Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Chẩn đoán trước sinh bệnh di truyền cho thai ở 27 cặp vợ chồng mang gen thalassemia tại Bệnh viện Phụ sản Mê Kông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.46 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

CHẨN ĐOÁN TRƯỚC SINH BỆNH DI TRUYỀN CHO THAI 
 Ở 27 CẶP VỢ CHỒNG MANG GEN THALASSEMIA  
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN MÊ KÔNG 
Nguyễn Thị Thanh Hà*, Lê Thị Phương Uyên* 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Thalassemia là bệnh thiếu máu tán huyết di truyền thường gặp và có tỉ lệ khá cao tại Việt Nam. 
Việc điều trị khó khăn, chi phí cao và kém hiệu quả khiến Thalassemia trở thành một gánh nặng cho bệnh nhân, 
gia đình và toàn xã hội. Vì vậy, sàng lọc người mang gen, tham vấn di truyền và chẩn đoán trước sinh là biện 
pháp kiểm soát bệnh và làm giảm tỉ lệ thalasemia có hiệu quả nhất. 
Mục  tiêu: 1. Phát hiện các trường hợp thai bệnh thể nặng để tư vấn trước sinh. 2. Xác định tỉ lệ các đột 
biến gen thường gặp. 3. Mô tả đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm huyết học của người mang gen. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 27 thai với tuổi thai từ 15,5 ‐ 23 tuần của 27 cặp vợ chồng mang 
gen thalassemia phát hiện qua chương trình sàng lọc tại Bệnh viện Phụ sản Mê Kông được chọc ối tìm đột biến 
gen globin từ 01/08/2012 đến 31/05/2013. 
Kết quả: Phát hiện 1 thai có tiên lượng bệnh thể nặng: dị hợp tử kép 2 đột biến β⁺/ β⁰. 16 thai mang gen dị 
hợp tử. Đột biến α nhiều hơn đột biến β 1,5 lần ở cặp vợ chồng và như nhau ở thai, SEA và HbE là hai đột biến 
thường gặp nhất. Tất cả cặp vợ chồng là người mang gen dị hợp tử và không có biểu hiện lâm sàng. 40,74% thai 
phụ và 7,4% chồng thiếu máu trên huyết đồ. 92,6% có MCV < 80 fl và/hoặc MCH < 27 pg. 
Kết luận: Chẩn đoán trước sinh bệnh thalassemia là phương pháp phòng ngừa hiệu quả và giúp nâng cao 
chất lượng dân số. 
Từ khóa: chẩn đoán trước sinh, thalassemia, di truyền, người mang gen 

ABSTRACT 
PRENATAL DIAGNOSIS OF THALASSEMIA IN 27 PREGNANCIES  
WITH THALASSEMIA CARRIER PARENTS AT MEKONG O&G HOSPITAL 
Nguyen Thi Thanh Ha, Le Thi Phuong Uyen 


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 126 ‐ 131 
Background:  Thalassemia  is  a  common  inherited  haemolytic  anaemic  condition,  with  high  incidence  in 
VietNam. The management of the condition is difficult, expensive, with limited efficacy, making Thalassemia a 
large  burden  for  the  patients,  their  family  and  the  society  in  general.  As  a  result,  screening  for  Thalassemia 
carriers,  genetic  consultation  and  prenatal  diagnosis  is  a  disease‐controlling  strategy  in  order  to  reduce 
Thalassemia rates, and has been proven to be the most efficacious approach.  
Aim:  1.  To  detect  severe  fetal  cases  for  prenatal  consultation;  2.  To  identify  rates  of  common  genetic 
mutations; 3. To describe clinical characteristics and haematological laboratory values of Thalassemia carriers. 
Study subjects and method: 27 pregnancies with gestational ages within 15.5‐23 weeks of 27 couples who 
were identified as Thalassemia carriers through the screening program conducted in the MeKong O&G hospital 
by prenatal diagnostic amniocentesis to detect globin mutations from 01/08/2012 to 31/05/2013.  

* Bộ môn Sản Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh  ** Bệnh viện Phụ Sản Mê Kông 
Tác giả liên lạc: Lê Thị Phương Uyên 
ĐT: 0945886006 
E‐mail: 

126

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

Results: We identify one fetal Thalassemia case with severe prognostic pattern: combined heterogenous 
mutations with β⁺/ β⁰. 16 fetal cases are identified with heterogenous mutations. Mutations in the α‐genes 
occurred 1.5 times more often than those in the β‐genes in the couples studied, and similar mutation rates 
identified within the fetuses. SEA and HbE are the two most common mutations in this study. All couples 

are heterogeneous carriers with no clinical manifestations. 40.74% of the pregnant mothers and 7.4% of the 
husbands have anaemia identified through full blood count results. 92.6% of all couples have MCV < 80 fl 
and/or MCH < 27 pg.  
Conclusions:  Prenatal  diagnosis  of  Thalassemia  is  an  effective  preventive  strategy  in  order  to  improve 
quality of the population.  
Key words: Prenatal diagnosis, Thalassemia, Inheritance, Gene carriers.  
thalassemia,  chẩn  đoán  trước  sinh  các  trường 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
hợp  thai  có  nguy  cơ  bị  bệnh  thalassemia  thể 
Thalassemia là một nhóm bệnh lý huyết học 
nặng và tư vấn hướng xử trí. 
di truyền gây ra bởi sự khiếm khuyết trong tổng 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
hợp chuỗi globin, dẫn đến tán huyết và tạo hồng 
cầu  không  hiệu  quả  tại  tủy  xương.  Nhiều  thể 
Trong thời gian từ tháng 08/2012 đến tháng 
bệnh  thalassemia  đã  được  mô  tả,  thường  gặp 
05/2013,  chúng  tôi  thực  hiện  nghiên  cứu  hàng 
nhất  là  α  và  β  thalassemia.  Bệnh  tìm  thấy  trên 
loạt ca tiến cứu trên 27 cặp vợ chồng mang gen 
hơn  60  quốc  gia,  khoảng  7%  dân  số  thế  giới 
thalassemia  thể  dị  hợp  tử  khám  thai  tại  Bệnh 
mang  gen  bệnh  và  chiếm  khoảng  4,4/10.000  trẻ 
viện Phụ sản Mê Kông. 
(1,9)
sinh  sống .  Việt  Nam  có  khoảng  hơn  5  triệu 
Thu thập số liệu 
người mang gen bệnh, khoảng hơn 20.000 bệnh 
Thai  phụ  được  tư  vấn  làm  bộ  xét  nghiệm 
nhân  cần  điều  trị  và  mỗi  năm  có  khoảng  2.000 

khám 
thai  cơ  bản  (trong  đó  có  huyết  đồ  và 
trẻ sinh ra bị bệnh(2). 
Ferritin  huyết  thanh)  ngay  trong  3  tháng  đầu 
Người mang gen thalassemia thường không 
hoặc trong lần khám đầu tiên.  
có biểu hiện triệu chứng và không cần điều trị. 
Khi  kết  quả  MCV  <  80  fl  và/hoặc 
Tuy  nhiên,  những  người  này  có  50%  khả  năng 
MCH<27pg và Ferritin huyết thanh ≥ 12 ng/ml, 
truyền gen bệnh cho con. Nếu cả cha và mẹ đều 
thai  phụ  sẽ  được  tư  vấn  làm  xét  nghiệm  điện 
mang gen bệnh thì 25% trường hợp con sinh ra 
di Hb cùng với sàng lọc bệnh thalassemia cho 
bị  bệnh  thalassemia  thể  nặng.  Điều  trị  bệnh 
chồng thai phụ.  
thalassemia  là  một  việc  khó  khăn  và  tốn  kém. 
Nếu  cặp  vợ  chồng  đều  là  người  mang  gen 
Phòng bệnh là chiến lược giải quyết cho vấn điến ‐‐SEA là đột biến thường gặp nhất 
trong  số  các  đột  biến  phát  hiện  được  ở  thai 
(37,5%).  
‐ Alen gây α thalassemia thường gặp nhất 
là: ‐‐SEA. 

Sản Phụ Khoa

‐ Alen gây  β  thalassemia  thường  gặp  nhất 
là: HbE. 
Có 5 trường hợp mang gen đột biến dị hợp 
tử kép:  

‐ 1 trường hợp dị hợp tử kép mất 2 gen α (‐
α3.7/‐α4.2). 
‐  1  trường  hợp  dị  hợp  tử  kép  β0/β+ 
thalassemia (‐28AG và cd41/42=TCTT). 
‐ 2 trường hợp dị hợp tử α và β thalassemia. 
‐ 1 trường hợp dị hợp tử β thalassemia/HbE. 
Trường hợp dị hợp tử kép 2 đột biến β0/β+ có 
tiên lượng thể hiện kiểu hình bệnh thể nặng. 

BÀN LUẬN 
Chúng  tôi  chọn  thiết  kế  nghiên  cứu  mô  tả 
hàng loạt ca tiến cứu là thiết kế phù hợp để khảo 

129


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

sát thai kỳ có nguy cơ bị bệnh nặng của từng cặp 
vợ  chồng  mang  gen  dị  hợp  tử.  Các  xét  nghiệm 
huyết học để sàng lọc người mang gen là các xét 
nghiệm phổ biến, diễn giải tương đối  đơn  giản 
phù hợp với nhân viên y tế không thuộc chuyên 
ngành huyết học. Các xét nghiệm sinh học phân 
tử để chẩn đoán trước sinh đã được áp dụng và 
chứng minh có giá trị cao tại bệnh viện Từ Dũ, 
bệnh viện Nhi Trung ương…  


hợp  với  kết  quả  xét  nghiệm  sinh  học  phân  tử 
là đột biến gen α globin. Trong sàng lọc  bệnh 
thalassemia,  khi  kết  quả  điện  di  Hb  không  có 
bất thường thì cũng không loại trừ chẩn đoán 
vì  các  thành  phần  Hb  không  thay  đổi  trong 
bệnh  α  thalassemia.Trong  mẫu  nghiên  cứu  có 
3 trường hợp α thalassemia có kết quả điện di 
bất  thường  là  do  α  thalassemia  kết  hợp  với 
bệnh HbE dị hợp tử. 

Đối tượng trong mẫu nghiên cứu đa phần 
là nhóm lao động trí thức có trình độ văn hóa 
cao,  có  nhiều  cơ  hội  tiếp  cận  thông  tin.  Tuy 
nhiên,  phần  đông  không  biết  trước  về  bệnh 
thalassemia  cũng  như  không  biết  bản  thân  và 
chồng  là  người  mang  gen,  có  khả  năng  di 
truyền  bệnh  cho  con.  Điều  này  phản  ánh  đa 
phần  người  dân  chưa  tiếp  cận  được  chương 
trình  tuyên  truyền  phòng  ngừa  bệnh 
thalassemia.  Chỉ  khi  người  mang  gen  được 
thăm khám tại các cơ sở được trang bị đầy đủ 
thiết bị‐ kỹ thuật có thể tầm soát và chẩn đoán 
bệnh  hoặc  đến  khi  sinh  ra  con  bệnh  thể  nặng 
thì  mới  biết  về  bệnh  thalassemia.  Tương  tự  2 
trường  hợp  trong  mẫu  nghiên  cứu:  1  trường 
hợp biết là người mang gen khi mang thai đến 
25  tuần  bị  phù  nhau  thai,  còn  1  trường  hợp 
phát hiện bệnh cho cha mẹ và con đầu sau khi 
con thứ 2 biểu hiện thiếu máu nặng. 


Trong mẫu nghiên cứu đối tượng là cặp vợ 
chồng,  chúng  tôi  phát  hiện  ra  57  alen  gồm  10 
loại đột biến gây thalassemia. Các đột biến gen α 
gấp 1,5 lần đột biến gen β, khác với trong nghiên 
cứu  của  tác  giả  Nguyễn  Khắc  Hân  Hoan  ghi 
nhận đột biến gen α gấp 2 lần đột biến gen β(6). 
Sự khác biệt này có thể do cỡ mẫu của chúng tôi 
nhỏ  trong  khi  nghiên  cứu  tại  bệnh  viện  Từ  Dũ 
có cỡ mẫu rất lớn (1500 alen). Tuy nhiên, tỉ lệ đột 
biến  gen  thường  gặp  nhất  trong  2  nghiên  cứu 
phù hợp với nhau: đột biến ‐‐SEA đối với gen α 
và đột biến codon 26 (HbE) đối với gen β, khác 
với ở miền Bắc Việt Nam, đột biến thường gặp 
nhất  trong  β  thalassemia  là  codon  17 
AAGTAG(3).  

Chỉ  số  hồng  cầu  nhỏ  nhược  sắc  trong  mẫu 
nghiên  cứu  giúp  phát  hiện  được  92,6%  người 
mang  gen.  Trong  một  báo  cáo  của  tác  giả 
Nguyễn Khắc Hân Hoan năm 2012 về giá trị của 
MCH  và  MCV  trong  tầm  soát  trước  sinh  cho 
thấy: tỉ lệ phát hiện của MCH là 95,6% cao hơn 
so  với  MCV  (88,9%),  kết  hợp  MCH  và/hoặc 
MCV  cho  tỉ  lệ  phát  hiện  cao  hơn:  96,4%(6).  Việc 
bỏ sót người mang gen bệnh do không ghi nhận 
chỉ số MCV, MCH thấp có thể do đột biến gen 
nhẹ gây bệnh thể ẩn hoặc có thể do hiện tượng 
MCV, MCH trong khi mang thai hơi tăng hơn so 
với lúc chưa mang thai và trong tam cá nguyệt 2 
tăng hơn so với các giai đoạn khác của thai kỳ(8). 

Tỉ lệ kết quả điện di Hb bình thường nhiều 
hơn so với kết quả điện di bất thường và phù 

130

Về các alen β thalassemia, một nghiên cứu 
của  Svasti  năm  2002  trên  quần  thể  người  Việt 
Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tìm thấy 
95%  bệnh  β  thalassemia  là  do  8  loại  đột  biến 
gây  ra  tương  tự  như  nghiên  cứu  của  Nguyễn 
Khắc  Hân  Hoan:  98,2%(6,7).  Nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  phát  hiện  ra  6  loại  đột  biến  gen, 
trong đó có 4 loại phù hợp vói 2 tác giả trên và 
2 loại đột biến khác. Chúng tôi chỉ phát hiện ra 
4  trong  số  8  loại  đột  biến  thường  gặp  đó 
nhưng  4  đột  biến  này  cũng  chiếm  đến  91,3% 
các  alen  β  thalassemia.  Trong  nghiên  cứu  của 
Svasti  và  cs,  HbE  gặp  trong  hơn  60%  các 
trường  hợp  dị  hợp  tử  kép  cùng  với  đột  biến 
gen  β  globin  nhưng  không  được  tính  vào  các 
loại đột biến gen β thalassemia như của chúng 
tôi và các tác giả còn lại.  
Về các alen α thalassemia, 4 loại đột biến: ‐‐
SEA,  ‐α3.7,  ‐α4.2  và  αCS  chiếm  100%  trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  đây  là  các  đột  biến 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

thường  gặp  tại  Việt  Nam,  phù  hợp  với  tác  giả 
Nguyễn  Khắc  Hân  Hoan  (98,7%)  và  Ngô  Diễm 
Ngọc (2012)(4). 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỉ  lệ  phát 
hiện đột biến gen globin của thai là 59,26%, khác 
với tỉ lệ di truyền theo lý thuyết là 75%. Không 
có trường hợp nào đồng hợp tử. 4/27 trường hợp 
chẩn  đoán  trước  sinh  (chiếm  14,8%)  có  tình 
trạng  dị  hợp  tử  kép  2  đột  biến  cùng  loại  hay 
khác loại (cả đột biến α và β globin). Nghiên cứu 
của  Nguyễn  Khắc  Hân  Hoan  năm  2011  với  cỡ 
mẫu  lớn  (290  trường  hợp  thai  được  chẩn  đoán 
trước  sinh)  có  kết  quả:  71,4%  thai  có  mang  gen 
đột  biến,  trong  đó  21,4%  thai  có  kiểu  gen  bệnh 
nặng  gồm  HbBart,  HbH  và  β  thalassemia  thể 
nặng.  Sự  khác  biệt  về  tỉ  lệ  di  truyền  có  thể  do 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thực  hiện  trong  thời 
gian ngắn nên có cỡ mẫu nhỏ. 
Chúng  tôi  phát  hiện  có  20  alen  gây 
thalassemia trong mẫu xét nghiệm dịch ối do 8 
loại đột biến gây ra. Đột biến α và β thalassemia 
đều chiếm 10 alen cho mỗi loại. Đột biến ‐‐SEA 
thường  gặp  nhất  trong  các  alen  α  thalassemia 
(60%), còn lại là –α3.7 và –α4.2. Trong số các alen 
β thalassemia, đột biến thường gặp nhất là HbE 
(40%),  kế  đến  là  đột  biến  codon  41/42‐TCTT  và 
codon  71/72.  Sự  phân  bố  tần  suất  các  loại  đột 
biến  của  thai  cũng  tương  tự  như  của  cha  mẹ. 
Trong nghiên cứu của Nguyễn Khắc Hân Hoan, 
tỉ  lệ  alen  α  gấp  2  lần  alen  β  và  2  loại  đột  biến 

thường gặp nhất là ‐‐SEA và HbE tương tự như 
trong nghiên cứu của chúng tôi. 
Trong  5  trường  hợp  có  tiền  căn  con  trước 
bệnh thalassemia, có 4 trường hợp  thai  lần  này 
không mang gen đột biến và trường hợp còn lại 
thai có đột biến ‐‐SEA dạng dị hợp tử. Mục đích 
của  đề  tài  giúp  phát  hiện  tình  trạng  mang  gen 
của thai nhi như thế nào trước khi sinh ra. Nếu 
thai  bị  bệnh  thể  nặng  cặp  vợ  chồng  sẽ  được  tư 
vấn  chấm  dứt  thai  kỳ.  Nếu  thai  không  bị  bệnh 
hoặc  chỉ  là  người  mang  gen,  cặp  vợ  chồng  yên 
tâm dưỡng thai đến ngày sinh.  
Đối với trường hợp thai có mang gen dị hợp 
tử kép 2 loại đột biến β0/β+, đối tượng đã được tư 

Nghiên cứu Y học

vấn di truyền về khả năng thai bị bệnh thể nặng. 
Tuy nhiên, trường hợp này không đồng ý chấm 
dứt thai kỳ. 

KẾT LUẬN 
Thalassemia là bệnh lý di truyền và hiện nay 
vẫn chưa có cách điều trị bệnh hiệu quả. Do đó, 
phòng ngừa trẻ bệnh thalassemia thể nặng được 
sinh ra là chiến lược quan trọng toàn cầu nhằm 
giảm gánh nặng về bệnh tật và tâm lý cho toàn 
xã  hội.  Bệnh  di  truyền  theo  gen  lặn  nên  không 
được quan tâm cho đến khi có trẻ bị bệnh nặng 
được  sinh  ra.  Chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu 

này góp một phần nhỏ cùng với 2 đơn vị đứng 
đầu lĩnh vực này tại Thành phố Hồ Chí Minh là 
Từ Dũ và Hùng Vương thực hiện “Đề án nâng 
cao  chất  lượng  dân  số  thông  qua  tuyên  truyền 
vận động phát hiện – can thiệp sớm tật, bệnh ở 
thai  nhi  và  sơ  sinh,  giai  đoạn  2011  –  2015  tại 
thành phố Hồ Chí Minh”. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.
3.

4.

5.

6.

7.
8.

9.

David  J.  Weatherall  (2010).  The  Thalassemias:  Disorder  of 
Globin  Synthesis.  Williams  Hematology  Eighth  Edition, 
McGraw‐Hill. 
Hội tan máu bẩm sinh Việt Nam (2012). Thalassemia, Hà Nội, 
Nhà xuất bản Y học. 

Lý Thị Thanh Hà và cs (2012). Chẩn đoán di truyền trước sinh 
bệnh  Beta‐thalassemia  tại  Bệnh  viện  Nhi  Trung  ương.  Tạp  chí 
nghiên cứu Y học số 1, Đại học Y Hà Nội. 
Ngô Diễm Ngọc và cs (2012). Ứng dụng kỹ thuật sinh học phân 
tử  trong  phát  hiện  đột  biến  trên  gen  α  globin  của  bệnh  α 
thalassemia. Tạp chí Nhi khoa tập 3, số 3&4, trang 337‐342. 
Nguyễn  Khắc  Hân  Hoan,  Phạm  Việt  Thanh,  Trương  Đình 
Kiệt, Lâm Thị Mỹ (2011). Chẩn đoán trước sinh bệnh thalassemia 
trên 290 trường hợp thai. Tạp chí nghiên cứu Y học số 3. 
Nguyễn  Khắc  Hân  Hoan  (2012).  Giá trị MCV và MCH trong 
tầm soát trước sinh thalassemia. Hội thảo sàng lọc trước sinh và 
sau sinh ngày 15/12/2012. 
Svasti  ML  et  al  (2002).  Molecular  analysis  of  β‐thalassemia  in 
South Vietnam. American Journal of Hematology, 71, 85‐88. 
Tameika  RJ  (2008).  Are  published  standards  for  haematological 
indices in pregnancy applicable across populations: an evaluation in 
healthy  pregnant  Jamaican  women.  BMC  Pregnancy  and 
Childbirth, 8:8. 
Thalassaemia  International  Federation  (2008).  Guidelines  for 
the clinical management of thalassaemia 2nd revised edition. 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

30/11/2013 


Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

02/12/2013 

Ngày bài báo được đăng:  

05/01/2014 

 

 

Sản Phụ Khoa

131



×