Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

So sánh phương pháp đặt nòng silicon một lệ quản minimonoka và hai lệ quản hình vòng trong phục hồi lệ quản chấn thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.34 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

SO SÁNH PHƯƠNG PHÁP ĐẶT NÒNG SILICON MỘT LỆ QUẢN MINIMONOKA VÀ HAI LỆ QUẢN HÌNH VÒNG
TRONG PHỤC HỒI LỆ QUẢN CHẤN THƯƠNG
Nguyễn Văn Thịnh*, Lê Minh Thông**

TÓM TẮT
Mục đích: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của hai phương pháp đặt nòng silicon hai lệ quản hình vòng
và một lệ quản Mini-monoka trong phục hồi lệ quản chấn thương.
Phương pháp: Nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên, có nhóm chứng. Nghiên cứu thực hiện từ
tháng 02/2010 đến tháng 03/2011 trên 86 mắt bệnh nhân với 94 lệ quản tại khoa chấn thương BV. Mắt
TP.HCM.
Kết quả: Tuổi trung bình 38,98 ± 13,2%, tỷ lệ nam 72,1%, nữ 27,9%, lệ quản trên 10,5%, lệ quản dưới
80,2%, hai lệ quản 9,3%. Tỷ lệ thành công chức năng và giải phẫu ở nhóm ống Minimonoka lần lượt là 81,4%
và 84,8% và ở nhóm ống vòng 74,4% và 87,5%. Tỷ lệ hết chảy nước mắt một tháng sau mổ 62,8% ở nhóm ống
Mini-monoka và 37,2%. Tỷ lệ rách lệ quản và mòn bờ mi ở nhóm ống vòng là 25%. Tỷ lệ rớt ống ở nhóm ống ở
nhóm ống mini-monoka 8,7%.
Kết luận Tỷ lệ thành công chức năng và giải phẫu cả hai nhóm tương đương nhau ở thời điểm sau mổ
6 tháng. Nhóm ống Mini-monoka có hiệu quả giảm chảy nước mắt sớm và ít tổn thương lệ quản hơn nhóm
ống vòng.
Từ khóa: Đứt lệ quản, ống lưu lệ quản 1 nòng Mini Monoka, ống lưu lệ quản vòng, xông đuôi heo.

ABSTRACT
COMPARATION OF THE DONUT SILICON STENT AND THE MINI MONOKA SILICON
MONOCANALICULAR STENT METHOD FOR REPAIR OF CANALICULAR LACERATION
Nguyen Van Thinh, Le Minh Thong.
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 85 - 91
Objectives: To evaluate the effect and safety of the donut silicone stent (using the pigtail probe) and Mini
Monoka silicone monocanalicular lacrimal stent for repair of canalicular laceration.


Method: A prospective, randomized, case-control comparative clinical trial, from February 2010 to March
2011 at Department of Traumatic Ophthalmology, Eye Hospital of HCM city.
Results: The mean age was 40, male 7.1%, female 27.9%, upper canaliculus 10.5%, lower canaliculus
80.2%, both 9.3%. The donut silicon stent group, 87.5% achieved canalicular patency and functional successfull
rate was 74.4%. The Mini Monoka silicon monocanalicular lacrimal stent group, 84.8% achieved canalicular
patency and functional successful rate was 81.4%. The free of tearing symptom of Mini monoka group was earlier
than the other. The most common complication of the Mini Monoka was premature stent loss (8.7%), while the
donut stent group was erosion on eyelid margin and canalicular slitting (25.0%).
Conclusion: Anatomical and functional successfull rate were the same in both methods at 6 months after

* Khoa Chấn thương, bệnh viện Mắt TP.HCM; ** Bộ môn Mắt, Đại học Y Dược TP.HCM.
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Văn Thịnh
ĐT: 0918340112
Email:

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

85


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

the operation. The free of tearing symptom of Mini monoka group was earlier than the other and the Mini
monoka group was less canalicular injured than the donut group.
Keywords: Canalicular laceration, the Mini Monoka silicon monocanalicular lacrimal stent, the donut
silicone stent, the pigtail probe.

ĐẶT VẤN ĐỀ


Mục tiêu nghiên cứu

Ở nước ta, vết thương đứt lệ quản do tai
nạn giao thông, sinh hoạt rất phổ biến. Điều
trị lệ quản chấn thương là một yêu cầu thực tế
nhằm phục hồi cấu trúc giải phẫu và chức
năng sinh lý bình thường cũng như hạn chế
thấp nhất tổn hại về thẩm mỹ. Phương pháp
nối lệ quản với nòng silicone hai lệ quản hình
vòng (gọi tắt là ống vòng, sử dụng thông đuôi
heo để đặt nòng) đã được áp dụng ở Việt
Nam từ năm 2001(7) có kết quả thành công về
giải phẫu khá tốt. Từ tháng 7/2002 tại bệnh
viện Mắt TPHCM đã bắt đầu dùng ống
silicone Mini-monoka (gọi tắt là ống đơn) để
đặt nòng lệ quản trong phục hồi lệ quản chấn
thương.

Mục tiêu tổng quát
Đánh giá, so sánh kết quả điều trị đứt lệ
quản do chấn thương bằng phương pháp nối lệ
quản với nòng silicone một lệ quản MiniMonoka với nòng silicone hai lệ quản hình
vòng.

Hiện vẫn còn nhiều tranh luận về việc lựa
chọn phương pháp phẫu thuật. Pongsapak
Promchot cho rằng sử dụng ống vòng để nối
lệ quản rất kinh tế và thích hợp với các nước
đang phát triển(8). Ngược lại, Saunders và

cộng sự chủ trương rằng phương pháp sử
dụng thông đuôi heo để phục hồi lệ quản nên
bỏ đi vì gây nhiều biến chứng. Ống silicone
Mini-monoka có ưu điểm ít gây tổn thương
trên lệ quản lành nhưng dễ bị tuột ống(1) và
giá thành còn cao đối với nhiều người dân
nhất là người dân vùng nông thôn(9).
Việc cần thiết phải có cơ sở khoa học để
đánh giá, so sánh các ưu khuyết điểm của từng
phương pháp cũng như chỉ định phương pháp
an toàn, hiệu quả cho từng đối tượng bệnh

Mục tiêu chuyên biệt
- Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng chấn
thương đứt lệ quản.
- Xác định tính hiệu quả và an toàn của hai
phương pháp.
- Phân tích các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng
kết quả điều trị.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
- Dân số mục tiêu: các bệnh nhân bị đứt lệ
quản chấn thương.
- Dân số chọn mẫu: tất cả các bệnh nhân bị
đứt lệ quản chấn thương nhập viện ngoại
trú hoặc nội trú tại khoa Chấn thương, Bệnh
viện Mắt TP HCM từ tháng 2/2010 đến tháng
3/2011, thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và tiêu chuẩn
loại trừ được chọn vào nghiên cứu.


Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, lâm sàng, ngẫu nhiên
có đối chứng.
Cỡ mẫu
Đây là nghiên cứu so sánh hai tỷ lệ, có công
thức như sau:

nhân.Vì vậy, chúng tôi đã thực hiện đề tài:”So
sánh phương pháp đặt nòng silicon một lệ quản
Mini-monoka và hai lệ quản hình vòng trong
phục hồi lệ quản chấn thương”.

86

Cỡ mẫu mỗi nhóm là 43.

Các bước tiến hành
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên:

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Các trường hợp đứt lệ quản nhập khoa
Chấn thương thỏa các điều kiện chọn mẫu được
bốc thăm ngẫu nhiên chia thành hai lô: số lẻ lô 1,
số chẵn lô 2.
+ Lô 1: Dùng phương pháp nối lệ quản với

nòng silicone một lệ quản Mini Monoka có nút
cài ở điểm lệ.
+ Lô 2: Dùng phương pháp nối lệ quản với
nòng silicone hai lệ quản hình vòng (sử dụng
thông đuôi heo để đặt nòng).
Cả 2 lô được phẫu thuật bởi 1 bác sĩ.

Phương pháp phẫu thuật
- Phương pháp nối lệ quản với nòng
silicone một lệ quản Mini-monoka có nút cài
ở điểm lệ: Nong điểm lệ chú ý chỉ nong vừa
đủ rộng để đặt ống. Nếu quá rộng dễ làm rớt
ống. Đặt ống từ điểm lệ đến đầu ngòai lệ
quản đứt. Cài nút ống silicone vào điểm lệ.
Tiếp tục đặt ống qua đầu trong chỗ đứt vào
túi lệ và ống lệ mũi. Chúng tôi vẫn để nguyên
kích thước ống silicon (40mm) chứ không xén
bớt còn 20mm như các sách hướng dẫn, điều
này giúp chúng tôi dễ dàng thao tác khâu nối
tận tận, mặt khác với sự kiểm soát chặt chẽ
quá trình khâu nối không làm tổn thương lệ
quản lành nên chúng tôi mở rộng chỉ định
cho tất cả các trường hợp đứt lệ quản 1/3
trong.
- Phương pháp nối lệ quản với nòng silicone
hai lệ quản hình vòng (sử dụng xông đuôi heo
để đặt nòng):
+ Để tránh biến chứng đi lạc đường, chúng
tôi phải tìm cho được đầu trong lệ quản đứt
để luồn thông đuôi heo từ đây lên điểm lệ của

lệ quản lành. Trường hợp không tìm được
đầu trong chỗ đứt hoặc không thể đặt thông
đuôi heo từ vị trí này, chúng tôi sẽ chuyển
phương pháp khác.
+ Nong điểm lệ trên và dưới, chú ý chỉ nong
vừa đủ rộng nếu không dễ làm rách vòng xơ
quanh điểm lệ.
+ Đặt chỉ vào 2 lệ quản.

Nghiên cứu Y học

quản đứt đi ngược lên lệ quản lành, luồn
chỉ nylon 6.0 vào lỗ xỏ của thông rồi đi ngược
lại đề đặt chỉ từ lệ quản lành đến đầu trong lệ
quản đứt. Kế đó thông đuôi heo đi từ điểm
lệ của lệ quản đứt đến đầu ngoài lệ quản đứt rồi
xỏ sợi chỉ đã luồn đến đầu trong vào lỗ xỏ rồi
kéo ra ngoài. Khi đó sợi chỉ nylon 6.0 đã ở cả lệ
quan trên và dưới.
+ Đặt ống silicone vào 2 lệ quản.
+ Cắt đọan ống silicone dài 2,5cm. Luồn vào
sợi chỉ nylon 6.0 vào lòng ống silicone trên.
Theo đường dẫn của chỉ, đặt ống silicone vào 2
lệ quản. Cột chỉ khoảng 5-6 nốt vuông, khi đó ta
đã biến đoạn silicon trên thành hình vòng đi
qua 2 lệ quản. Đẩy mối chỉ vào lòng ống silicon
để tránh gây kích thích cho lệ quản, sau đó đẩy
chỗ nối ống silicone vào lệ quản lành.
- Khâu nối lệ quản tận tận và phục hồi góc
trong (chung cho cả 2 phương pháp).

+ Nếu đứt ở gần điểm lệ, khi đó lệ quản gần
sát da và niêm mạc, ta có thể khâu các thành
bằng chỉ vicryl 7.0, 8.0 ba nốt ở (1) bờ mi, (2) da
mi, (3) kết mạc.
+ Trường hợp đứt lệ quản ở sâu hơn (1/3
giữa đến 1/3 trong). Khi đó, lệ quản đi xuống
sâu hơn, nằm giữa hai gân trực tiếp và gân
quặt sau, đồng thời hai lệ quản càng nằm gần
sát nhau nên khi khâu nếu không chú ý sẽ gây
tổn thương cho lệ quản lành. Khâu nối lệ
quản và các mô xung quanh lệ quản bằng 3
nốt vicryl 6.0 ở thành sau, trước trên, trước
dưới. Các nút chỉ quay ra ngoài.
- Với kiểu bị nhổ bật góc trong (complete
avulsion of the medial canthus), khâu nhánh sau
của dây chằng mi trong vào màng xương vùng
mào lệ sau bằng chỉ không tan 5/0 hoặc 6/0 (chỉ
Prolene, Dacron,...).

Xử lý và phân tích số liệu
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS phiên
bản 11.2. Test Chi2 được dùng để so sánh các tỷ
lệ và phân tích liên quan giữa các biến số, t test
được dùng để so sánh 2 số trung bình.

+ Dùng thông đuôi heo đi từ đầu trong lệ

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

87



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học
KẾT QUẢ

Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của dân số
nghiên cứu
Tuổi trung bình 38,98 ± 13,2, nam 72,1%; nữ
27,9%. Lao động phổ thông 44,8%.
Lệ quản tổn thương: lệ quản trên 10,5%, lệ
quản dưới 80,2%, cả hai lệ quản 9,3%.
Vị trí đứt lệ quản: 1/3 ngoài 12,8%; 1/3 giữa
54,2%; 1/3 trong 33%.
Mắt chấn thương: mắt phải 40,7%, mắt trái
59,3%.

Biến chứng
Nhóm đơn n (%) Nhóm vòng n (%)
Phản ứng viêm tại
3 (6,5)
0 (0,0)
điểm lệ

Bảng 4: Ảnh hưởng các yếu tố nguy cơ lên sự thành
công
Các yếu tố
Thời gian trước mổ
Có khâu da tuyến trước

Vị trí đứt lệ quản
Đứt lệ quản phức tạp
Đứt 2 lệ quản

Thành công
chức năng
≥ 1 tuần (+)
(+)
(−)
(+)
(+)

Thành công
giải phẫu
≥ 2 tuần (+)
(−)
(−)
(+)
(+)

Ghi chú: (−) không ảnh hưởng, (+) có ảnh hưởng.

Chấn thương trực tiếp51,2%, gián tiếp
48,8%.

BÀN LUẬN

Nguyên nhân tai nạn giao thông 52,3%, tai
nạn sinh hoạt 16,3%, tai nạn lao động 15,1%, ẩu
đả 16,3%.


Đa số các trường hợp đứt lệ quản trong hai
nhóm ở lứa tuổi lao động (87,2%). Tai nạn giao
thông là nguyên nhân chính gây đứt lệ quản
chiếm tới 52,3%, cao hơn gấp 3 lần các nguyên
nhân còn lại. Các nghiên cứu khác ở Việt nam
đều cho thấy tai nạn giao thông là nguyên nhân
hàng đầu(6,7,10,11). Trong khi ở các nước phát triển,
cho thấy nguyên nhân ẩu đả và chó cắn chiếm
tỷ lệ ưu thế(6,10). Có đến 75,6% bệnh nhân từ các
tỉnh thành khu vực phía Nam đến các bệnh viện
lớn như bệnh viện Mắt TP.HCM, bệnh viện Chợ
Rẫy, nơi có điều kiện làm vi phẫu. Điều này
chứng tỏ kỹ thuật này còn là một nhu cầu cần
thiết chưa đáp ứng được ở tuyến cơ sở. Tỷ lệ đứt
lệ quản trên trong nghiên cứu này10,5% hơi cao
hơn Vương Văn Quý(11) (2,2%) có lẽ vì tỷ lệ chấn
thương trực tiếp hơi cao hơn so với chấn thương
gián tiếp. Tính chất đứt lệ quản phức tạp chiếm
39/86 ca (45,3%) tương đương tác giả Vương
Văn Quý 42,14%.

Thời gian chấn thương đến khi mổ: dưới 1
tuần: 84,9%, trên 1 tuần15,1%.
Đứt lệ quản đơn giản 54,7%, phức tạp 45,3%.

So sánh tính hiệu quả của hai phương
pháp
Bảng 1: Tỷ lệ bệnh nhân hết chảy nước mắt sau mổ
Phương Tỷ lệ% bệnh nhân hết chảy nước mắt sau

pháp phẫu
mổ ở các thời điểm
thuật
1 tuần
1 tháng
3 tháng
6 tháng
Ống đơn
34,9
62,8
74,4
81,4
Ống vòng
20,9
37,2
58,1
76,7

Bảng 2: Tỷ lệ thành công của hai phương pháp ở thời
điểm 6 tháng sau mổ
Phương pháp
phẫu thuật
Ống đơn
Ống vòng

Thành công chức Thành công giải
năng
phẫu
81,4%
84,8%

74,4%
87,5%

Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của 2 nhóm

So sánh tính an toàn của hai phương pháp

So sánh tính hiệu quả của 2 phương pháp

Bảng 3: Tần số biến chứng của hai phương pháp

Tỷ lệ hết chảy nước mắt sống ở phương
pháp dùng ống Mini-monoka tốt hơn nhóm
sử dụng ống vòng ở các thời điểm một tuần,
một tháng, ba tháng và sáu tháng. Tuy nhiên,
chỉ ở thời điểm một tháng sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Sau khi rút ống, tỷ lệ hết chảy
nước mắt ở nhóm ống vòng tăng nhanh đến
thời điểm sáu tháng hai tỷ lệ này gần tương

Biến chứng
Rớt ống
Lật điểm lệ
Lật mí
Rách lệ quản
Khuyết chữ V mi
mắt
Mòn bờ mi
U hạt


88

Nhóm đơn n (%) Nhóm vòng n (%)
4 (8,7)
0(0,0)
3 (6,5)
1 (2,1)
1 (2,2)
1 (2,1)
0 (0,0)
6 (12,5)
2 (4,2)
1 (2,2)
0 (0,0)
1 (2,2)

6 (12,5)
1 (2,1)

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
đương nhau. Không còn ca nào chảy nước
mắt thường xuyên ở cả hai nhóm. Ở nhóm
Mini-monoka, đa số vẫn còn một lệ quản
nguyên vẹn còn hoạt động nên có thể làm bù
cho lệ quản tổn thương. Lissner và Christian
thấy rằng một lệ quản đơn độc cũng đủ dẫn
lưu nước mắt ở điều kiện bình thường(3). Điều

này giải thích nhóm đơn có ưu điểm làm hết
triệu chứng chảy nước mắt sớm hơn nhóm
vòng.
Ở nhóm ống vòng, cả hai lệ quản đều đặt
ống silicon có kích thước tương đương lệ quản,
gây cản trở cơ học cho sự dẫn lưu nước mắt
trong thời gian đầu. Sau một thời gian, hai lệ
quản có dãn ra nhờ tác dụng nong của ống
silicon nên có tăng tỷ lệ hết chảy nước mắt
nhưng chậm. Sau khi rút ống, cản trở cơ học
không còn nên tỷ lệ hết chảy nước mắt tăng
nhanh ở thời điểm sáu tháng tương đương
nhóm đặt ống Minimonoka.
Hiệu quả dẫn lưu tốt nước mắt qua
nghiệm pháp thoát màu Fluorescein tại thời
điểm 6 tháng ở hai nhóm tương đương nhau
(81,4% so với 79,1%).
Cách tính tỷ lệ thành công chung về chức
năng của chúng tôi là:
Tỷ lệ thành công chung về chức năng là
không chảy nước mắt đồng thời có nghiệm
pháp thoát màu Fluorescein dương tính (ở thời
điểm sáu tháng).
Tỷ lệ thành công chung về chức năng ở
nhóm ống đơn là 35 ca (81,4%), cao hơn tỷ lệ
thành công chung về chức năng ở nhóm ống
vòng là 32 ca (74,4%) tuy nhiên sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê (p=0,4).
Tỷ lệ thành công chung về chức năng trong
công trình nghiên cứu của chúng tôi có thấp

hơn một số công trình nghiên cứu khác. Tuy
nhiên các tác giả này thường chỉ dùng triệu
chứng chảy nước mắt (chức năng chủ quan)(5,8,10)
hoặc đánh giá riêng từng chức năng(1) để tính tỷ
lệ thành công, còn chúng tôi đánh giá cả hai
chức năng khách quan và chủ quan nên cách

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

Nghiên cứu Y học

đánh giá này toàn diện, chặt chẽ và khoa học
hơn dù tỷ lệ thành công có thấp hơn.
Cách tính tỷ lệ thành công chung về giải
phẫu của chúng tôi là:
Tỷ lệ thành công chung về giải phẫu = có
dấu chạm cứng + bơm rửa lệ đạo nước thoát
xuống miệng tốt (ở thời điểm sáu tháng).
Tỷ lệ thành công chung về giải phẫu ở nhóm
ống Mini Monoka là 39 lệ quản (84,8%) hơi thấp
hơn so với nhóm ống vòng là 43 lệ quản (89,6%),
tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (p=0,48).
Về phương pháp đặt ống silicon hai lệ
quản hình vòng, tỷ lệ thành công của chúng
tôi hơi cao hơn Nguyễn Thị Đợi có thể vì (1)
tác giả Nguyễn Thị Đợi và cộng sự đã ứng
dụng kỹ thuật đặt ống silicon vòng đầu tiên
tại Việt Nam nên một số phẫu thuật viên chưa
có kinh nghiệm nối hai đầu lệ quản đứt không

áp sát nhau, sự liền sẹo không liên tục nên tổ
chức xơ xâm lấn vào vào ống lệ quản dẫn đến
tắc lệ quản, (2) thông đi lạc đường, (3) đặt ống
thô bạo(7). So sánh với tác giả Vương Văn Quý
thì hai tỷ lệ này gần tương đương có thể vì
chúng tôi đều tìm đầu trong lệ quản đứt trước
để kiểm soát được đường đi của thông đuôi
heo và sử dụng kỹ thuật đi “xuôi dòng” thay
vì đi ngược dòng như kinh điển nên hạn chế
được nhược điểm của phương pháp này.
Về phương pháp đặt ống Minimonoka, tỷ lệ
thành công của chúng tôi hơi cao hơn Anastas
có lẽ vì tỷ lệ rớt ống sớm của tác giả này lến đến
29% và ống lạc chỗ 14%(1) so với tỷ lệ rớt ống của
chúng tôi là 8,7%. Nếu so sánh hai phương pháp
với các tác giả khác nhau thì tỷ lệ thành công
của phương pháp ống vòng (81% và 86,8%)(1,9)
tương đương với ống Minimonoka (79% và
90%)(1,8). So sánh hai phương pháp ngẫu nhiên,
có đối chứng trong công trình nghiên cứu này
cũng cho kết quả tương tự (89,6% so với 84,8%).
Điều này khẳng định việc kêu gọi loại bỏ
phương pháp sử dụng ống vòng là không có cơ
sở khoa học.

89


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

So sánh tính an toàn của hai phương pháp
mổ
Biến chứng rớt ống biến chứng rớt ống ở
nhóm ống đơn 4 ống (8,7%) trong khi ở nhóm
ống vòng không có trường hợp nào. Một số
nguyên nhân có thể giải thích cho những trường
hợp này. (1) Những vết thương đứt lệ quản có
kèm tổn thương hoặc xây sát vùng điểm lệ có
thể làm biến dạng cấu trúc giải phẫu điểm lệ
dẫn đến sự cố định ống không chắc chắn. (2)
Cấu trúc ở điểm lệ có những vòng xơ, khi ta
nong điểm lệ mạnh tay, dễ làm đứt các vòng xơ
này từ đó điểm lệ không ôm khít ống silicon tại
vị trí được cài vào điểm lệ. (3) bình thường điểm
lệ úp mặt vào kết mạc nhãn cầu vùng hồ lệ, khi
tái tạo cấu trúc góc trong không tốt hoặc quá
trình viêm phù nề vết thương làm lật điểm lệ ra
ngoài và nếu bệnh nhân không cẩn thận khi vệ
sinh mi mắt có thể làm rớt ống. Còn đối với
nhóm ống vòng, chúng được luồn một sợi chỉ
nylon 6/0 và thắt từ 5 đến 7 nốt vuông sau đó
được kéo luồn vào trong lòng ống silicon nên
chúng được cố định rất tốt.
Biến chứng rách lệ quản, mòn bờ mi nhóm
ống vòng có 6 ca rách lệ quản, 6 ca mòn bờ mi
và chúng tôi không gặp biến chứng này ở nhóm
ống đơn.
Rách lệ quản xảy ra khi ống silicon quá

ngắn, khi mở mắt lực căng lớn tác động vào lệ
quản gây rách lệ quản về phía trong điểm lệ.
Theo Burns(2), vết rách lệ quản từ 1-3 mm không
ảnh hưởng đến chức năng lệ đạo. Trong lô
nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các trường hợp
rách lệ quản đều có kích thước ≤ 2mm và không
ảnh hưởng kết quả điều trị. Mòn bờ mi xảy ra
khi ống silicon quá dài, khi nhắm mắt ống
silicon đè lên bờ mi gây mòn bờ mi phía ngoài
điểm lệ và có thể gây kích thích kết giác mạc.
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi, có 6 ca bị
mòn bờ mi và kích thước cũng không quá 2 mm
và không ảnh hưởng kết quả điều trị.
Kích thước đoạn silicon có thể từ 20 -25 mm.
Do tại khoa chúng tôi chỉ điều trị cho người lớn
nên chúng tôi lấy kích thước cố định 25mm và

90

không chỉnh sửa trong quá trình phẫu thuật vì
các lý do sau: (1) phần lệ quản mi mắt có thể
phù nề làm tăng kích thước lệ quản giả tạo, nếu
ta tăng kích thước đoạn ống silicon thì sau khi
hết phù nề, đoạn silicon này sẽ quá dài không
thích hợp gây mòn bờ mi. (2) Đoạn lệ quản đứt
có thể co rút lại, nếu ta cắt ngắn đoạn ống
silicon thì sau khi lệ quản hết co rút, đoạn
silicon này sẽ quá ngắn gây rách lệ quản trầm
trọng. (3) Trong lô nghiên cứu của chúng tôi, có
6 trường hợp ống silicon ngắn gây rách lệ quản

12,5%, có 6 trường hợp ống silicon dài gây mòn
bờ mi 12,5%. Chiều dài ống silicon 25mm thích
hợp cho phần lớn các trường hợp (75%).
Các yếu tố nguy cơ: Ba yếu tố hàng đầu ảnh
hưởng đến kết quả điều trị là bệnh nhân đứt hai
lệ quản và đứt lệ quản phức tạp, đến trễ trên 1
tuần. Có thể xem chúng như là yếu tố tiên lượng
trong điều trị đứt lệ quản (bảng 4). Vị trí đứt lệ
quản không làm ảnh hưởng đến kết quả điều trị
chứng tỏ ống Minimonoka có thể áp dụng trong
trường hợp đứt lệ quản 1/3 trong an toàn.

KẾT LUẬN
Tỷ lệ thành công chức năng và giải phẫu cả
hai nhóm tương đương nhau ở thời điểm sau
mổ 6 tháng. Nhóm ống Mini-monoka có hiệu
quả giảm chảy nước mắt sớm và ít tổn thương lệ
quản hơn nhóm ống vòng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.
4.

5.

6.


Anastas CN, Potts MJ, Raiter J (2001). “Mini Monoka silicone
monocanalicular lacrimal stents: Subjective and objective
outcomes”. Orbit, 20(3): 189 – 200.
Burns JA (1984). “Management of complications associated with
silastic tube intubation of the nasal lacrimal drainage system".
Advances In Ophth.Plast. Reconstr. Surg, 3: 283 – 288.
Christian C, Lissner G (1990). “Clinical evaluation of the one
canalicular system”. Invest Ophthalmol (ARVO suppl), 31: 610.
Fayet B, Bernard JA, Pouliquen Y (1989). “Repair of recent
canalicular wounds using a monocanalicular stent”. Bull Soc
Ophtalmol, 89: 819 – 825.
Naik MN, Kelapure A, Rath S et al (2008). “Management of
Canalicular Lacerations: Epidemiological Aspects and
Experience with MiniMonoka Monocanalicular Stent”. Am J
Ophthalmo, 145: 375 – 380.
Nguyễn Thị Bích Liên (2002). „Đánh giá kết quả điều trị đứt lệ
quản chấn thương bằng phương pháp khâu nối tận tận kết hợp
đặt lưu nòng silicone”. Luận văn Thạc sĩ Y khoa, Đại học Y Dược
TP.HCM.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
7.

8.

Nguyễn Thị Đợi (2001). „Kết quả phẫu thuật phục hồi lệ quản

chấn thương – So sánh hai phương pháp đặt chỉ và đặt ống si-licôn”. Nội san nhãn khoa, 4: 44 – 50.
Pongsapak Promchot (2007). “Results of Lacrimal Duct Injury
Treatment at Phrae Hospital: A Comparison between
Microscopic and Pigtail Probe Methods”. The THAI Journal of
surgery, 28: 61 – 64.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

9.

10.

11.

Nghiên cứu Y học

Sauders DH, Shannon GM, Flanagan JC (1978). “The
effectiveness of the pigtail probe method of repairing canalicular
lacerations”. Ophthalmic Surg. 9: 33 – 40.
Vũ Anh Lê và cs (2002). “Đánh giá kết quả bước đầu phục hồi
mi mắt lệ quản chấn thương với ống si-li-côn”. Y học Thành phố
Hồ Chí Minh, chuyên đề nhãn khoa, 6(4): 30 – 36.
Vương Văn Quý (2005). “Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật
phục hồi lệ quản đứt do chấn thương bằng ống si-li-côn”. Luận
án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội.

91




×