Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kết quả của cắt đại tràng chương trình có so với không chuẩn bị đại tràng trước mổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.56 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

KẾT QUẢ CỦA CẮT ĐẠI TRÀNG CHƯƠNG TRÌNH  
CÓ SO VỚI KHÔNG CHUẨN BỊ ĐẠI TRÀNG TRƯỚC MỔ 
Nguyễn Văn Hải*, Võ Thị Mỹ  Ngọc*, Lâm Thành Quốc* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá xem cắt đại tràng chương trình mà không chuẩn bị đại tràng (CBĐT) trước mổ có an 
toàn không. 
Phương  pháp: Các bệnh nhân ung thư đại tràng được điều trị bằng cắt đại tràng chương trình tại bệnh 
viện NDGĐ từ 12/2009 đến 6/2013 được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: CBĐT và không CBĐT (KCBĐT). 
Kết quả sớm sau mổ của 2 nhóm được so sánh. Kết cục chính của nghiên cứu là tỉ lệ xì miệng nối, nhiễm khuẩn 
vết mổ và áp xe trong ổ bụng. Bệnh nhân được theo dõi đến 30 ngày sau mổ. 
Kết quả: Có 87 bệnh nhân trong nghiên cứu, 50 ở nhóm CBĐT và 37 ở nhóm KCBĐT. Các đặc điểm bệnh 
nhân, ngả mổ và phương pháp cắt đại tràng không khác giữa 2 nhóm. Không có khác biệt về tỉ lệ biến chứng 
chung sau mổ (12% so với 10,8%, p = 0,863).  Tỉ lệ xì miệng nối, nhiễm khuẩn vết mổ, áp xe trong ổ bụng lần 
lượt là 4%, 6%, 0% cho nhóm CBĐT và 0%, 8,1%, 2,7% cho nhóm KCBĐT. Có 1 t.h (2%) tắc ruột sớm sau mổ 
ở nhóm CBĐT. Nhóm CBĐT có 2 t.h phải mổ lại, 1 vì xì miệng nối và 1 vì tắc ruột.   
Kết luận: Không CBĐT không làm tăng biến chứng sau mổ cắt đại tràng chương trình.. 
Từ khóa: Cắt đại tràng, Chuẩn bị đại tràng, Xì miệng nối. 

ABSTRACT 
RESULTS OF ELECTIVE COLECTOMY WITH  VS WITHOUT MECHANICAL BOWEL 
PREPARATION 
Nguyen Van Hai, Vo Thi My Ngoc, Lam Thanh Quoc  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 150 ‐ 156 
Aims: To assess whether elective colectomy can be safely performed without preoperative mechanical bowel 
preparation (MBP). 
Methods: Patients with colon cancer undergoing elective colectomy at Gia đinh’s People hospital beween 


12/ 2009 and 6/2013 were prospectively randomized into two groups: MBP and Non‐MBP. Early results in the 
postoperative period of two groups were compared. The main outcomes of study were rates of anastomotic leak, 
wound infection and intra‐abdominal abscess. Patients were followed up for 30 days after operation. 
Results: Eighty seven patients were included in the study, 50 in group MBP and 37 in group Non‐MBP. 
Demographic characteristics, approach and type of surgical procedure did not significantly differ beween the two 
groups. There was no difference in the overall rate of postoperative complications (12% vs 10.8%, p = 0.863). The 
rate of anastomotic leak, wound infection, and intra‐abdominal abscess were respectively 4%, 6%, 0% for group 
MBP, and 0%, 8.1%, 2.7% for group Non‐MBP. There was 1 (2%) early postoperative adhesive small bowel 
obstruction  (SBO)  in  group  MBP.  Reoperation  was  necessary  for  2  patients  (4%)  in  group  MBP,  1  for 
anastomotic leak and 1 for SBO.    
Conclusion: Non‐MBP didn’t increase the rate of postoperative complications of elective colectomy. 
Keyword: Colectomy, Mechanical bowel preparation, Anastomotic leak. 
* Khoa Ngoại Tiêu hóa ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định  
Tác giả liên lạc: PGS.TS.Nguyễn Văn Hải   ĐT : 0903.602.989 

150

  Email :  

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chuẩn bị đại tràng (CBĐT) trước mổ vốn là 
một công việc không thể thiếu cho mọi cuộc mổ 
cắt nối đại tràng chương trình. Tuy có tốn kém, 
có gây khó chịu và một số tác dụng phụ, nhưng 
về lý thuyết, đại tràng (ĐT) được làm sạch trước 
mổ  hy  vọng  sẽ  giúp  giảm  thiểu  biến  chứng 

nhiễm  khuẩn  vùng  mổ  và  nhất  là  xì,  rò  miệng 
nối.  Thế  nhưng,  trên  thực  tế,  không  có  nhiều 
chứng  cứ  trên  Y  văn  xác  nhận  lợi  ích  đó  của 
CBĐT. Ngược lại, nhiều nghiên cứu gần đây lại 
chứng  minh  rằng,  CBĐT  trong  phẫu  thuật  ĐT 
thực  ra  là  không  cần  thiết  và  nên  bỏ  vì  không 
giúp giảm tử vong và biến chứng(3,4,5,12,14,15).  
Từ bỏ thói quen CBĐT trước mổ cắt nối ĐT 
chương trình trong một sớm một chiều, ngay ở 
các nước có nền y khoa tiên tiến, cũng là điều 
không dễ. Cần có thêm nhiều nghiên cứu ngẫu 
nhiên, có đối chứng để có thêm bằng cứ thuyết 
phục.  Vì  vậy,  chúng  tôi  thực  hiện  nghiên  cứu 
này với giả định là tử vong và biến chứng của 
cắt  nối  đại  tràng  chương  trình  không  CBĐT 
(KCBĐT) không cao hơn so với có CBĐT trước 
mổ.   

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây là nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có 
đối chứng ngẫu nhiên, thực hiện tại Bệnh viện 
Nhân  Dân  Gia  Định,  từ  tháng  12/2009  đến 
tháng 6/2013.  
Đối  tượng  nghiên  cứu  là  tất  cả  các  trường 
hợp  (t.h)  ung  thư  ĐT  còn  chỉ  định  cắt  nối  ĐT 
chương  trình  để  điều  trị.  Đánh  giá  có  chỉ  định 
này hay không là do hội chẩn duyệt mổ ở khoa 
Ngoại Tiêu hóa dựa trên lâm sàng, hình ảnh và 
xét nghiệm cận lâm sàng trước mổ. 


Tiêu chuẩn loại trừ 
‐  Bệnh nhân được phẫu thuật cắt nối ở trực 
tràng. 
‐  Bệnh nhân được cắt nối ĐT chương trình 
có mở thông hồi tràng hay ĐT bảo vệ. 
‐  Suy giảm miễn dịch, xơ gan, ASA > 3. 
‐ Cần nội soi ĐT đánh dấu tổn thương ngay 

Nghiên cứu Y học
trước hay trong mổ. 
‐ Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên 
cứu.  
‐  Bệnh  nhân  không  được  thực  hiện  đúng 
phác đồ CBĐT hay KCBĐT. 
Sau khi đã có chỉ định mổ, bệnh nhân được 
bóc  thăm  chia  thành  2  nhóm:  CBĐT  và 
KCBĐT.  Chuẩn  bị  trước  mổ  ở  2  nhóm  như 
nhau trừ phần CBĐT.  
Nhóm KCBĐT: bệnh nhân được hướng dẫn 
ăn  chế  độ  ít  bã  cho  đến  bữa  ăn  chót  vào  chiều 
hôm  trước  mổ.  Không  dùng  thuốc  xổ,  thuốc 
nhuận trường, hay ngược lại, thuốc gây bón.  
Nhóm CBĐT: bệnh nhân cũng  được  hướng 
dẫn chế độ ăn ít bã, sáng và trưa ngày trước mổ 
chỉ uống sữa, chiều tối ngày trước mổ chỉ uống 
nước đường. Về chuẩn bị ruột: 
‐  Nếu  nguyên  nhân  đã  gây  hẹp  lòng  ruột 
nhiều (ống soi không qua được) thì thụt tháo 2 
lần/ngày (sáng và tối) trong 3 ngày trước mổ và 
sáng sớm ngày mổ. 

‐  Nếu  nguyên  nhân  chưa  gây  hẹp  đáng  kể 
lòng ruột (ống soi qua được) thì cho uống hoặc 
là  PEG (Fortrans) 4 gói, mỗi gói pha 1 lít nước;  
hoặc  là    90ml  (2  hộp)  phosphosoda  (Fleet)  kèm 
khoảng 2 lít nước vào đêm trước mổ (12‐16 giờ 
trước mổ). Sau khi uống, dặn bệnh nhân đi cầu 
cho đến khi hết còn cảm giác mắc đi cầu.   
Tất  cả  các  t.h  đều  được  mổ  nội  soi  hay  mổ 
mở  để  cắt  nối  ĐT.  Các  bước  chính  của  phẫu 
thuật gồm: 
‐  Che  phủ  vết  mổ  kỹ  lưỡng,  thám  sát  đánh 
giá tình trạng ổ bụng và thương tổn. 
‐  Giải  phóng  đoạn  ĐT  và  mạc  treo  ĐT  
định cắt. 
‐ Cắt 2 đầu ĐT, lau lòng hai đầu ĐT với gạc 
tẩm Betadine. 
‐  Nối  ĐT  tận‐tận  2  lớp.  Lớp  trong  bằng  chỉ 
tan  Vicryl  hay  Monosyn  3‐0,  mũi  liên  tục;  lớp 
ngoài bằng chỉ Silk 3‐0, mũi rời. 
Kháng sinh dùng ngay trước mổ và kéo dài 
đến  24  giờ  cho  mọi  bệnh  nhân.  Tiếp  tục  kháng 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

151


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 

sinh  sau  mổ  hay  không  và  bao  lâu  là  do  phẫu 
thuật  viên  quyết  định  tùy  theo  diễn  biến  trong 
và sau mổ.  
Số  liệu  được  thu  thập  theo  một  biểu  mẫu 
thống  nhất  để  đánh  giá.  Kết  cục  chính  của 
nghiên cứu là tử vong và biến chứng liên quan 
đến miệng nối (xì miệng nối, rò miệng nối, áp 
xe  quanh  miệng  nối),  nhiễm  khuẩn  vùng  mổ 
(nhiễm  khuẩn  vết  mổ,  áp  xe  trong  ổ  bụng 
không  liên  quan  đến  miệng  nối).  Tử  vong 
được tính trong 30 ngày sau mổ. Riêng về các 
biến chứng sớm sau mổ, chúng tôi sử dụng các 
định nghĩa sau: 
‐   Nhiễm khuẩn vết mổ là t.h vết mổ có thoát 
dịch bẩn hay mủ, cấy dịch xác định có vi khuẩn. 
‐   Xì miệng nối  được  chia  làm  2  mức  độ.  Xì 
lớn  (major  leakage)  là  t.h  miệng  nối  bị  bục  1 
phần  hay  toàn  bộ  gây  viêm  phúc  mạc  toàn  thể 
hay  khu  trú.  Xì  nhỏ  (minor  leakage)  hay  rò 
miệng nối là t.h có dịch phân thoát ra ngoài qua 
ống  dẫn  lưu,  chân  ống  dẫn  lưu  hay  vết  mổ 
nhưng không có dấu hiệu viêm phúc mạc toàn 
thể hay khu trú. 
‐   Áp xe hay tụ dịch ổ bụng được xác định khi 
chụp CT  bụng  kiểm  tra  có  tụ  dịch;  kết  hợp  với 
sốt,  tăng  bạch  cầu  và  cần  phải  điều  trị  bằng 
kháng sinh, chọc hút hay mổ lại.  
Trong  nghiên  cứu,  chúng  tôi  sử  dụng  các 
phép kiểm thống kê: X2, Fisher, t  tùy biến số cần 
kiểm định. Khác biệt gọi là có ý nghĩa thống kê 

khi p < 0,05. 
Đề  tài  nghiên  cứu  đã  được  Hội  đồng  Khoa 
học và Hội đồng Y đức bệnh viện Nhân dân Gia 
định  chấp  nhận  và  sau  đó  được  Sở  Y  tế  thành 
phố Hồ Chí Minh phê duyệt ngày 22/4/2010, mã 
số:  CS/GĐ/10/16.  

KẾT QUẢ 
Trong thời gian nghiên cứu có 87 t.h thỏa các 
tiêu chuẩn chọn bệnh, gồm có 44 nam và 43 nữ. 
Tuổi trung bình là 58,7 ± 12,6t (30‐85t). 
Nhóm  CBĐT  có  50  bệnh  nhân.  Nhóm 
KCBĐT có 37 bệnh nhân.   
Phân bố vị trí ung thư đại tràng ở 2 nhóm 

152

như trên bảng 1. Theo đó, tần suất ung thư ĐT 
phải  và  trái  ở  2  nhóm  CBĐT  và  KCBĐT  gần 
như nhau.  
Nhóm  CBĐT  có  60%  được  mổ  nội  soi,  40% 
được mổ mở. Nhóm KCBĐT có 67,6% được mổ 
nội soi và 32,4% được mổ mở. Khác biệt không 
có ý nghĩa. 
Bảng 1.Vị trí ung thư và ngả thực hiện phẫu thuật 
Vị trí
Ngả
PT

ĐT phải

ĐT trái
Nội soi
Mở

CBĐT (%)
27 (54)
23 (46)
30 (60)
20 (40)

KCBĐT (%)
19 (51,4)
18 (48,6)
25 (67,6)
12 (32,4)

p
0,807
0,469

Về  đặc  điểm  bệnh  nhân,  tuổi  trung  bình 
trong  nhóm  CBĐT  trẻ  hơn  nhóm  KCBĐT 
khoảng 4 tuổi (57 so với 61 tuổi) nhưng khác biệt 
chưa có ý nghĩa. Cũng vậy, khác biệt về phân bố 
giới  tính  bệnh  nhân  ở  2  nhóm  cũng  chưa  có  ý 
nghĩa thống kê (bảng 2). 
Ở nhóm CBĐT, 78% bệnh nhân có ASA ≤ 2, 
trong khi tần suất bệnh nhân có ASA ≤ 2 ở nhóm 
KCBĐT là 89,2%. Tuy vậy, khác biệt về phân loại 
ASA  trước  mổ  giữa  2  nhóm  chưa  có  ý  nghĩa 

thống kê. 
 Một số đặc điểm cận lâm sàng liên quan đến 
lành  miệng  nối  như  dung  tích  hồng  cầu,  nồng 
độ albumin/máu cũng được liệt kê trên bảng 2. 
Theo  đó,  albumin/máu  trung  bình  của  bệnh 
nhân 2 nhóm đều ở mức bình thường, khác biệt 
về  tần  suất  giảm  Hct  <  30%  chưa  có  ý  nghĩa 
(26% so với 35,1%). 
Bảng 2. Một số đặc điểm của 2 nhóm bệnh nhân 
Đặc điểm
Tuổi TB(năm)
Giới: Nam
Nữ

CBĐT(%)
57 ±12
24 (48)
26 (52)

KCBĐT(%)
60,8 ± 13
20 (54,1)
17 (45,9)

p
0,16
0,57

1
2

3
Hct: < 30%
≥ 30%

3 (6)
36 (72)
11 (22)
13 (26)
37 (74)

1 (2,7)
32 (86,5)
4 (10,8)
13 (35,1)
24 (64,9)

0,27

Alb/máu TB(g/l)

38,9 ± 5,4

37,7 ± 6,6

0,548

ASA(*)
:

0,35


(*): Phân loại trước mổ theo Hội Gây mê Hoa kỳ  
(American Society of Anesthesiologists) 

Nhóm  CBĐT  có  12/50  (24%)  bệnh  nhân 
được  chuẩn  bị  bằng  thụt  tháo,  16/50  (32%) 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 

Nghiên cứu Y học

bệnh nhân được chuẩn bị bằng uống Fortrans 
và 22/50 (44%) bệnh nhân được chuẩn bị bằng 
uống Fleet Soda. 

viện ngày 10 sau mổ lần 2. Trường hợp tụ dịch 
bụng  sau  mổ  được  điều  trị  nội,  xuất  viện  sau 
mổ 13 ngày. 

Bảng 3. Phương pháp cắt ĐT, thời gian mổ và kết 
quả sớm sau mổ 

Như  vậy,  có  2  t.h  phải  mổ  lại  và  đều  ở 
nhóm  CBĐT.  Không  có  t.h  nào  tử  vong  trong 
nghiên cứu. 

PP mổ:

Cắt ĐT (P)
Cắt ĐT (T)
Cắt ĐT chậu hông
Cắt ĐT ngang
Thời gian mổ TB(ph)
Biến chứng:
Xì miệng nối
NT vết mổ
Tụ dịch ổ bụng
Tắc ruột sớm
Không biến chứng
Mổ lại
Tử vong
Nằm viện sau mổ(ng)

CBĐT(%)

KCBĐT(%)

26 (52)
10 (20)
12 (24)
2 (4)
166 ±32
6 (12)
2 (4)
3 (6)
0
1 (2)
44 (88)

2 (4)
0
8,4±3,0

18 (48,7)
3 (8,1)
13 (35,1)
3 (8,1)
172 ± 34
4 (10,8)
0
3 (8,1)
1 (2,7)
0
33 (89,2)
0
0
8,3 ± 2,7

p
0,308

0,378

0,863

0,862

Ở  nhóm  CBĐT,  56%  được  cắt  ĐT  phải  hay 
ĐT  ngang  trong  khi  44%  được  cắt  ĐT  trái  hay 

ĐT chậu hông. Ở nhóm KCBĐT, 56,8% được cắt 
ĐT phải hay ĐT ngang trong khi 43,2% được cắt 
ĐT trái hay ĐT chậu hông. Khác biệt chưa có ý 
nghĩa thống kê (bảng 3). 
Thời gian mổ trung bình giữa 2 nhóm chưa 
khác biệt (p = 0,378). 
Sau  mổ,  biến  chứng  xảy  ra  ở  12%  trong 
nhóm  CBĐT  và  10,8%  trong  nhóm  KCBĐT. 
Khác biệt về tần suất biến chứng sau mổ chưa có 
ý nghĩa (p = 0,863). Có 2 t.h xì miệng nối chỉ xảy 
ra ở nhóm CBĐT (4%). Nhiễm khuẩn vết mổ xảy 
ra ở 6% trong nhóm CBĐT và 8,1% trong nhóm 
KCBĐT. Nhóm CBĐT có 1 t.h (2%) tắc ruột sớm 
sau mổ, trong khi tụ dịch ổ bụng sau mổ xảy ra 
ở 1 t.h (2,7%) ở nhóm KCBĐT.  
Cả 2 t.h xì miệng nối đều xảy ra vào ngày 8 
sau mổ. Một t.h phải mổ lại khâu lại miệng nối 
và dẫn lưu ổ bụng, ổn định và xuất viện ngày 9 
sau mổ lần 2. Một t.h diễn tiến thành rò, điều trị 
bảo  tồn  thành  công,  không  phải  mổ  lại,  xuất 
viện sau mổ 10 ngày. 
Trường  hợp  tắc  ruột  sau  mổ  xảy  ra  vào 
ngày 6 sau mổ, phải mổ lại gỡ dính ruột, xuất 

BÀN LUẬN  
CBĐT trước mổ từng  được  xem  như  chuẩn 
mực, không thể thiếu trong phẫu thuật đại trực 
tràng chương trình suốt hơn một thế kỷ. Người 
ta tin rằng, làm sạch phân trong lòng ruột sẽ làm 
giảm  vi  khuẩn,  và  vì  thế,  giảm  nguy  cơ  nhiễm 

khuẩn vùng mổ hay xì miệng nối ĐT. Tuy vậy, 
trên thực tế, suy diễn này bị nhiều tác giả cho là 
chỉ  dựa  trên  lý  thuyết,  trên  kinh  nghiệm  lâm 
sàng hay ý kiến chuyên gia mà không có nhiều 
chứng cứ thuyết phục từ những nghiên  cứu  có 
đối chứng ngẫu nhiên (RCTs)(3 4,5,11,14). 
Từ năm 1972, Hughes(8)  đã tỏ ý nghi ngờ về 
vai trò của CBĐT trước mổ; và bằng nghiên cứu 
có  đối  chứng  của  mình,  tác  giả  đã  kết  luận 
CBĐT kỹ lưỡng trước mổ là không cần thiết. Từ 
đó  đến  nay,  đã  có  nhiều  nghiên  cứu  cung  cấp 
bằng  chứng  ở  mức  độ  I  (level‐I  evidence)  rằng 
CBĐT không làm giảm các biến chứng sau mổ, 
bao gồm cả xì miệng nối (2,3,4,5,6,7,12,13,14,15,16,17,18).  
Thực  nghiệm  của  Okada  và  cộng  sự  (1999) 
đã  chứng  minh  rằng,  ở  ngày  thứ  7  sau  mổ,  
miệng nối trên ĐT được chuẩn bị sạch chịu được 
áp  lực  gây  bục  thấp  hơn  miệng  nối  trên  ĐT 
không  chuẩn  bị(10).  Nghiên  cứu  của  Bucher  và 
cộng  sự  (2005)(1)    cho  thấy  CBĐT  gây  ra  những 
thay đổi về hình thái (mất chất nhày, mất tế bào 
biểu  mô,  phù  lớp  đệm,  thâm  nhập  tế  bào 
lympho  và  bạch  cầu  đa  nhân  trung  tính)  nhiều 
hơn đáng kể so với KCBĐT; và việc này có thể 
ảnh hưởng xấu đến sự lành miệng nối.  
Các  phân  tích  gộp  của  Slim  năm  2004  (dựa 
trên 7 RCTs, 1454 bệnh nhân)(15), của Bucher năm 
2005  (dựa  trên  7  RCTs,  1297  bệnh  nhân)(2),  của 
Wille‐Jorgensen  năm  2005  (dựa  trên  9  RCTs, 
1592  bệnh  nhân)(16)  cho  thấy  xuất  độ  xì  miệng 

nối  trong  nhóm  có  CBĐT  cao  hơn  có  ý  nghĩa 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

153


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
thống  kê  so  với  nhóm  KCBĐT.  Trong  khi  đó, 
phần  lớn  các  nghiên  cứu  có  đối  chứng  và  các 
phân tích gộp gần đây chứng minh xuất độ biến 
chứng  xì  miệng  nối  và  nhiễm  khuẩn  vùng  mổ 
của  2  nhóm  CBĐT  và  KCBĐT  không  khác  biệt 
có ý nghĩa (bảng 4). 
Ở một khía cạnh khác, Jung(9) đã nghiên cứu 
chi  tiết  về  phản  hồi  của  bệnh  nhân  phẫu  thuật 
ĐT  được  CBĐT  hay  KCBĐT  trước  mổ.  Tác  giả 
kết luận CBĐT gây khó chịu cho bệnh nhân và 
làm  chậm  quá  trình  trở  lại  hoạt  động  bình 
thường của ruột sau mổ so với KCBĐT. 
Phân  nhóm  ngẫu  nhiên  trong  nghiên  cứu 
của chúng tôi cho thấy 2 nhóm bệnh nhân CBĐT 
và KCBĐT không có khác biệt về các đặc điểm: 
tuổi  trung  bình,  phân  bố  giới  tính,  phân  loại 
ASA trước mổ, vị trí thương tổn, dung tích hồng 
cầu và nồng độ albumin/ máu trung bình, phân 
bố tỉ lệ các loại cắt nối ĐT. Tất cả 87 bệnh nhân 
đều có nguyên nhân là ung thư đại tràng. Như 

vậy, 2 nhóm bệnh nhân tương đồng nhau để so 
sánh biến chứng sau mổ.  
Nhiều tác giả đưa vào nghiên cứu cả nhóm 
bệnh  nhân  được  phẫu  thuật  cắt  nối  ở  trực 
tràng(3,6,14). Do nguy cơ xì miệng nối ở trực tràng 
là  cao  nhất  cho  dù  có  hay  không  CBĐT,  nên  ở 
nghiên  cứu  bước  đầu  này,  chúng  tôi  tạm  chưa 
chọn  các  bệnh  nhân  phẫu  thuật  trên  trực  tràng 
vào nghiên cứu. 
Số liệu nghiên cứu của chúng tôi cho thấy xì 
miệng  nối  xảy  ra  ở  4%  bệnh  nhân  trong  nhóm 
CBĐT và không có bệnh nhân nào trong nhóm 
KCBĐT. Theo các tác giả khác, tần suất xì miệng 
nối  ở  nhóm  CBĐT  thay  đổi  từ  0,6  đến  7,1%, 
thường vào khoảng 4‐5%; tần suất xì miệng nối 
trong  nhóm  KCBĐT  thay  đổi  từ  1,2  đến  5,4%; 
khác biệt không có ý nghĩa. Khác biệt về tỉ lệ xì 
miệng nối ở nhóm KCBĐT của chúng tôi (0%) so 
với các tác giả khác có lẽ vì mẫu nghiên cứu của 
chúng tôi còn nhỏ.   
Một trong những lo ngại được một số tác giả 
nêu  ra  là  xì  miệng  nối  xảy  ra  trên  bệnh  nhân 
KCBĐT  sẽ  nặng  hơn  xì  miệng  nối  trên  bệnh 
nhân  có  CBĐT  trước  mổ.  Chúng  tôi  chưa  có 

154

bệnh  nhân  KCBĐT  bị  xì  miệng  nối  để  so  sánh 
bệnh  cảnh  và  kết  cuộc.  Tuy  nhiên,  nghiên  cứu 
của  Gubler  (2012)(6)  so  sánh  bệnh  cảnh  và  kết 

quả điều trị 26 t.h xì miệng nối ở nhóm 367 bệnh 
nhân CBĐT với 17 t.h xì miệng nối ở nhóm 367 
bệnh nhân KCBĐT sau cắt đại‐trực tràng nội soi 
cho thấy không có khác biệt về độ nặng, tỉ lệ tử 
vong và số ngày nằm viện sau mổ. 
Bảng 4. Tần suất biến chứng sau mổ theo các tác giả 
Tác giả

Số BN
CB/KCB

Ram
(2005)(13)

164/165

0,6/1,2

9,8/6,1

0,6/0,6

Zmora
(2006)(18)

120/129

4,2/2,3

6,6/10,0


1,6/0,7

Contant
(2007)(3)

670/684

4,8/5,4

13,4/14,0

2,2/4,7

Pineda
2304/2297
(2008)(12)

4,2/3,5

9,9/8,8

-

Gravante
2381/2369
(2008)(5)

4,1/3,4


9,6/8,7

1,8/2,5

Scabini
(2010)(14)

120/124

5,8/4,0

9,2/4,8

5,0/2,4

Gubler
(2012)(6)

367/367

7,1/4,6

-

-

4,4/4,5

9,6/8,5


-

Guenaga
2275/2258
(2012)(7)

Xì MN (%) NTVM(%) AXOB(%)
CB/KCB CB/KCB CB/KCB

AXOB: Áp xe ổ bụng, CB: Chuẩn bị đại tràng, KCB: 
Không chuẩn bị đại tràng 

Xuất  độ  nhiễm  khuẩn  vết  mổ  giữa  2  nhóm 
CBĐT  và  KCBĐT  trong  nghiên  cứu  của  chúng 
tôi chưa có khác biệt (6% so với 8,1%). Theo các 
tác  giả  khác,  xuất  độ  nhiễm  khuẩn  vết  mổ  ở 
nhóm CBĐT là 6,6‐13,5%, ở nhóm KCBĐT là 4,8‐
14%,  không  khác  biệt  có  ý  nghĩa.  Như  vậy, 
KCBĐT  không  làm  tăng  biến  chứng  nhiễm 
khuẩn vết mổ.  
Xuất độ áp xe trong ổ  bụng  sau  mổ  cắt  nối 
ĐT chương trình theo các tác giả khác cũng khá 
thấp (0,6‐5%) và không có khác biệt giữa 2 nhóm 
CBĐT  và  KCBĐT.  Chúng  tôi  chỉ  gặp  1  t.h  tụ 
dịch sau mổ ở nhóm KCBĐT, t.h này tụ dịch ít, 
đáp ứng điều trị nội, không cần mổ lại. 
Không  CBĐT  có  gây  trở  ngại  gì  cho  phẫu 
thuật nội soi cắt ĐT không, nhất là ở việc nhận 
định  những  tổn  thương  nhỏ,  chưa  ăn  lan  ra 


Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
thanh mạch. Trong nghiên cứu  của  chúng  tôi, 
60%  bệnh  nhân  nhóm  CBĐT  và  67,6%  bệnh 
nhân nhóm KCBĐT được cắt ĐT nội soi hỗ trợ. 
Chúng  tôi  không  đi  sâu  vào  phân  giai  đoạn 
bệnh,  nhưng  có  lẽ  vì  tất  cả  bệnh  nhân  đều  là 
ung  thư  ĐT  ở  giai  đoạn  không  còn  sớm;  mặt 
khác, vì chúng tôi đã loại trừ những bệnh nhân 
cần phối hợp nội soi đánh dấu tổn thương nên 
thật sự chúng tôi không gặp khó khăn khi mổ 
nội  soi  những  t.h  KCBĐT.  Tác  giả  Gubler(6) 
nghiên  cứu  trên  734  bệnh  nhân  cắt  đại  trực 
tràng  nội  soi  được  chia  đều  thành  2  nhóm 
CBĐT và KCBĐTT, cũng không ghi nhận khó 
khăn gì ở nhóm KCBĐT. Zmora và cộng sự(17), 
trong  một  nghiên  cứu  200  t.h  cắt  ĐT  nội  soi 
trong  đó  có  132  t.h  KCBĐT,  đã  nhận  định  là 
khó khăn trong việc định vị khối u qua nội soi 
có thể làm tỉ lệ chuyển mổ mở hơi tăng, nhưng 
khó  khăn  này  không  phải  thường  xuyên  gặp. 
Tác giả khuyên nên CBĐT cho những t.h khối 
u  nhỏ  và  không  sờ  thấy  được  vì  có  thể  phải 
phối hợp soi ĐT trong mổ.  
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình trong 
số  bệnh  nhân  của  chúng  tôi  là  khoảng  8  ngày, 
không khác biệt giữa 2 nhóm CBĐT và KCBĐT. 
Nghiên  cứu  của  Contant(3)  trên  670  bệnh  nhân 

CBĐT và 684 bệnh nhân KCBĐT cũng ghi nhận 
nằm viện trung bình là 10 ngày và không khác 
biệt giữa 2 nhóm. 
Dù có 12% bệnh nhân nhóm CBĐT và 10,8% 
bệnh nhân nhóm KCBĐT có biến chứng sau mổ, 
chúng tôi chưa có t.h nào tử vong, có lẽ vì mẫu 
còn  nhỏ.  Trong  phân  tích  gộp  của  Guenaga(7) 
(gồm  20  RCTs,  5805  bệnh  nhân),  tỉ  lệ  tử  vong 
của  nhóm  CBĐT  là  1,6%,  của  nhóm  KCBĐT  là 
1,8%, không khác biệt có ý nghĩa. 
Như  vậy,  nghiên  cứu  bước  đầu  của  chúng 
tôi  đã  chứng  tỏ  KCBĐT  không  làm  tăng  biến 
chứng sau mổ cắt ĐT chương trình, nhất là biến 
chứng  liên  quan  đến  miệng  nối.  Việc  này,  một 
lần nữa xác nhận ý kiến của một số tác giả rằng: 
miệng  nối  ĐT  lành  tốt  hay  không  tốt  có  lẽ  liên 
quan  đến  các  yếu  tố  khác  (dinh  dưỡng  chung, 
máu  nuôi  tại  chỗ,  sự  căng  của  miệng  nối,  kỹ 

Nghiên cứu Y học
thuật khâu nối) hơn là việc chuẩn bị hay không 
chuẩn bị ĐT.  
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  còn  có  những 
nhược điểm sau đây: 
‐ Cỡ mẫu còn nhỏ. Ước định cần có gấp đôi 
số bệnh nhân trong nghiên cứu. 
‐  Không  được  thiết  kế  theo  kiểu  mù.  Phẫu 
thuật  viên  có  thể  vẫn  biết  bệnh  nhân  nào  có 
CBĐT, bệnh nhân nào không CBĐT. 
‐ Dùng kháng sinh còn chưa đúng theo kiểu 

dự  phòng  một  liều  duy  nhất  ngay  trước  mổ. 
Việc dùng kháng sinh kéo dài quá 24 giờ sau mổ 
có thể can dự vào việc thu xếp các nhiễm khuẩn 
miệng nối hay nhiễm khuẩn vùng mổ nhẹ.  
‐ Chưa quan tâm đến mức độ khó chịu cũng 
như các tác dụng phụ của CBĐT trong so sánh. 

KẾT LUẬN 
Cắt đại tràng chương trình có thể thực hiện 
an  toàn  mà  không  nhất  thiết  phải  CBĐT  trước 
mổ. Không CBĐT không làm tăng biến chứng xì 
miệng  nối  và  nhiễm  khuẩn  vùng  mổ  so  với  có 
CBĐT.  
Cần có thêm nhiều nghiên cứu có đối chứng, 
ngẫu  nhiên,  với  số  bệnh  nhân  nhiều  hơn,  đa 
trung tâm, trước khi đi đến kết luận nên bỏ hay 
không nên bỏ CBĐT trước mổ.    

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.


Bucher  P,  Gervaz  P,  Egger  JF,  et  al  (2005).  “Morphologic 
alterations  associated  with  mechanical  bowel  preparation 
before elective colorectal surgery: a randomized trial”. Dis colon 
Rectum; 49: 109‐112. 
Bucher  P,  Gervaz  P,  Soravia  C,  et  al  (2005).  “Randomized 
clinical  trial  of  mechanical  bowel  preparation  versus  no 
preparation before elective left‐sided colorectal surgery”. Brit J 
Surg; 92: 409‐414. 
Contant  CME,  Hop  WCJ,  van’t  Sant  HP,  et  al  (2007). 
“Mechanical bowel preparation for elective colorectal surgery: a 
multicentre randomized trial”. Lancet; 370: 2112‐2117. 
Eskicioglu C, Forbes SS, Fenech DS, et al (2010). “Preoperative 
bowel  preparation  for  patients  undergoing  elective  colorectal 
surgery: a clinical practice guideline endorsed by the Canadian 
Society of Colon and Rectal Surgeons. Can J Surg; 53: 385‐395. 
Gravante G, Caruso R, Andreani SM, et al (2008). “Mechanical 
bowel  preparation  for  colorectal  surgery:  a  meta‐analysis  on 
abdominal  and  systemic  complications  on  almost  5,000 
patients”. Int J Colorectal Dis; 23: 1145‐1150. 
Gubler  G,  Dincler  S,  Steurer  J,  et  al  (2012).  “Outcome  of 
anastomotic leakage after colorectal surgery in patients with or 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

155


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013


Nghiên cứu Y học 

7.

8.
9.

10.

11.

12.

13.

without  preoperative  mechanical  bowel  irrigation:  An 
observational study”. Surgical Science; 3: 105‐110. 
Guenaga KF, Matos D, Wille‐Jorgensen P (2012). “Preoperative 
mechanical bowel preparation in elective colorectal surgery. An 
update of systemic review of the literature and meta‐analysis”. J 
Coloproctol; 32: 7‐17. 
Hughes ESR (1972). “Asepsis in large bowel surgery”. Ann Roy 
Coll Surg Engl; 51: 347‐356. 
Jung  B,  Lannerstad  O,  Pahlman  L,  et  al  (2007).  “  Preoperative 
mechanical preparation of the colon: the patient’s experience”. 
BMC Surgery ; 7: 5. 
Okada  M,  Bothin  C,  Kanazawa  K,  et  al  (1999).  “Experimental 
study of the influence of intestinal flora on healing of intestinal 
anastomoses”. Brit J Surg; 86: 961‐965. 
Peppas  G,  Alexiou  VG,  Falagas  ME  (2008).  “Bowel  cleansing 

before bowel surgery: Major discordance between evidence and 
practice”. J Gastrointest Surg; 12: 919‐920. 
Pineda  CE,  Shelton  AA,  Hernandez‐Boussard  T,  et  al  (2008). 
“Mechanical  bowel  preparation  in  intestinal  surgery:  A  meta‐
analysis  and  review  of  the  literature”.  J  Gastrointest  Surg;  12: 
2037‐2044. 
Ram  E,  Sherman  y,  Weil  R,  et  al  (2005).  “Is  mechanical  bowel 
preparation mandatory for elective colon surgery?”. Arch Surg; 
 

156

140: 285‐288. 
14. Scabini S, Rimini E, Romairone E, et al (2010). “Colon and rectal 
surgery for cancer without mechanical bowel preparation: One‐
center  randomized  prospective  trial”.  World  J  Surg  Oncol;    8: 
35. 
15. Slim  K,  Vicaut  E,  Panis  Y,  et  al  (2004).  “Meta‐analysis  of 
randomized clinical trials of colorectal surgery with or without 
mechanical bowel preparation”. Brit J Surg; 91: 1125‐1130. 
16. Wille‐Jorgensen  P,  Guenaga  KF,  Matos  D,    et  al  (2005).  “Pre‐
operative mechanical bowel cleansing or not? an updated meta‐
analysis”. Colorectal Disease; 7: 304‐310. 
17. Zmora O, Lebedyev A, Hoffman A, et al (2006). “Laparoscopic 
colectomy  without  mechanical  bowel  preparation”.  Int  J 
Colorectal Dis; 21: 683‐687. 
18. Zmora O, Mahajna A, Bar‐Zakai B, et al (2006). “Is mechanical 
bowel  preparation  mandatory  for  left‐sided  colonic 
anastomosis?  Results  of  a  prospective  randomized  trial”.  Tech 
Coloproctol; 10: 131‐135. 

 

Ngày nhận bài báo: 15/8/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23/9/2013 
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2013 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  



×