Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tiềm năng ứng dụng của tế bào gốc tủy răng người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 1 * 2012

TIỀM NĂNG ỨNG DỤNG CỦA TẾ BÀO GỐC TỦY RĂNG NGƯỜI
Trần Lê Bảo Hà*, Đoàn Nguyên Vũ*, Tô Minh Quân*, Nguyễn Thị Nhật Uyên*, Lê Thị Ngọc
Hương*, Nguyễn Thị Ngọc Mỹ*, Phan Kim Ngọc*, Nguyễn Thị Thư**, Đặng Vũ Ngọc Mai**,
Hoàng Đạo Bảo Trâm**, Hoàng Tử Hùng**

TÓM TẮT
Mở đầu: Gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện tủy răng là mô có chứa tế bào gốc. Tế bào gốc tủy
răng là một nguồn tế bào dễ thu nhận vì không xâm lấn, có tiềm năng tăng sinh và biệt hóa cao, có thể được
lưu trữ trong nhiều năm, tương tác tốt với nhiều loại vật liệu sinh học.
Đối tượng và phương pháp: Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành thu nhận và khử trùng
mô tủy răng người. Sau đó, tế bào tủy răng được phân lập và nuôi cấy. Sự hiện diện của quần thể tế bào
gốc trong hỗn hợp tế bào sau nuôi cấy được xác định bằng phương pháp khảo sát sự tăng sinh và kỹ thuật
Flow cytometry. Đồng thời, ngà răng cũng được sử dụng làm khung nâng đỡ cho tế bào gốc tủy răng.
Kết quả: Kết quả cho thấy, chúng tôi đã thu nhận và nuôi cấy thành công tế bào gốc tủy răng người.
Quần thể tế bào sau nuôi cấy biểu hiện các marker là CD13, CD44, CD90, CD105, CD166. Tế bào gốc tủy
răng có khả năng tăng sinh trên bề mặt ngà đã xử lí bằng hóa chất.
Kết luận: Với những kết quả đã đạt được, tế bào gốc tủy răng hứa hẹn sẽ là nguyên liệu quan trọng
cho những nghiên cứu trong kỹ nghệ mô cũng như trong lĩnh vực nha khoa tái tạo.
Từ khóa: Bề mặt ngà, nuôi cấy sơ cấp, flow cytometry, tế bào gốc, tủy răng người.

ABSTRACT
APPLIED POTENTIAL OF HUMAN DENTAL PULP STEM CELLS
Tran Le Bao Ha, Doan Nguyen Vu, To Minh Quan, Nguyen Thi Nhat Uyen, Le Thi Ngoc Huong,
Nguyen Thi Ngoc My, Phan Kim Ngoc, Nguyen Thi Thu, Dang Vu Ngoc Mai,
Hoang Dao Bao Tram, Hoang Tu Hung * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 – No.1 – 2012: 10 - 17
Background: Recently, scientists have found that dental pulp tissue contains stem cells. Dental pulp
stem cells as a source of cells are easy to obtain for non-invasive, has the highly potential to grow and


differentiate, can be stored for many years, interact well with many types of biomaterials.
Materials and method: In this research, we performed the experiments to collect and disinfect human
dental pulp tissue. Then, dental pulp cells are isolated and cultured. The presence of stem cell populations
in cultured cells is determined by proliferation assay and Flow cytometry. Simultaneously, dentin was
used as a scaffold for the dental pulp stem cells.
Results: Results shown that we are successful in collection and culture of human dental pulp stem
cells. Populations of cultured cells are positive for expression of CD13, CD44, CD90, CD105, CD166
markers. Dental pulp stem cells can proliferate on chemically treated dentin surface.
Conclusion: With the results achieved, dental pulp stem cells promises to be an important material for
research in tissue engineering as well as in dental regeneration.
Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia-thành phố Hồ Chí Minh
Đại học Y Dược, thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS.Trần Lê Bảo Hà ĐT: 0988575507
Email:
*

**

10


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

Keywords: dentin surface, primary culture, flow cytometry, stem cells, human dental pulp.
DMEM/F12 (Sigma) bổ sung 10% FBS (huyết
MỞ ĐẦU
thanh thai bò-Gibco), 2mM L-glutamin,
Trên thế giới, tế bào gốc tủy răng đã được

100U/ml penicillin, 100µg/ml streptomycin.
nuôi cấy thành công chỉ trong vài năm gần
Xác định tính gốc của tế bào tủy răng
đây và có khả năng ứng dụng rất cao. Đến
người
nay, đã có rất nhiều nghiên cứu về việc phân
lập tế bào tủy răng của nhiều loài khác nhau.
Đánh giá sự tăng sinh của tế bào trên bề mặt
Các nghiên cứu này đã chứng minh tế bào gốc
chai nuôi cấy
tủy răng có khả năng tăng sinh cao và biệt
Các tế bào được cấy chuyền sang đĩa 96
hóa thành dạng tế bào khoáng hóa trong môi
giếng với mật độ 104 tế bào/cm2. Mật độ tế bào
trường thích hợp (Nakashima, 1991;
được xác định mỗi ngày bằng buồng đếm tế
Nakashima et al., 1994; Kettunen et al., 1998;
bào cùng với thuốc nhuộm trypan blue.
Buchaille et al., 2000; Yokose et al., 2000). Các
Phương pháp Flow cytometry
tế bào tủy răng được xác định là có biểu hiện
Các tế bào ở lần cấy chuyền thứ tư được
một số marker của tế bào gốc như STRO-1
thu nhận bằng trypsin/EDTA 0,25%, điều
(Shi, Gronthos, 2003; Shi et al., 2005), CD146
chỉnh mật độ tế bào đạt 106 tế bào/ml. Huyền
(Gronthos et al., 2003; Miura et al., 2004) và
phù tế bào trong 1ml Facs Flow và nhuộm với
Oct4 (Huang et al., 2006). Bên cạnh những
10µl kháng thể trong 30 phút ở nhiệt độ

nghiên cứu phân lập và nuôi cấy tế bào gốc
phòng (CD13-PE, CD44-PE, CD90-FITC,
tủy răng, các khung nâng đỡ ba chiều như
CD105-PE, CD166-PE, CD34-FITC, CD45-FITC,
alginate, collagen, polymer, sứ… cũng được
BD Sciences, San Jose, CA). Làm lạnh mẫu
phát triển nhằm ứng dụng trong nha khoa tái
trong 15 phút ở 40C. Tiến hành đánh giá
tạo (Kumabe et al., 2006; Zhang et al., 2006;
marker tế bào bằng máy FACS Calibur sử
Young et al., 2002; Gronthos et al., 2002). Trong
dụng phần mềm Cell Quest Pro.
đó, khung nâng đỡ ngà răng được chứng
Khảo sát sự tăng sinh của tế bào gốc tủy
minh có khả năng cảm ứng tế bào gốc tủy
răng người trên khung nâng đỡ ngà răng
răng biệt hóa thành nguyên bào ngà (Huang et
al., 2006).
Khung nâng đỡ ngà răng được tạo ra từ

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

răng khôn người. Bề mặt của những khung

Đối tượng nghiên cứu

nâng đỡ ngà sẽ được xử lý lần lượt với các

Răng cối nhỏ và răng khôn còn nguyên
vẹn, không bị sâu thối tủy của người tình

nguyện được thu từ Khoa Răng Hàm Mặt,
Trường Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí
Minh và Khoa Nội Nha, Bệnh viện Răng Hàm
Mặt Thành phố Hồ Chí Minh. Răng được
chứa trong lọ có dung dịch bảo quản.

Phương pháp phân lập và nuôi cấy tế bào
tủy răng
Sau khi tách khỏi răng, mẫu tủy được cắt
thành những mảnh nhỏ (2x2x1 mm) và được
nuôi trong đĩa 35mm (Nunc) với môi trường

hóa chất citric axit 19% trong 1 phút, EDTA
17% trong 10 phút để loại bỏ lớp mùn ngà.
Hiệu quả của phương pháp xử lý bề mặt
khung nâng đỡ ngà được đánh giá bằng kính
hiển vi điện tử quét. Khung nâng đỡ ngà răng
được đặt trong đĩa 96 giếng với môi trường
nuôi cấy. Sau đó, các tế bào gốc tủy răng ở lần
cấy chuyền thứ tư được cấy lên bề mặt ngà
với mật độ 104 tế bào/cm2. Sự tăng sinh của tế
bào được xác định bằng phương pháp MTT ở
các ngày nuôi cấy thứ 2, 4, 6, 8, 10.

11


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

Xử lý số liệu
Số liệu thu nhận được xử lý theo chương
trình Statgraphic 7.0 của Trường Đại học
Michigan (Mỹ).

KẾT QUẢ
Kết quả nuôi sơ cấp mô tuỷ răng
Vào ngày nuôi cấy thứ 7, bắt đầu xuất
hiện các tế bào trải; các tế bào có nhiều hình
dạng khác nhau như dạng hình thoi, dạng kéo
dài, dạng hình sao, dạng giống tế bào nội
mô… Trong những ngày nuôi cấy sau đó, các
dạng tế bào dần dần thu hẹp lại; dạng tế bào
chiếm ưu thế là dạng tế bào trải rộng, nhân
lớn hình oval và có nhiều đuôi bào tương.
Ngày thứ 21, các tế bào bắt đầu hợp dòng, trải
thành một lớp đơn phủ kín bề mặt đĩa nuôi,
đây là thời điểm thích hợp để thu nhận tế bào
(Hình 1).

Kết quả đánh giá sự tăng sinh của tế bào
trên bề mặt chai nuôi cấy

ngày 6, đạt cao nhất vào ngày 6, sau đó giảm
nhanh đến ngày 9.

Kết quả xác định marker tế bào gốc
Các tế bào tủy răng nuôi cấy ở thế hệ thứ
tư được đánh giá sự biểu hiện marker bề mặt
bằng Flow cytometry. Kết quả cho thấy, các tế

bào ứng viên dương tính mạnh với các marker
CD13 (99,97%), CD44 (99,84%), CD90 (97,34%),
CD105 (91,95%), CD166 (98,18%) và âm tính
với các marker CD34 (0,42%), CD45 (0,08%)
(Hình 2).

Kết quả khảo sát sự tăng sinh của tế bào
gốc tủy răng người trên bề mặt ngà
Kết quả đánh giá hiệu quả xử lý bề mặt ngà
Dựa vào kết quả chụp kính hiển vi điện tử
quét, chúng tôi nhận thấy rằng bề mặt ngà
chưa xử lý bị bao phủ hoàn toàn bởi lớp mùn
ngà nhưng khi được xử lý thì lớp mùn ngà đã
được loại bỏ hoàn toàn và để lộ ra các ống
ngà trên bề mặt (Hình 3).

Đồ thị 1 cho thấy sau khi được cấy
chuyền, tế bào tăng sinh mạnh từ ngày 2 đến

A

C

12

B

D



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

4

2

Số tế bào (x 10 tế bào/cm )

Hình 1. Tế bào mọc lan ra từ mảnh mô sau các ngày nuôi cấy. A. Mảnh mô tủy răng trong đĩa nuôi
(100X); B. Tế bào tủy răng sau 7 ngày nuôi cấy (100X); C. Tế bào tủy răng sau 15 ngày nuôi cấy (100X);
D. Tế bào tủy răng sau 21 ngày nuôi cấy (100X).

Thời gian

13


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đồ thị 1. Đường cong tăng trưởng của tế bào tủy răng người nuôi cấy.

Hình 2. Kết quả phân tích Flow cytometry của tế bào tủy răng ứng viên.

A

B


Hình 3. Hình chụp bề mặt ngà răng bằng kính hiển vi điện tử quét. A. Bề mặt ngà răng chưa xử lý
(1000X); B. Bề mặt ngà răng đã xử lý (2000X).

Kết quả khảo sát sự tăng sinh của tế bào gốc tủy răng người trên khung nâng đỡ ngà răng
14


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 1 * 2012

Mật độ quang (OD)

Nghiên cứu Y học

Thời gian

Đồ thị 2. Biểu diễn sự tương quan giữa mật độ quang (OD) với các mốc thời gian nuôi cấy.
trưởng thành khác. Abbas và đồng tác giả
Kết quả khảo sát bằng MTT cho thấy tế
(2008) đã chứng minh rằng tế bào gốc từ tủy
bào gốc tủy răng người có khả năng bám dính
răng có nguồn gốc từ mào thần kinh. Tế bào
và tăng sinh tốt trên khung nâng đỡ ngà răng
gốc tủy răng có biểu hiện các marker tế bào có
đã xử lý.
nguồn gốc phôi Oct-4, Nanog, SSEA-3, SSEA-4,
BÀN LUẬN
TRA-1-60, TRA-1-81CD44 và các marker tế bào
Tế bào gốc tủy răng
gốc trung mô CD90, CD146, CD166, CD73,

CD105, CD44, CD49b (Kerkis et al., 2006; Jo et
Các nhà khoa học đã chứng minh đây là
al., 2007; Baghaban et al., 2009; Erdal Karaöz et
một nguồn tế bào gốc có tiềm năng ứng dụng
al., 2009). Kết quả của nghiên cứu này đã
điều trị lâm sàng giống như các nguồn tế bào
chứng minh rằng tế bào tủy răng có khả năng
gốc đã được tìm ra trước đây. Sở dĩ, tế bào
bám dính và tăng sinh trong điều kiện nuôi
gốc tủy răng nhận được sự quan tâm đặc biệt
cấy in vitro. Ngoài ra, các tế bào nuôi cấy biểu
là do chúng có nhiều ưu điểm nổi bật. Thứ
hiện các marker CD13, CD44, CD90, CD105,
nhất, nguồn tế bào này có thể được thu nhận
CD166 đây là các marker của tế bào gốc trung
trong suốt đời sống của mỗi người; đặc biệt
mô. Từ các kết quả thu được, chúng tôi thấy
thu nhận tốt nhất ở răng sữa khi nguồn gen
rằng quần thể tế bào gốc trung mô từ tủy răng
chưa chịu nhiều tác động của môi trường bên
người đã có sự đồng nhất ở thế hệ nuôi cấy
ngoài. Thứ hai, việc thu nhận nguồn tế bào
thứ tư và các tế bào này vẫn duy trì được đặc
này ít gây xâm lấn đối với bệnh nhân, diễn ra
như một quá trình tự nhiên (rụng răng ở trẻ
tính gốc trong quá trình nuôi cấy in vitro.
em). Thứ ba, việc sử dụng nguồn tế bào này
Ngoài ra, các protein biểu hiện trên bề mặt
không vướng phải các vấn đề về đạo đức, tôn
của tế bào gốc tủy răng cho thấy chúng không

giáo giống như tế bào gốc phôi. Đây cũng là
chỉ có khả năng biệt hóa thành các tế bào cơ
một nguồn tế bào gốc có tiềm năng biệt hóa
bản thuộc lớp trung mô như nguyên bào ngà,
cao có thể được ứng dụng điều trị nhiều mô
nguyên bào xương, tế bào sụn, tế bào mỡ, tế
và cơ quan khác của cơ thể. Shi và đồng tác
bào cơ mà còn có khả năng chuyển biệt hóa
giả (2003) đã phát hiện dòng tế bào gốc răng
thành các tế bào chức năng không thuộc lớp
sữa người có thể dễ dàng được bảo quản và
trung mô như tế bào β ở tuyến tụy, tế bào
sử dụng cho các liệu pháp điều trị trong
thần kinh, tế bào cơ tim, tế bào giống tế bào
tương lai. Các tế bào này xuất hiện ở tuần thứ
gan (Kerkis et al., 2006; Huang et al., 2006;
sáu của quá trình phát triển phôi người;
Baghaban et al., 2009; Jinhua et al., 2010).
chúng có khả năng tăng trưởng và tiềm năng
Tiềm năng ứng dụng của tế bào gốc tủy
biệt hóa cao hơn những nguồn tế bào gốc

răng

15


Nghiên cứu Y học
Tế bào gốc tủy răng có thể dùng để tái tạo
xương và sửa chữa khiếm khuyết sọ mặt.

Những nghiên cứu in vitro và in vivo đều cho
thấy rằng các tế bào gốc trưởng thành từ răng
có khả năng tái tạo chân răng nếu có được
nhân tố tăng trưởng và khung nâng đỡ phù
hợp. Liệu pháp tái tạo ít gây tổn thương cho
bệnh nhân hơn là phẫu thuật cấy ghép; những
nghiên cứu trên mô hình động vật đã cho
thấy hiệu quả điều trị và hoạt động chức năng
của mô cấy ghép sinh học trội hơn rất nhiều
so với phương pháp implant và các phương
pháp truyền thống khác. Tế bào gốc tủy răng
có khả năng tăng sinh vô hạn, đa tiềm năng
nên chúng sẽ là nguồn tế bào gốc quan trọng
để tái tạo và sửa chữa các khiếm khuyết sọ
mặt, mất răng và tổn thương xương.
Do có khả năng sản xuất và tiết ra các yếu
tố thần kinh, tế bào gốc tủy răng cũng có khả
năng điều trị các bệnh thoái hóa thần kinh và
sửa chữa những tế bào thần kinh vận động
sau đột quỵ hay chấn thương. Tế bào gốc từ
răng khôn có khả năng tiết ra chất giúp duy
trì sự sống của dây thần kinh sau chấn
thương. Trong tương lai, tế bào gốc từ răng có
thể được ứng dụng nhằm tái tạo tế bào thần
kinh cho những bệnh nhân chấn thương cột
sống. Tế bào gốc tủy răng có thể được cấy
ghép vào buồng tủy để tái tạo tủy mới cho
những chiếc răng bị sâu, giảm thiểu việc điều
trị nội nha. Cordeiro và đồng tác giả (2008) đã
đánh giá đặc điểm hình thái của mô được

hình thành khi cấy ghép tế bào gốc răng sữa
vào giá thể có khả năng phân hủy sinh học;
sau đó, đưa phức hợp này lên lát cắt ngà răng
người và cấy vào chuột suy giảm miễn dịch.
Kết quả cho thấy rằng cấu trúc mô được hình
thành gần giống với tủy sinh lý. Trong những
nghiên cứu gần đây, De Mendonça Costa A
(2008) đã phân lập các tế bào gốc từ tủy răng
người để tái tạo khiếm khuyết xương sọ có
kích thước lớn ở chuột. Kết quả cho thấy rằng
tổn thương ở chuột được chữa lành, ông cho
rằng đây là một nguồn tế bào gốc đầy hứa
hẹn nhằm tái tạo khiếm khuyết trong phẫu

16

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 1 * 2012
thuật sọ mặt.
Liệu pháp tế bào gốc đã được đề nghị ứng
dụng điều trị nhiều căn bệnh như Parkinson,
đa xơ cứng, bệnh gan, tiểu đường, tim mạch,
tự miễn, rối loạn cơ xương, tái tạo thần kinh
sau chấn thương não hay tủy sống, ứng dụng
điều trị gãy xương, ung thư và phẫu thuật cột
sống.

Khung nâng đỡ nuôi cấy tế bào gốc tủy
răng
Các polymer tự nhiên có tính tương hợp
sinh học cao và không gây ra các phản ứng

thải loại khi ghép vào bệnh nhân. Collagen là
một protein quan trọng trong cơ thể người.
Nó cũng là thành phần chủ yếu của tủy răng
và chất nền ngà răng. Do đó, đã có rất nhiều
nghiên cứu sử dụng collagen làm khung nâng
đỡ nuôi cấy tế bào tủy răng. Zhang và đồng
tác giả (2006) đã chứng minh chất nền
collagen kích thích tế bào gốc tủy răng bám
dính và tăng sinh tốt. Kumabe và đồng tác giả
(2006) đã đưa tế bào tủy răng vào giá thể
alginate; sau đó cấy dưới da bụng chuột. Sau
6 tuần cấy ghép, trong giá thể xuất hiện
những thể khoáng hóa. Các polymer tổng hợp
đang được sử dụng phổ biến do có những ưu
điểm như có thể được tổng hợp và kiểm soát
các đặc tính hóa lý (cấu trúc, độ bền, kích
thước lỗ và tỉ lệ thoái biến). Young và đồng
tác giả (2002) đã nuôi cấy tế bào gốc tủy răng
trên ba loại khung nâng đỡ từ polymer tổng
hợp polyglycolic acid (PGA), polylactic acid
(PLA), poly (lactide-co-glycolide) (PLGA); kết
quả cho thấy có sự hình thành phức hợp ngà
tủy bên trong khung nâng đỡ. Vật liệu sứ đã
được ứng dụng rộng rãi trong kỹ nghệ mô
xương và nha khoa phục hồi (răng sứ,
mão…). Trong ứng dụng lâm sàng cho thấy
loại vật liệu này có nhiều ưu điểm như kích
thích tế bào bám dính và khoáng hóa, liên kết
tốt với mô xung quanh khi cấy ghép và giúp
lành vết thương nhanh hơn kim loại.

Gronthos và đồng tác giả (2002) đã chứng
minh một lớp giống ngà răng được hình


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 1 * 2012
thành khi cấy khung nâng đỡ sứ có mang tế
bào gốc tủy răng trên chuột suy giảm miễn
dịch. Ngoài ra, các nhà khoa học đã nghĩ tới
việc sử dụng ngà răng làm khung nâng đỡ
nuôi cấy tế bào gốc tủy răng và đạt nhiều kết
quả đáng kể. Batouli và đồng tác giả (2003)
nuôi cấy tế bào tủy răng người trên bề mặt
ngà; sau đó, cấy vào chuột suy giảm miễn
dịch, thì nhận thấy có một cấu trúc giống như
ngà được hình thành trên bề mặt ngà. Huang
và đồng tác giả (2006) chứng minh khung
nâng đỡ ngà răng có khả năng cảm ứng tế bào
gốc tủy răng biệt hóa thành nguyên bào ngà.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã chứng
minh khung nâng đỡ ngà răng có khả năng
kích thích tế bào gốc tủy răng bám dính và
tăng sinh tốt. Đây là tiền đề cho việc phát
triển phương pháp điều trị mới nhằm ứng
dụng nguồn tế bào gốc này để tái tạo tủy răng
giống tự nhiên.

Ngân hàng tế bào gốc tủy răng
Thời gian gần đây, ngân hàng tế bào gốc tủy
răng rất được phổ biến và nhận được sự quan
tâm đặc biệt của nhiều công ty trên thế giới.

Các phòng thí nghiệm BioEden (Austin,
Texas) ở Mỹ, International laboratories ở Anh
(khu vực Châu Âu) và Thái Lan (khu vực
Đông Nam Á) với những kế hoạch mở rộng
sang Nga, Úc và Trung Đông. Các công ty
cũng tham gia thành lập ngân hàng tế bào gốc
tủy răng như StemSave và Store-A-Tooth ở
Mỹ…
Tại Nhật Bản, ngân hàng tế bào gốc tủy
răng đầu tiên được thành lập tại Đại học
Hiroshima với tên là “Three Brackets” (Suri
Buraketto) vào năm 2005. Đại học Nagoya
(Kyodo, Nhật Bản) cũng thành lập một ngân
hàng vào năm 2007. Trường Đại học Y Taipei
(TMU) phối hợp với Đại học Hiroshima mở
ngân hàng răng quốc gia vào tháng 9 năm
2008 với mục tiêu lưu trữ răng cho cấy ghép
tự nhiên và cung cấp nguồn tế bào gốc tủy
răng.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu Y học
Chúng tôi đã nuôi cấy và xác định thành
công sự hiện diện của quần thể tế bào gốc
trung mô trong hỗn hợp tế bào tủy răng
người nuôi cấy. Thêm nữa, các tế bào này có
khả năng tăng sinh tốt trên bề mặt ngà răng.
Việc thu nhận và lưu trữ những tế bào gốc tủy
răng như nguồn tế bào dự trữ cho tương lai

khi con người cần đến chúng nhất.
Lời cảm ơn: Chúng tôi chân thành cảm ơn Bệnh viện
Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí Minh và Trường
Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh đã cung cấp
mẫu răng để tiến hành thí nghiệm này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

Abigail ST, Paul TS (2004) The Cutting Edge of Mammalian

Development: How the Embryo Makes Teeth. Nat Rev
Genet 5: 499-508.
Baghaban Eslaminejad MR, Nazarian H, Shariati M,Vahabi S
(2009) Human Dental Pulp Stem Cells: The Culture
Optimization for Increased Growth. IJHOSCR 3: 5-13.
Batouli S, Miura M, Brahim J, Tsutsui TW, Fisher LW,
Gronthos S, Robey PG, Shi S (2003) Comparison of stemcell-mediated osteogenesis and dentinogenesis. J Dent Res
82: 976-981.
Conan SY, Shinichi T, Joseph PV, Masaki H, John DB,
Pamela CY (2002) Tissue Engineering of Complex Tooth
Structures on Biodegradable Polymer Scaffolds. J Den Res
81: 695-700.
George TJH, Wataru S, James C, Sang HP (2006) In vitro
characterization of human dental pulp cells: various
isolation methods ang culturing enviroment. Cell Tissue Res
10: 1-23.
Gronthos S, Brahim J, li W, Fisher LW, Cherman N, Boyed
A, DenBesten B, Robey PG, Shi S (2002) Stem cell properties
of human dental pulp stem cells. J Dent Res 81:531-535.
Jinhua Y, Huixia H, Chunbo T, Guangdong Z, Yuanfei L,
Ruoning W, Junnan S, Yan J (2010) Differentiation potential
of STRO-1+ dental pulp stem cells changes during cell
passaging. BMC Cell Biol 11: 32-39.
Jinhua Y, Zhihong D, Junnan S, Huihong Z, Xin N, Heng Z,
Yucheng L, Yan J (2006) Differentiation of dental pulp stem
cell into Regular-Shaped Dentin-Pulp Complex Induced by
Tooth Germ Cell Conditioned Medium. Tissue Eng 12: 30973105.
Kerkis I, Kerkis A, Dozortsev D, Stukart-Parsons GC,
Gomes Massironi SM, Pereira LV, Caplan AI, Cerruti HF
(2006) Isolation and characterization of a population of

immature dental pulp stem cells expressing OCT-4 and
other embryonic stem cell markers. Cells Tissues Organs 184:
105-116.
Shunji K (2006) Human dental pulp stem cell culture and
cell Transplantation with an alginate scaffold. Okajimas Folia
Anat Jpn 84: 147-156.
Zhang W, Frank Walboomers X, van Kuppevelt TH,
Daamen WF, Bian Z, Jansen JA (2006) The performance of
human dental pulp stem cells on different three-dimensional

17



×