  46  to  55  years  old.  All  patients  was  confirmed  by  chest  X‐  ray  and  computed 
*

 Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương 
Tác giả liên lạc: PGS.TS.Nguyễn Công Minh

44

ĐT: 0903732399

Email: 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học


tomography with contrast study swallow. The median postoperative stay was 36 days (range: 18‐60 days). •15 
patients  underwent  thoracotomy:  6  died.  ‐  Nine  patients  had  primary  closure  thoracotomy  with  tissue 
renforcement: 5 died of multiorgan failure related to septic shock, 4 patients suture line leakage of the infectious 
condition,  secondary  reconstruction.‐  Six  primary  underwent  thoracic  drainage  (five  were  repaired  secondary 
with  thoracotomy,  one  of  them  was  thoracoscopic  surgery):  One  died  for  empyemas  and  sepsis  with  thoracic 
drainage.  •  4  patients  late  diagnosis  with  widespread  inflammation  from  the  perforation,  only  single  thoracic 
drainage and three patients subsequently died of septic shock. Mortality rate was 47%. 
Conclusion:  Although  Boerhaave’s  syndrome  is  rare  and  its  managenent  is  not  uniform,  the  early 
recognition and prompt operative treatment will reduce the severity of the mediastinitis, septic shock, multiple 
organs failure and the mortality. Therefore make full use of patient’s history and keep in mind to think of these 
syndrome. Classically, the best condition is the primary repair is appropriate for ruptures diagnosed. Recently, 
the studies show that minimize primary surgical management with Adequate surgical drainage, Remove all of 
food remaints, the necrotic tissue from the mediastinum and pleural cavity combined with Adequate nutrition are 
the best factors for success. 
Keywords: Boerhaave’s syndrome, oesophageal rupture. 

PHẦN MỞ ĐẦU 
Vài  dòng  lịch  sử,  trước  nửa  khuya  ngày 
29/10/1723, Hermann Boerhaave, Giáo sư người 
Đức,  dạy  tại  Đại  học  Y  khoa  Leyden, 
Netherlands được mời đến khám cho Baron Jan 
van Wassenaer, một đại đô đốc hạm đội Hà Lan, 
đang la hét, kêu đau dữ dội sau cơn ói mạnh từ 
một  bữa  ăn  thịnh  soạn  và  uống  nhiều  bia. 
Boerhaave kết luận là không phát hiện được gì ở 
bụng.  Bệnh  nhân  (BN)  chết  18  giờ  sau  đó.  Kết 
quả  tử  thiết:  Ông  nhận  thấy  khí  lép  bép  nơi 
thành ngực bụng và vỡ thực quản ở thành sau‐
bên, trên cơ hoành 7,5 cm (3 inches), mà không 
có  dấu  viêm  ‐  loét  gì  cả.  70  trang  biên  bản  tử 

thiết được công bố năm 1724 và hội chứng được 
mang  tên  ông  từ  đó(9,10,13,14).  Tại  Bệnh  viện  (BV) 
Chợ Rẫy, thuở ban đầu, thương tổn trên vẫn bị 
xử  lý  muộn  do  không  chẩn  đoán  được.  Trong 
những năm sau này ở cả hai BV Chợ Rẫy và BV 
Cấp cứu Trưng Vương đã có nhiều tiến bộ trong 
chẩn đoán và xử lý sớm thương tổn trầm trọng 
này. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục 
đích tìm các đặc điểm lâm sàng giúp chẩn đoán 
sớm  và  các  phương  thức  điều  trị  cấp  cứu  kinh 

TỔNG  QUAN  SINH  LÝ  BỆNH  ‐  GIẢI  PHẪU 
BỆNH 
Kết  hợp  với  sự  gia  tăng  áp  lực  đột  ngột 
trong  ổ  bụng,  cơ  chế  chấn  thương  khí  áp 
(barotrauma)  gây  vỡ  thực  quản  (TQ)  với  các 
triệu chứng lâm sàng (LS) tương tự, đều được 
gọi là HC Boerhaave hay “HC vỡ thực quản do 
nôn ói mạnh”(1,9).  
Trên  người  bình  thường,  phản  xạ  ói  là  sự 
phối  hợp  đồng  bộ  giữa  sự  gia  tăng  áp  lực 
trong  ổ  bụng  (do  cơ  hoành  nhanh  chóng  hạ 
xuống  và  thành  bụng  co  thắt  lại)  kết  hợp  với 
sự  dãn  các  cơ  thắt  của  thực  quản.  Trên  người 
say rượu, người dùng thuốc an thần, BN đang 
mê  toàn  thân  hoặc  trên  người  bị  ói  mửa  liên 
tục, phản xạ này có tác dụng ngược lại: cơ thắt 
trên của thực quản không dãn ra, khiến áp lực 
trong lòng thực quản gia tăng và vỡ. Áp lực ấy 
có thể lên đến 200 mm thủy ngân, gấp 5 lần áp 

lực bình thường. Trên thực tế áp lực thấp hơn 
vẫn  có  thể  gây  vỡ  nếu  có  bệnh  thực  quản  có 
sẵn  như  thoát  vị  hoành  qua  khe  thực  quản 
hoặc loét thực quản hoặc ung thư(1,2,9,13). 
Chỗ  vỡ  thường  gặp  nhất:  thành  sau  ‐  bên 
của  1/3  dưới  thực  quản,  thức  ăn  sẽ  thóat  ra 
khoang  màng  phổi  (T),  chiếm  70%  các  trường 
hợp  và  nếu  muộn  hơn,  sẽ  mủ  màng  phổi  2 

điển và hiện đại trong các tình huống đặc biệt. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

45


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

bên(12). Nếu chỗ vỡ cao hơn (1/3 giữa TQ) dịch sẽ 
thoát ra khoang màng phổi (P)(7). 
Chỗ vỡ ngay dưới hoành dẫn đến các TC ở 
bụng, điều này hiếm gặp(7,13).  
90%  thương  tổn  của  HC  Boerhaave  thường 
là  1  vết  nứt  dọc,  bờ  rõ,  thay  đổi  từ  0,5‐20  cm, 
thường  ở  thành  sau  ‐  bên  trái  của  thực  quản. 
Cách cơ hoành 2‐3 cm. Vết nứt thành sau ‐ bên 
phải,  thường  cao  hơn  và  chỉ  chiếm  8%  các 
trường hợp, hiếm thấy ở thành trước. Ít khi gặp 

đường nứt ngang. Sở dĩ tổn thương thành sau – 
bên  trái  là  do  yếu  tố  giải  phẫu  tại  chỗ:  thớ  cơ 
thưa, ít cơ dọc, ít được che chở và là nơi đi vào 
của các TK và mạch máu, thực quản ở sâu, khó 
tiếp cận, là ống tiêu hoá không có thanh mạc, có 
hệ thống mạch máu nuôi bất thường và nằm sát 
các cấu trúc quan trọng. Ngoài ra còn có yếu tố 
giải phẫu: sự gập góc ra trước của thực quản tại 
trụ (T) của cơ hoành.  
Nhiều tác giả đã nghiên cứu và giả định vai 
trò  quan  trọng  của  bố  trí  cấu  trúc  lớp  cơ  niêm 
không đồng bộ của thành thực quản là nguyên 
nhân gây nên hội chứng này, khi nôn mạnh(1,3). 
Ngoài ra còn có một số bệnh lý là các yếu tố 
nguy cơ như HC trào ngược dạ dày – thực quản. 
Chính pH của dịch dạ dày trào ngược gây viêm 
mạn tính kéo dài làm rối loạn chức năng của cơ 
vòng  và  làm  yếu  thành  TQ.  Và  có  phải  chăng 
chính các yếu tố trên khiến cho chỗ khâu TQ dễ 
bị bục trong thời kỳ hậu phẫu(1). 
Cần phân biệt với hội chứng Mallory ‐ Weiss 
gây xuất huyết tiêu hoá trên (ở đoạn dưới thực 
quản)  cũng  do  nôn  ói,  nhưng  chỉ  ảnh  hưởng  ở 
lớp niêm mạc mà thôi, khác với HC Boerhaave(3). 

TƯ LIỆU, BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Trong  14  năm  (từ  tháng  1999  đến  2012) 
chúng tôi có 19 trường hợp vỡ thực quản tự phát 
sau  nôn  mạnh  tại  BV  Chợ  Rẫy  và  BV  Cấp  cứu 
Trưng Vương.  

Là  công  trình  hồi  cứu,  chúng  tôi  vẫn  xử  lý 
thực quản vỡ theo phương pháp kinh điển. 

46

Tuổi 
Trẻ nhất là 36 tuổi, cao tuổi nhất là 64 tuổi. 
Đỉnh cao là 46 ‐ 55 tuổi (79%). Tuổi trung bình là 
49 tuổi.  
Bảng 1: Nhóm tuổi 
TUỔI
15 - 25
26 - 35
36 - 45
46 – 55
56 - 65
TỔNG CỘNG

SỐ BN
0
0
1 (5%)
15 (79%)
3 (16%)
19

TỬ VONG
0
0
0

6
3
9

Tử %
0
0
40%
100%
47%

3 BN trên 60 tuổi đều tử vong (100%), so với 
40% (6/15 BN). Sự khác biệt có ý nghĩa (P< 0,01). 
Hội  chứng  này  thường  nghiêng  về  người 
cao  tuổi.  Khác  biệt  có  ý  nghĩa  với  phép  kiểm 
chính xác Fisher, P< 0,001. 

Giới 
Tất cả đều là nam. Không có BN nữ.  

Tình huống lâm sàng phát hiện 
Khảo sát hoặc hồi cứu bệnh sử trên 19 BN. 
Bảng 2: Triệu chứng lâm sàng 
Lâm sàng
Nôn ói mạnh
Đau kiểu xé ngực
Tiêu phân đen hoặc ói ra máu
Khó thở-ho khan sau nôn

N= 19

19
19
1
15

Tỉ lệ
100%
100%
5%
79%

Các  BN  khai  là  sau  lần  nôn  mạnh  thứ  ba 
hoặc thứ tư thì bắt đầu có cảm giác khó thở. 30 
phút sau BN cảm thấy đau xé ngực, tất cả BN tin 
rằng đau là do nôn ói. 

Phương thức phẫu thuật 
Đặt NKQ chọn lọc.  
80% (12/15 BN) Mở ngực (T) đường sau‐bên, 
qua gian sườn 7.  
20% (3/15 BN) Mở ngực (P) qua gian sườn 5. 
Sau  khi  vào  ngực,  chúng  tôi  mở  trung  thất 
sau, bơm rửa nhẹ và lấy triệt để các tổ chức hoại 
tử, vật lạ và thức ăn. 
Chúng tôi có 1 trường hợp (TH) được PTNS 
lồng ngực, 3 tuần sau khi dẫn lưu dịch mủ màng 
phổi thì đầu. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học

PTNS lồng ngực, chúng tôi sử dụng tất cả 4 
trocars: 

thương  này...cho  đến  khi  có  CT  scan  nghi  ngờ, 
nghĩ đến HC Boerhaave và khai thác kỹ bệnh sử. 

1  camera  30°  LS  7‐8,  đường  nách  giữa  (ống 
12mm). 

‐ 6 ca được chẩn đoán  ban  đầu  là  viêm  tuỵ 
cấp.  Sau  đó,  qua  X  quang,  phát  hiện  tràn  dịch 
màng  phổi  bên  (trái)  không  giải  thích  được  và 
sau cùng với CT scan: nghĩ đến HC Boerhaave. 

1 dụng cụ kẹp kéo, LS 3‐4 (ống 12mm) 
2 ống 5 mm: một vào LS 4 đường nách giữa. 
Một lỗ dưới xương vai dùng để tưới rửa và hút 
dịch.  

KẾT QUẢ 
Thời gian phát hiện bệnh đến khi được mổ 
và tử vong 
Bảng 3: Thời gian chờ mổ 
Thời gian
Trong 24 giờ

24 - 48 giờ
sau 48 giờ
Tổng số

BN(%)
0
5
14
19

Tử vong(%)
0
1 (20%)
8 (57%)
9 (47%)

Khác biệt có ý nghĩa (P< 0,01) 

5  BN  phát  hiện  24  ‐  48  giờ:  qua  bất  thường 
của  X  quang  và  được  chụp  CT  scan  (quá  trình 
chẩn đoán hình ảnh). 
4 chẩn đoán  được  nên  mở  ngực,  khâu  thực 
quản,  dẫn  lưu:  tất  cả  đều  tốt.  1  BN  chết  do 
nhiễm trùng nhiễm độc do bục chỗ khâu.  
1 BN chẩn đoán là mủ màng phổi, dẫn  lưu 
màng  phổi  (T).  Dò  mủ  kéo  dài,  cho  BN  uống 
xanh  Methylen  và  nội  soi  thực  quản  mới  chẩn 
đoán  được  là  do  vỡ  thực  quản  của  HC 
Boerhaave. Mở thông dạ dày và hổng tràng nuôi 
ăn. Mở ngực khâu thực quản thì hai, kết quả tốt. 

14 BN phát hiện trễ sau 48 giờ. 

‐ 5 ca chẩn đoán là tràn khí‐ tràn dịch màng 
phổi,  chỉ  định  dẫn  lưu  màng  phổi  có  dấu  hiệu 
dò thực quản, chụp CT scan và hỏi lại bệnh sử. 
Sau  đó  mới  xác  định  vỡ  thực  quản  bằng  các 
phương  pháp  kết  hợp  khác  (uống  xanh 
methylen, chất cản quang). 
‐  Chỉ  có  8  ca  (trong  những  năm  sau  này) 
chẩn đoán được là HC vỡ thực quản do nôn ói 
(qua bệnh sử và chẩn đoán hình ảnh). Tất cả đều 
được xử lý khâu thực quản kỳ đầu. 
12 BN được chụp dạ dày có uống thuốc cản 
quang: 8(+), 4 ca không phát hiện, phải nhờ đến 
phương pháp chẩn đoán khác.  

Điều trị 
Có 15 BN được mở ngực: 6 tử vong. 
‐  9 BN mở ngực khâu thực quản lần đầu: 5 
chết  do  nhiễm  trùng  nhiễm  độc,  suy  đa  phủ 
tạng, 4 nhiễm trùng bục xì chỗ khâu, phải khâu 
lại lần hai. 
‐ 6 BN được dẫn lưu mủ từ ngực (5 ca được 
mở ngực khâu thì hai sau đó, 1 phẫu thuật nội 
soi  lồng  ngực):  1  tử  vong  do  nhiễm  trùng  suy 
kiệt sau mổ. 
4  BN  được  chẩn  đoán  trễ  trong  tình  trạng 

10  BN  vẫn  được  mở  ngực  khâu  thực  quản 
vỡ: (5 BN bị nhiễm trùng nhiễm độc, suy đa phủ 

tạng,  tử  vong  hậu  phẫu.  2  BN  không  thể  khâu 
TQ thì đầu do hoại tử  TQ rộng, buộc phải đưa 
TQ ra da và xử lý sau). 

nặng, chỉ dẫn lưu ngực: 3 BN tử vong sau đó do 

4 trong tình trạng nặng, dẫn lưu tối thiểu: 3 
BN do nhiễm trùng suy kiệt dần và tử vong. 

tử  vong,  có  4  BN  tiểu  đường,  chiếm  tỷ  lệ  44% 

nhiễm trùng nhiễm độc. 

Bệnh nặng và tử vong  
Trong số 9 BN dò mủ kéo dài nhiễm độc và 
(4/9 BN). 

Chẩn đoán 

Tử vong 9 BN, chiếm tỷ lệ là 47% (9/19 BN). 

Tất  cả  đều  nhập  viện  trong  tình  trạng  đau 
kiểu xé ngực kèm theo tình trạng sốc, nhưng sau 
đó dịu đi, do đó bị bỏ quên, không nghĩ đến tổn 

Thời  gian  nằm  viện  trung  bình  là  36  ngày 
(ngắn nhất là 18 ngày và lâu nhất là 60 ngày). 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 


47


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Sau  đó  nhờ  các  phương  tiện  chẩn  đoán  hình 
ảnh… mới nghĩ đến HC Boerhaave. 

BÀN LUẬN 
Xuất độ và nguyên nhân 
Ochiai(10) trong 10 năm, có 4 BN. 
A G Hill, ở New Zealand trong 9 năm chỉ có 
8 BN, tương đương với 1/53.000 BN nhập bệnh 
viện Middlemore. 
Benoit D’Journo(1) trong 16 năm (1989‐2004) 
ở  BV  St.  Marguerite,  Marseille,  nước  Pháp:  có 
18 BN.  
Haveman(5) trong 23 năm có 24 BN. 
Veno,  trên  khắp  đất  nước  Đan  Mạch,  với  5 
triệu 300 nghìn dân, trong 9 năm (1997‐2005) có 
89 BN(14). 
Trong  14  năm  (1999‐2012)  ở  cả  hai  BV.Chợ 
Rẫy và BV.Cấp cứu Trưng Vương, chúng tôi có 
được 19 BN. 
Theo  Ochiai(10)  ngoài  nguyên  nhân  nôn  ói 
mạnh, tác giả còn kể đến cơn nôn mạnh do loét 
dạ dày tá tràng.  

Giới tính và tuổi tác 

HC  này  thường  xảy  ra  ở  tuổi  trung  niên, 
85% các trường hợp xảy ra ở nam giới, trong lứa 
tuổi 40‐70 tuổi(7,9). 
Công  trình  của  A  G  Hill,  7  nam,  2  nữ.  tuổi 
trung bình là 64 (nhỏ nhất là 37 tuổi và cao nhất 
là 80 tuổi). 
Benoit 13 nam và 5 nữ. Tuổi  trung  bình  là 
(1) 

‐  Chỉ  có  8  ca  sau  này,  với  bệnh  sử  kết  hợp 
với  X  quang  và  CT  scan,  nghĩ  đến  HC  vỡ  thực 
quản do nôn ói. 
•  Lâm  sàng  rất  nghèo  nàn.  Gần  1/3  các 
trường  hợp  HC  Boerhaave  có  biểu  hiện  LS 
không điển hình, do đó dễ bỏ sót(7). 
‐ BN kêu đau xé ngực sau cơn nôn ói mạnh 
từ bữa tiệc uống nhiều bia rượu(9).  
 Nếu chỉ dựa vào lâm sàng ban đầu, dễ chẩn 
đoán nhầm là thủng dạ dày, viêm tụy cấp, nhồi 
máu cơ tim, thoát vị cạnh thực quản nghẹt…cho 
đến khi được xác định trên X quang và CT scan. 
‐ Hiếm khi có TC tiêu phân đen(8,9).  
• Biến chứng đáng sợ nhất của vỡ thực quản 
do nôn ói mạnh là viêm mủ trung thất, với hiện 
tượng  hoại  tử  xuất  huyết.  Thường  màng  phổi 
trung thất bị tổn thương sớm với tràn dịch màng 
phổi lượng nhiều, gây khó thở và sốc(9).  
‐Trong  vài  trường  hợp,  màng  phổi  trung 
thất còn nguyên vẹn, tình trạng viêm tấy sẽ lan 
lên  trên  và  xuống  dưới  trung  thất.  Những 

trường  hợp  này  thường  phát  hiện  trễ,  BN  kêu 
đau âm ỉ, có khi nhiều ngày sau thậm chí cả tuần 
sau mới vỡ vào khoang màng phổi.  
‐  65%  các  trường  hợp  có  tràn  khí  dưới  da 
vùng cổ, nhưng thường xuất hiện muộn(9).  

64. 

Vai trò của các xét nghiệm sinh hóa 

Tất  cả  BN  của  chúng  tôi  đều  là  nam,  tuổi 
trung bình là 49. 

Chúng  tôi  có  6  trường  hợp  được  tiến  hành 
XN  sinh  hoá  dịch  màng  phổi.  Nhưng  không 
được  tiến  hành  đồng  bộ  (như  định  lượng: 
đường, đạm, LDH, Amylase, pH, cấy và  tìm  tế 
bào học). 

Hội  chứng  này  thường  nghiêng  về  người 
cao tuổi và tuổi càng cao, tử vong càng nhiều(8,9). 

Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán 
•  Tất  cả  BN  của  chúng  tôi  đều  được  nhập 
viện trong tình trạng đau khủng khiếp kèm theo 
tình trạng sốc, 79% (15/19) có kèm theo khó thở, 
nhưng sau đó lại dịu đi, do đó không nghĩ đến 
tổn  thương  này...  cho  đến  khi  có  CT  scan  nghi 
ngờ, khai thác kỹ bệnh sử mới nghĩ đến. 


Theo nhiều tác giả, đánh giá nồng độ pH của 
dịch màng phổi rất quan trọng. Trong giai đoạn 
sớm, nếu pH của dịch màng phổi < 6: phải nghĩ 
nhiều  đến  nguyên  nhân  vỡ  TQ.  Ngay  cả  các 
trường  hợp  mạn  tính,  với  mủ  màng  phổi  khu 
trú, pH vẫn < 6(12). 

‐ 6 ca được chẩn đoán  ban  đầu  là  viêm  tuỵ 
cấp. 5 ca chẩn đoán là tràn khí‐ máu màng phổi. 

48

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
Vai trò của chẩn đoán hình ảnh 
Chẩn đoán vỡ thực quản do nôn ói của HC 
Boerhaave là một thách thức lớn đối với các BS 
lâm sàng. Nhiều trường hợp chỉ phát hiện được 
khi mổ xác(2,13). 
‐ X quang là phương tiện phổ thông và định 
hướng  chẩn  đoán:  khí  bất  thường  trong  trung 
thất;  tràn  khí  dưới  da  vùng  cổ;  tràn  dịch  hoặc 
tràn  khí  màng  phổi‐tràn  dịch  màng  phổi  một 
bện  hoặc  hai  bên.  Chụp  X  quang  có  uống  chất 
cản  quang  gastrografin  được  thực  hiện  từ  lâu. 
Tuy nhiên X quang và các phương pháp soi hiện 
nay  vẫn  có  thể  âm  tính  giả,  nhất  là  các  sang 
thương  đơn  giản.  Không  phải  lúc  nào  kết  quả 

cũng rõ ràng(2,3,9,13). 
‐ Nội soi thực quản thường không thực hiện, 
vì  khi  bơm  hơi  sẽ  dễ  làm  tét  rộng  đẩy  khí  vào 
trung thất và màng phổi(12,13). 

Bệnh án điển hình phát hiện sớm
Một BN ở tuổi trung niên, sau khi uống rượu 
bia,  nôn  ói  mạnh:  đột  ngột  đau  như  xé  ngực, 
kèm theo khó thở, sốt, mạch nhanh, huyết áp hạ, 
lại thêm đau bụng. Sờ thấy có dấu tràn khí dưới 
da  tại  chỗ.  X  quang  gợi  ý  viêm  mủ  trung  thất. 
Chụp X quang, CT scan có uống cản quang xác 
định HC Boerhaave, giúp xử trí sớm(7). 
Bệnh án điển hình phát hiện muộn(9)
Một BN uống rượu, sau cơn ói nhiều. Nhập 
viện và chẩn đoán nhầm là viêm phổi. Sử dụng 
kháng sinh đường tĩnh mạch. Sau đó BN bị mủ 
màng  phổi,  phải  bóc  vỏ  phổi…  Phổi  nở  nhưng 
mủ vẫn ra nhiều (600‐800 ml) không thể rút ống 
dẫn  lưu  được.…  Nghi  ngờ  trong  dịch  dẫn  lưu 
mủ  có  thức  ăn.  Kiểm  tra  với  dung  dịch  xanh 
Methylen  qua  đường  uống.  Khi  đó  mới  nghĩ 
đến dò thực quản. Mở ngực khâu TQ, kèm theo 
bóc vỏ phổi lần hai, tưới rửa… Sau mổ kiểm tra 
sự  lành  chỗ  vỡ  bằng  cách  chụp  X  quang  BN 
uống Gastrograffin 10 ngày sau mổ.  

Làm sao chẩn đoán được sớm 
• Trước hết là phải khai thác kỹ bệnh sử và 
phải nghĩ đến tổn thương này. 


Nghiên cứu Y học

•  Soreide(12)  có  gợi  ý  một  phương  thức  chẩn 
đoán sớm là: 
Chụp X quang ngực đứng thẳng nghiêng có 
thể phát hiện những bất thường như: tràn dịch 
màng  phổi,  khí  bất  thường  trung  thất,  tràn  khí 
dưới  da,  tràn  khí  màng  phổi.  Nếu  nghi  ngờ,  X 
quang  ngực  có  uống  chất  cản  quang  tan  trong 
nước  (gastrgraffin  tốt  nhất).  Mặc  dù  barium  dễ 
phát  hiện  hơn  với  lỗ  thủng  nhỏ,  nhưng  dễ  bị 
biến  chứng  xơ  hóa,  gây  khó  khăn  cho  cuộc  mổ 
sau này(12,13). 
• Khabuss(7) đề xuất phân tích sinh hoá và tế 
bào học dịch màng phổi lấy ra (nhiều tế bào vẫy, 
mô hoại tử, khúm vi khuẩn, khúm nấm Candida 
qua nhuộm Papanicolaou). Làm thêm cell block 
dịch  màng  phổi  rồi  nhuộm  H  &  E…  để  chẩn 
đoán là có dò thức ăn.  

Vỡ thực quản trong HC Boerhaave thường
nặng và tử vong cao hơn các loại vỡ TQ
khác
• Nhiều yếu tố nguy cơ khiến vỡ TQ do nôn 
ói mạnh có biến chứng nặng, tử vong cao: 
Tần suất bệnh ít gặp và biểu hiện lâm sàng 
không  đặc  hiệu,  do  đó  can  thiệp  muộn,  bệnh 
rơi  vào  nhiễm  trùng  nhiễm  độc,  suy  đa  phủ 
tạng, tử vong. 

Đa số là BN tuổi trung và cao niên. Tuổi tác 
là yếu tố quan trọng trong chức năng thần kinh 
và cũng làm tăng tỷ lệ tử vong(13). 
X quang ngực giai đoạn sớm thường không 
đặc  hiệu.  Nếu  chỗ  vỡ  rách  nhỏ,  nội  soi  thực 
quản  có  thể  bình  thường,  kể  cả  khi  chụp  với 
thuốc cản quang uống(3). 

Hầu hết các BN sống được nhờ mức độ tổn
thương được khu trú (không lan toả)(4)
Với  đường  vỡ  rách  TQ  nhỏ,  tiên  lượng 
thường tốt, nhưng với HC nôn mạnh, tiên lượng 
hoàn toàn khác(6). 
• Có một điều tiên lượng  rất  xấu  trong  loại 
vỡ  thực  quản  này:  thức  ăn  mới,  chứa  đầy  dịch 
dạ dày đổ mạnh vào trung thất và khoang màng 
phổi gây nên các tác động(5,9). 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

49


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Hóa học: pH acid từ dạ dày làm cháy bỏng 
các mô, khiến nhiễm trùng nặng, sớm và nhanh 
chóng dẫn đến xơ hóa các tổ chức. 

Vật lý ‐ mô học: chỗ vỡ thành TQ thiếu máu, 
có  khả  năng  tiếp  tục  hoại  tử  thứ  phát…do  đó 
khâu có thể khó lành, dễ bục. 
Sinh học: với pH ở dạ dày, vi trùng bị khống 
chế,  nhưng  khi  đổ  ra  màng  phổi  và  trung  thất, 
với  pH  trung  hòa  sẽ  giúp  vi  trùng  phát  triển 
nhanh mạnh. 
Miễn dịch học: cũng pH acid ấy kết hợp với 
sang chấn mạnh nơi thành TQ vỡ ra nhiều mảnh 
mô hoại  tử  và  thức  ăn…  là  vật  lạ  tạo  thuận  lợi 
cho nhiễm trùng phát triển.  

Đường vào ngưc
Tùy theo chỗ vỡ (bên tụ dịch) mà chúng tôi 
chọn  đường  vào  ngực  bên  phải  hoặc  bên  trái 
(80% vào gực bên trái). Bởi vì chỗ vỡ thường là 
đoạn cuối thực quản.  
Các  tác  giả  khác  cũng  tương  tự,  đa  số  vào 
đường ngực (T)(4,6,10,11,13). 

Tử vong
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi:  20%  tử  vong  số 
BN phát hiện từ  24 ‐ 48 giờ và 57%  tử  vong  số 
BN được phát hiện trễ sau 48 giờ.  

Trong  các  trường  hợp  trễ  (sau  24  giờ),  các 
phương thức điều trị vẫn còn nhiều bàn cãi(6). 
Griffin(4), Tamatey(13)cho rằng khâu trong giai 
đoạn  trễ,  dễ  bục  và  khuyên  nên  khâu  trên  ống 
chữ T đặt vào trong lòng TQ và bao quanh tăng 

cường  bằng  mạc  nối  và  rút  ống  vào  khoảng 
ngày  thứ  45,  kết  quả  tốt(13)  Hoặc  nội  soi  thức 
quản  cấp  cứu  để  đặt  khung  nong  (stent)  kim 
loại(10) Vogel(15) thì chỉ cần dẫn lưu ngực là đủ.  
Ngược lại, Kiev và một số tác giả khác: bằng 
mọi  giá  phải  khâu  TQ  dù  cho  BN  được  phát 
hiện  sớm  hoặc  muộn(1,9,10).  Tương  tự,  Siddique 
không đồng thuận với các phương thức điều trị 
bảo tồn, kể cả đặt stent thực quản(11). 
Trong  lô  hồi  cứu  này,  nếu  tổng  trạng  cho 
phép,  chúng  tôi  mở  ngực  đẻ  khâu  thực  quản 
tăng cường bằng mạc nối có mạch nuôi ở thì đầu 
hoặc thì hai.  
Theo  các  tác  giả  kinh  điển,  nên  tăng  cường 
bằng các mô có mạch máu nuôi như mảnh mạc 
nối,  cơ  gian  sườn  có  cuống,  cơ  hoành,  màng 
phổi hoặc mỡ quanh tim(6,7). 

Theo hầu hết các tác giả, tử vong từ 20‐25% 
mổ sớm trong vòng 24 giờ đầu. 

Nếu  thành  thực  quản  bị  hoại  tử  rộng,  mở 
thực quản ra da. Tạo hình thực quản bằng cuộng 
mổ sau bằng đoạn dạ dày hoặc đại tràng sau 6 
tuần(13)  Chúng  tôi  cũng  có  2  ca  phải  đưa  thực 
quản ra da. Thực ra, phương pháp này chỉ định 
cho các trường hợp nặng(7). 

40‐60% nếu mổ trễ, sau 48 giờ. Và 100% nếu 
không điều trị(3,6,7,12,13,14). 


Kết  quả  của  chúng  tôi:  tử  vong  còn  cao  do 
nhiễm độc và nhiễm trùng suy kiệt.  

Các phương thức điều trị và tiên lượng 

Quan điểm điều trị hiện nay
Bởi  vì  HC  Boerhaave  thường  phát  hiện  trễ 
khi  chẩn  đoán  được,  BN  thường  ở  trong  tình 
trạng biến chứng nhiễm  trùng  nhiễm  độc  nặng 
dễ dẫn đến tử vong(5). 

Với  thương  tổn  TQ  trong  HC  Boerhaave 
thì không thể điều trị bảo tồn được bởi vì bệnh 
tiến  triển  rất  nhanh,  dẫn  đến  viêm  tấy  trung 
thất,  sốc  nhiễm  trùng  nhiễm  độc,  suy  đa  phủ 
tạng và nhanh chóng tử vong (khác với thủng 
do nội soi TQ)(12). 

Quan điểm kinh điển
Nếu  phát  hiện  vỡ  thực  quản  trong  vòng  24 
giờ  đầu:  khâu  TQ  và  khâu  tăng  cường  là  lý 
tưởng nhất và đặc biệt là nên dẫn lưu ngực bằng 
ống có khẩu kính to(3,6,10,13,14).  

50

Nếu phải mở ngực, khâu thực quản thì đầu, 
lợi hay hại? 
Mở  ngực,  khâu  thực  quản  là  phẫu  thuật 

nặng,  làm  tăng  yếu  tố  sốc  nặng.  Hơn  nữa  chỗ 
thực quản bị chấn thương khí áp, bầm dập đập 
vỡ mô tại chỗ, khiến cho hiện tượng thiếu máu 
nuôi do phản ứng co mạch, do đó khâu sớm khó 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học

lành,  dễ  bục.  Cho  nên  một  vài  tác  giả  gần  đây 

vẫn còn là thử thách lớn cho các BS ngoại khoa, 

cho rằng mở ngực hoặc nội soi khâu thực quản 

bởi  vì  tổn  thương  ít  được  nghĩ  đến,  do  đó 

thì đầu chưa phải là phương thức lý tưởng để hạ 

thường  can  thiệp  muộn,  dẫn  đến  viêm  trung 

tử vong(5). 

thất cấp gây nên nhiễm trùng nhiễm độc nặng, 

Nên làm tối thiểu thì đầu: phải lấy triệt để 


tử vong cao. Trong xử  trí kinh điển, tốt nhất là 

các  thức  ăn,  vật  lạ,  mô  hoại  tử,  dẫn  lưu  hiệu 

chẩn  đoán  và  khâu  thực  quản  sớm,  khâu  tăng 

quả trung thất và khoang màng phổi bằng ống 

cường  với  các  tổ  chức  có  mạch  nuôi  là  “điều 

cỡ  lớn,  kèm  theo  tưới  rửa,  nuôi  ăn  qua  ống 

kiện vàng”. Gần đây, các tác giả chủ trương: nếu 

thông  hổng  tràng  và  giải  áp  dạ  dày,  kết  hợp 

được,  nên  can  thiệp  tối  thiểu  qua  nội  soi  lồng 

với  kháng  sinh  đường  tĩnh  mạch  thích  hợp 

ngực lấy sạch thức ăn‐vật lạ và các mô hoại tử, 

liên  tục  trong  7‐10  ngày(12).  Nên  chú  ý  phẫu 

dẫn  lưu  hiệu  quả  trung  thất  là  khoang  màng 

thuật  dẫn  lưu  đơn  thuần  mà  không  lấy  sạch 

phổi bằng ống cỡ to kèm theo tưới rửa và kháng 


các mô chết, thức ăn vừa vỡ ra thì đều thất bại, 

sinh quang phổ rộng qua đường tĩnh mạch (mà 

tử vong cao như một hình thức điều trị bảo tồn 

không  cần  phải  khâu  thực  quản  thì  đầu)  phù 

không  can  thiệp(5).  Bởi  vì  hậu  quả  của  HC 

hợp  với  sinh  bệnh  học  và  mang  lại  hiệu  quả, 

Boerhaave  thường  khủng  khiếp  hơn  các 

giảm tỷ lệ tử vong trên hội chứng đặc biệt này.  

trường hợp vỡ thực quản tự phát khác. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

Ưu thế của PTNS lồng ngực, nói riêng, PTNS 

1.

nói chung đã được chứng minh qua hầu hết các 
công trình gần đây(5,7). 
Sử  dụng  ống  T  để  kiểm  soát  chỗ  dò  thực 

2.
3.


quản(12) hoặc nội soi thực quản đặt khung nong 
(stent)  mang  lại  kết  quả  khả  quan  theo  một  số 
báo cáo, nhưng phải theo dõi thật sát và nuôi ăn 

4.
5.

qua  đường  truyền  trong  nhiều  tuần  lễ.  Chụp 
kiểm tra uống cản quang sau 1  tháng  và  lấy  ra 

6.

sau  6  tuần(3,11).  Điều  này  có  phù  hợp  với  điều 
kiện chúng ta hiện nay không.  

7.

•  Một  số  tác  giả  hiện  nay  đề  xuất  nên  tiến 
hành  khâu  thực  quản  thì  hai  tăng  cường  bằng 

8.

các tổ chức có cuống mạch, sau khi BN tạm ổn 
định.  Bởi  vì  không  khâu  lại  đồng  nghĩa  với  sự 

9.

chấp  nhận  dò  mủ  kéo  dài,  BN  suy  kiệt,  không 
hiệu quả(1,8,9). 


10.

KẾT LUẬN 

11.

Mặc  dù  trải  qua  hơn  280  năm  kinh  nghiệm 
cùng với những tiến bộ không ngừng của y học, 

12.

D’Journo BX, Doddoli C. et al.(2006): “Long‐Term observation 
and Functional State of the Esophageal Rupture”. Ann Thorac 
Surg.81: 1858‐62. 
Corns  RA  and  Edwards  JL.(2004),  “Boerhaave’s  syndrome: 
CT diagnosis”. Ann Royal College of Surg. Engl.: 85‐86. 
Ferdinand E, Adjepong S. et al.(2013): “A rare but important 
cause of chest pain”. J of the Royal Society of Medicine Short 
Reports.4: 25. 
Griffi  SM,  Lamb  PJ.  et  al.(2008):  “Spotaneous  rupture  of  the 
oesophagus”. Br J Surg. 95: 1115‐1120. 
Haveman  JW,  Nieuwenhuijs  B  et  al.(2011):  “Adequate 
debridement  and  drainage  of  the  mediastinum  using  open 
thoracotomy  or  video‐assisted  thoracoscopic  surgery  for 
Boerhaave’s syndrome”. Surg Endosc.25: 2492‐2497. 
Karman  L,  Iqbal  J,  Kundil  B  and  Kochhar  R.  (2010): 
“Management  of  Esophageal  Perforation  in  Adults”. 
Gastoenterology Research. 3 (6): 235‐44. 
Khalbuss  WE,  Hooda  S  and  Auger  M  (2012): 

“Cytomorphology  of  Boerhaave’s  syndrome:  a  critical  value 
in cytology”. Chest. 102: 976‐978. 
Lyman D  (2011): “Spontaneous Esophageal Perforation in a 
Patient  with  Mixed  Connective  Tissue  Disease”.  The  Open 
Rhumatology J. 5: 138‐143. 
Nguyễn  Công  Minh  (2005):  “Hội  chứng  Boerhaave  ‐  Chấn 
thương  thực  quản”.  Chấn  thương  ngực.  NXB  Y  học.  TP 
HCM: 150‐151. 
Ochiai  T,  Hiranuma  S.  et  al  (2004):  “Treatment  strategy  for 
Boerhaave’s syndrome”. Diseases of Esophagus. 17: 98‐103. 
Siddique K and Harinath G (2010): “Surgical management of 
Boerhaave’s syndrome in a tertiary oesophasogastric center”. 
Ann Royal College of Surg. Engl. 92.: 173‐74. 
Soreide  JA  and  Viste  A  (2011):  “Esophageal  perforation: 
diagnosis work up and clinical decision‐making in the first 24 

HC Boerhaave hay vỡ thực quản do nôn mạnh 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

51


Nghiên cứu Y học 

13.

14.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013


hours”.  Scandinavian  J  of  trauma  ‐  Resuscitation  and 
Emergecy Medicine.19: 66. 
Tamatey  MN,  Sereboe  LA  et  al.  (2013):  “Boerhaave’s 
syndrome:  Diagnosis  and  successful  primary  repair  one 
month  after  the  oesophageal  perforation”.  Ghana  Medical  J. 
47: 53‐55.  
Veno  S  and  Eckardt  J  (2013):  “Boerhaave’s  syndrome  and 
tention  pneumothorax  secondary  to  Norovirus  induced 
forceful emesis”. J Thorac Dis. 5 (2): 38‐40. 

15.

Vogel  SB,  Rout  WR  et  al.(2005):  “Esophageal  perforation  in 
adults:  aggressive,  conservative  treatment  lowers  morbidity 
and mortality”. Ann Surg. 241: 1016‐21. 

 
Ngày nhận bài   

 

 

 20/08/2013. 

Ngày phản biện  nhận xét bài báo 

 29/08/2013. 


Ngày bài báo được đăng: 

10/10/2013 

 

 

52

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  



×