Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kháng thể đồng đặc hiệu - một hướng đi mới trong liệu pháp miễn dịch chống ung thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.33 KB, 6 trang )

Trần Thị Thanh Hương

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

187(11): 75 - 80

KHÁNG THỂ ĐỒNG ĐẶC HIỆU – MỘT HƯỚNG ĐI MỚI
TRONG LIỆU PHÁP MIỄN DỊCH CHỐNG UNG THƯ
Trần Thị Thanh Hương*
Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT
Liệu pháp miễn dịch ung thư được đề xuất cách đây nhiều thập kỷ nhưng gần đây mới được nhận
ra là một hướng tiếp cận đầy hứa hẹn để cách mạng hóa việc điều trị ung thư. Kháng thể đồng đặc
hiệu đóng vai trò tập hợp các tế bào miễn dịch tham gia và tiêu diệt các tế bào khối u, chúng đang
được nghiên cứu ở giai đoạn lâm sàng và sẽ trở thành thế hệ tiếp theo của các liệu pháp dựa trên
kháng thể. Dựa trên hình dạng, các kháng thể đồng đặc hiệu có thể được chia thành 2 nhóm: Nhóm
giống IgG và các phân tử phân đoạn đồng đặc hiệu. Các kháng thể đồng đặc hiệu giống IgG giữ lại
cấu trúc của một phân tử IgG với một vùng Fc chức năng, nó có thể gây độc tế bào phụ thuộc
kháng thể hoặc độc tính gây độc có thể làm tăng thời gian bán hủy huyết thanh do kích thước phân
tử lớn và cơ chế tái chế FcRn qua trung gian. Tuy nhiên, việc sản xuất kháng thể loại này có một
số khó khăn nhất định về việc bắt cặp của chuỗi nặng và chuỗi nhẹ, người ta đã đề xuất một số giải
pháp để khắc phục vấn đề này. Các phân tử phân đoạn đồng đặc hiệu có khả năng liên kết kháng
nguyên mạnh, chúng có kích thước nhỏ hơn nên có khả năng thâm nhập mô khối u tốt hơn và đảm
bảo hiệu quả điều trị mạnh hơn.
Từ khóa: ung thư; miễn dịch; kháng thể đồng đặc hiệu; Fc; bắt cặp.

MỞ ĐẦU*
Ung thư là một trong những nguyên nhân
hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới. Sau
nhiều thập kỷ nghiên cứu và phát triển chuyên


sâu, tỷ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư đã
được cải thiện đáng kể. Ví dụ, bệnh bạch cầu
myeloid mãn tính (CML - chronic myeloid
leukemia), vốn từng là một căn bệnh gây tử
vong do phản ứng tổng hợp oncogene BCRABL thì nay có thể dễ dàng kiểm soát nhờ các
thuốc ức chế tyrosine kinase [1]. Tuy nhiên,
đối với nhiều bệnh ung thư khác, vẫn còn
thiếu phương pháp điều trị hiệu quả.
Liệu pháp miễn dịch ung thư được đề xuất
cách đây nhiều thập kỷ nhưng gần đây mới
được nhận ra là một hướng tiếp cận đầy hứa
hẹn để cách mạng hóa việc điều trị ung thư.
Điều trị miễn dịch ung thư, khai thác hệ thống
miễn dịch của cơ thể để chống ung thư, được
đặt tên là "Bước đột phá của năm 2013" của
khoa học. Liệu pháp miễn dịch chống ung thư
trở thành một phương pháp đột phá xuất phát
từ sự thành công của các kháng thể kiểm soát
miễn dịch điểm, đó là kháng thể đơn dòng
*

Tel: 01652 314946, Email:

chống CTLA-4 (cytotoxic T-lymphocyte–
associated antigen 4) và 2 kháng thể đơn dòng
kháng
PD-1(programmed
death
1)
(nivolumab và pembrolizumab), chúng đều có

hiệu quả chống lại nhiều loại khối u rắn, bao
gồm khối u ác tính, ung thư biểu mô phổi và
ung thư biểu mô thận [6]. Những nghiên cứu
này cho thấy rằng sự biến đổi của hệ thống
miễn dịch là một cách khả thi để chống ung
thư. Trái ngược với hóa trị liệu truyền thống
và liệu pháp nhắm mục tiêu, chủ yếu tập trung
vào các tế bào ung thư, liệu pháp miễn dịch
chống ung thư giúp bệnh nhân có thể kích
hoạt hệ miễn dịch để nhận biết và chống lại
các tế bào ung thư. Hiện nay, các kháng thể
điều hòa miễn dịch, kháng thể đồng đặc hiệu,
các thụ thể kháng nguyên đối với tế bào T và
các công nghệ khác vẫn đang được nghiên
cứu rất tích cực. Trong số đó, kháng thể đồng
đặc hiệu đang được nghiên cứu ở giai đoạn
lâm sàng và sẽ trở thành thế hệ tiếp theo của
các liệu pháp dựa trên kháng thể.
Trong bài báo này, chúng tôi sẽ thảo luận về
một loại kháng thể mới - kháng thể đồng đặc
hiệu, chúng đóng vai trò tập hợp các tế bào
miễn dịch tham gia và tiêu diệt các tế bào
khối u.
75


Trần Thị Thanh Hương

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ


NỘI DUNG
Các ưu điểm của kháng thể đồng đặc hiệu
Sử dụng kháng thể đồng đặc hiệu là một
chiến lược đầy hứa hẹn để chống lại ung thư
bằng cách trực tiếp thu hút các tế bào miễn
dịch trong cuộc chiến chống lại các tế bào
khối u.
Vậy kháng thể đồng đặc hiệu là gì? Kháng
thể đồng đặc hiệu là loại kháng thể có thể
nhận biết và liên kết hai kháng nguyên khác
nhau cùng một lúc. Chúng có thể được tạo ra
theo nhiều cách, hơn 50 năm trước đây, một
kháng thể đồng đặc hiệu có thể được tạo ra
bằng cách tái tổ hợp hai hợp chất hóa học
được oxy hóa của hai kháng thể đơn dòng
tinh khiết khác nhau [9]. Tuy nhiên, trong khi
một kháng thể thông thường chỉ liên kết với
một mục tiêu cụ thể, thì một kháng thể đồng
đặc hiệu có thể nhận biết và liên kết hai kháng
nguyên khác nhau cùng một lúc. Dựa vào lợi
thế này, kháng thể đồng đặc hiệu có thể được
thiết kế để ức chế cùng lúc hai thụ thể trên bề
mặt tế bào hoặc phối tử [4 ].
Phải thừa nhận rằng, hiệu quả tương tự cũng
có thể đạt được bằng cách kết hợp hai hoặc
nhiều kháng thể đơn dòng với nhau, tuy
nhiên, sử dụng kháng thể đồng đặc hiệu giúp
giảm hàng loạt chi phí về thử nghiệm lâm
sàng cũng như quy trình sản xuất. Một ưu
điểm khác của kháng thể đồng đặc hiệu là nó

có thể chuyển hướng các tế bào phản ứng
miễn dịch đến gần các tế bào khối u, điều này
không thể đạt được nếu sử dụng kháng thể
đơn dòng kết hợp.
Ngày nay, kỹ thuật sinh học phân tử đã được
ứng dụng rộng rãi để tạo ra nhiều loại kháng
thể khác nhau. Kỹ thuật di truyền cũng giúp
chúng ta linh hoạt hơn trong việc thiết kế một
kháng thể đồng đặc hiệu về kích thước, hóa
trị, tính đặc hiệu, chu kỳ bán rã và phân phối
sinh học. Những kháng thể đồng đặc hiệu này
đại diện cho nhiều dạng công nghệ, bao gồm
TrioMab, hoạt động tế bào T không chính xác
(BiTE), kháng thể song song (TandAbs), đoạn
Fv chuỗi đơn IgG (scFv), CrossMab.
76

187(11): 75 - 80

Hầu hết các kháng thể đồng đặc hiệu là đặc
hiệu đối với CD3 để thu nhận tế bào T vào tế
bào khối u, do đó nó được nhắm tới bởi một
loạt các kháng thể đặc hiệu kháng nguyên
khối u. Các tế bào T được tuyển chọn, sau đó
chúng gây độc tế bào mạnh đối với các tế bào
khối u. Ngoài các tế bào T, tế bào giết tự
nhiên (NK – natural killer) và tế bào đuôi gai
(DC- dendritic cell) cũng đã được nhắm mục
tiêu bởi các kháng thể đồng đặc hiệu.
Dựa trên hình dạng, các kháng thể đồng đặc

hiệu có thể được chia thành 2 nhóm: Nhóm
giống IgG và các phân tử phân đoạn đồng
đặc hiệu.
Các kháng thể đồng đặc hiệu giống IgG giữ
lại cấu trúc của một phân tử IgG với một
vùng Fc chức năng. Vùng Fc tạo điều kiện
thanh lọc, cải thiện khả năng hòa tan và tính
ổn định. Hơn nữa, vùng Fc có thể gây độc tế
bào phụ thuộc kháng thể hoặc độc tính gây
độc có thể làm tăng thời gian bán hủy huyết
thanh do kích thước phân tử lớn và cơ chế tái
chế FcRn qua trung gian. Những tính năng
này có thể hữu ích cho một số ứng dụng trị
liệu [5].
Ngược lại, các phân tử phân đoạn đồng đặc
hiệu thiếu các vùng Fc nên chúng chỉ dựa vào
khả năng liên kết kháng nguyên của chúng để
thực hiện các hoạt động trị liệu của mình. Tuy
nhiên, do các phân tử phân đoạn đồng đặc
hiệu có kích thước nhỏ hơn nên nó có khả
năng thâm nhập mô khối u tốt hơn và đảm
bảo hiệu quả điều trị mạnh hơn.
Cơ chế tác dụng của kháng thể đồng đặc hiệu:
Kháng thể đồng đặc hiệu liên kết cùng lúc hai
loại kháng nguyên khác nhau. Trong hình 1,
nhánh thứ nhất của kháng thể đồng đặc hiệu
liên kết với kháng nguyên của tế bào khối u,
nhánh thứ hai liên kết với một yếu tố ràng
buộc CD3 trên bề mặt của tế bào T. Điều này
dẫn đến sự liên kết chéo giữa tế bào khối u và

tế bào đáp ứng (tế bào giết tự nhiên,
macrophages), đồng thời kích hoạt tế bào T,
kết quả là tế bào ung thư được nhắm mục tiêu
và dễ dàng bị giết chết.


Trần Thị Thanh Hương

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

187(11): 75 - 80

quadroma tương tự. Ví dụ: FTBA05 (được
thiết kế để chuyển hướng các tế bào lympho T
đến các tế bào lympho B bằng cách nhắm vào
CD20) và ertumaxomab (được thiết kế chống
lại các tế bào khối u biểu hiện HER2) hiện
đang trong các giai đoạn phát triển lâm sàng
khác nhau cho bệnh nhân bị u lympho tế bào
B bị tái phát hoặc ung thư vú di căn [12].

Hình 1. Kháng thể đồng đặc hiệu
(Nguồn: Internet)

Định dạng kháng thể đồng đặc hiệu giống IgG
Đây là một định dạng thường sử dụng của
kháng thể đồng đặc hiệu, sự đồng đặc hiệu có
thể đạt được thông qua sự hợp nhất của hoặc
là nhóm carboxyl, hoặc là gốc amin của một
trong hai chuỗi nặng hoặc chuỗi nhẹ với các

đơn vị liên kết kháng nguyên bổ sung.
Kháng thể đồng đặc hiệu ở dạng này là
catumaxomab (năm 2009), được phát triển để
điều trị bệnh cổ trướng ác tính ở những bệnh
nhân có khối u dương tính với EpCAM, nó
cũng đang được thử nghiệm lâm sàng giai
đoạn I chống lại ung thư dạ dày và các thử
nghiệm pha I/II chống ung thư biểu mô.
Catumaxomab được sản xuất từ chuột lai,
chúng tạo ra kháng thể lai của IgG2b và
IgG2a của chuột với khả năng chống chịu
CD3 và chống EpCAM. Phân đoạn Fab kháng
EpCAM của catumaxomab có thể bám với
các tế bào khối u – chúng biểu hiện EpCAM,
còn phân đoạn Fa kháng CD3 có thể tập hợp
các tế bào lympho T đến các tế bào khối u.
Vùng Fc của catumaxomab có thể liên kết và
kích hoạt các tế bào là thụ thể tích cực Fcγ,
chẳng hạn như tế bào mono, đại thực bào, DC
và tế bào NK (natural killer). Catumaxomab
thể hiện khả năng gây độc tế bào đối với các
tế bào ung thư buồng trứng, ngăn ngừa hoặc
làm giảm sự tích tụ của cổ trướng [3].
Một số kháng thể đồng đặc hiệu khác đã được
tạo ra bằng cách sử dụng công nghệ

Việc sản xuất kháng thể lai đồng đặc hiệu là
một thách thức lớn bởi vì các dạng kháng thể
được tiết ra không đồng nhất, ngoài ra các
chuỗi nhẹ có thể không khớp với các chuỗi

nặng không cùng họ.
Sự đồng hóa của hai chuỗi IgG nặng được
cảm ứng bởi sự tương tác giữa các miền CH3.
Để khắc phục vấn đề về việc bắt cặp của các
chuỗi nặng không mong muốn, người ta đã
phát triển chiến lược “nút bấm vào lỗ”.
Phương thức nút bấm vào lỗ sử dụng một
“nút” đột biến (T366W) và ghép nối với các
“lỗ” đột biến trong các vùng CH3. Trên cơ sở
của phương pháp này, một loạt các chiến
lược khác được đề xuất để tăng khả năng tạo
chuỗi nặng dị hợp như sử dụng các đột biến
thay thế và lai các vùng CH3 bắt nguồn từ
IgG và IgA [1].
Ngoài việc bắt cặp của chuỗi nặng, một vấn
đề khác với các kháng thể đồng đặc hiệu ở
dạng IgG là vấn đề bắt cặp của chuỗi nhẹ. Để
khắc phục vấn đề này, người ta đã biểu hiện
và thanh lọc các nửa kháng thể chứa “nút”
hoặc “lỗ” thành hai dạng tế bào chủ, tiếp theo
là lắp ráp trong ống nghiệm thành các kháng
thể đồng đặc hiệu đầy đủ. Một lợi thế lớn của
chiến lược lắp ráp trong ống nghiệm là khả
năng ứng dụng rộng rãi của nó đối với các
kháng thể đã tồn tại từ trước, do đó làm giảm
chi phí nghiên cứu và phát triển. Ngoài ra, hai
chuỗi nhẹ khác nhau thường tăng áp lực liên
kết kháng nguyên và tính đặc hiệu của kháng
thể tạo ra [8].
Một giải pháp khác cho các vấn đề với ghép

nối chuỗi nặng và chuỗi nhẹ là kết hợp một
đơn vị liên kết kháng nguyên thứ hai với đầu
cuối N hoặc C của một trong hai chuỗi nặng
77


Trần Thị Thanh Hương

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

187(11): 75 - 80

hoặc chuỗi nhẹ của kháng thể đơn dòng đầu
tiên của cha mẹ để đạt được cả hai tính đa
dạng và lưỡng tính. Trong trường hợp này,
các đơn vị liên kết kháng nguyên có thể là các
đoạn Fc đơn lẻ (scFv- single-chain Fv
fragment) hoặc các kháng thể đơn miền (VLvariable light chain domain) hoặc (VHvariable heavy chain domain). Người ta có
thể thu được loại kháng thể có khả năng bám
đặc hiệu cao hơn nhờ sự bám đồng thời giữa
kháng nguyên với tất cả các vùng biến đổi.

Mặc dù BiTEs có chu kỳ bán rã ngắn trong
huyết thanh (vì chúng thiếu vùng Fc và có
kích thước phân tử tương đối nhỏ), chúng có
hiệu quả và có thể gây độc tế bào khối u cụ
thể ở nồng độ picomolar trong ống nghiệm.
BiTE có thể gây kích hoạt tế bào T đa dòng
phụ thuộc vào kháng nguyên, có khả năng
gây độc qua trung gian tế bào T và gây tăng

sinh tế bào T và nó có liên quan đến khả năng
hoạt hóa hiệu quả của phức hợp thụ thể tế bào
T (TCR).

Dạng đoạn đồng đặc hiệu

Kháng thể blinatumomab BiTE (AMG 103,
MT103) được Cơ quan Quản lý Thực phẩm
và Dược phẩm Hoa Kỳ phê duyệt để điều trị
bệnh nhân có bệnh bạch cầu lympho B-ALL
cấp tính của bệnh nhân nhiễm sắc thể B (BALL). Blinatumomab bao gồm 2 scFv, một
nhắm mục tiêu CD19 và một chống lại CD3,
với hằng số phân ly cân bằng (KD) 10-9 và 107
M tương ứng. Sau khi tiếp hợp với các tế bào
T thông qua miền chống CD3, blinatumomab
tạo ra một khớp thần kinh miễn dịch cấu trúc
với các tế bào CD19+, dẫn đến hoạt hóa tế bào
T và gây độc tế bào đối với tế bào CD19+. Cả
hai tế bào T CD4+ và CD8+ có thể được cảm
ứng để sinh sôi nảy nở và tham gia gây độc
mà không cần sự kích thích trước đó. Perforin
và granzyme biểu hiện tăng sau khi tham gia
với phức hợp, dẫn đến sự phân giải tế bào của
các tế bào CD19+. Blinatumomab đã được
chứng minh là có hiệu quả, vì bệnh nhân ung
thư hạch không Hodgkin nhận blinatumomab
như một tác nhân duy nhất cho thấy quá trình
apoptosis của tế bào CD19+ ở liều thấp hơn
nhiều so với anti-CD20 mAb rituximab. Tuy
nhiên, blinatumomab đòi hỏi truyền tĩnh

mạch liên tục trong vài tuần bằng máy bơm di
động để đảm bảo hoạt hóa liên tục của các tế
bào T chống lại các tế bào đích do sự giải
phóng nhanh chóng của blinatumomab [2].

Dạng kháng thể đồng đặc hiệu này có thể
được tạo ra mà không cần một vài hay tất cả
các vùng hằng định của một kháng thể. Do
kích thước của nó nhỏ hơn so với kháng thể
khác nên nó có thể thâm nhập vào mô khối u
tốt hơn so với các dạng kháng thể giống IgG
khác. Tuy nhiên, kích thước nhỏ hơn cũng
làm giảm thời gian bán hủy huyết thanh. Một
cách tiếp cận phổ biến là kết hợp hai phân tử
scFv khác nhau theo định hướng VH-VL hoặc
VL-VH, với một mối liên kết ngắn (1–10
amino acid) giữa hai scFvs. Công nghệ DNA
tái tổ hợp cho phép xây dựng một kháng thể
đồng đặc hiệu ở các dạng biến đổi rất linh hoạt.
Một số dạng đã được đề xuất, bao gồm BiTE
(bispecific T-cell engager), TandAbs (tandem
antibody), DART (dual-affinity-retargeting
format) và ImmTac (immune-cell-mobilizing
monoclonal TCRs against cancer) [11].
Một kháng thể BiTE là một protein tái tổ hợp
55 kDa gồm 2 scFv. BiTE là một trong những
định dạng được đề xuất đầu tiên về kháng thể
đồng đặc hiệu và hiện là phương pháp tiên
tiến nhất để phát triển lâm sàng. Có 2 scFv,
một được thiết kế để liên kết với CD3 trên các

tế bào T và một liên kết với một kháng
nguyên liên quan đến khối u trên các tế bào
khối u trong dạng scFv. Phương pháp BiTE
có thể được mở rộng thông qua sự kết hợp
của một đoạn scFv thứ ba, tạo thành kháng
thể tam đặc hiệu hay tam hóa trị. BiTE được
sản xuất dưới dạng protein tái tổ hợp trong
các tế bào CHO.
78

Các BiTE khác trong các giai đoạn phát triển
khác nhau, nhắm vào các kháng nguyên liên
quan đến khối u như EGFR, EpCAM, protein
kích hoạt nguyên bào sợi, kháng nguyên tế
bào gốc tiền liệt tuyến (PSCA), HER2, kháng


Trần Thị Thanh Hương

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

nguyên carcinoembryonic (CEA), ephrin A2
(EphA2), MET và CD33. Một cách tiếp cận
tương tự liên quan đến sự biểu hiện của 2
mảnh scFv khác nhau bằng một liên kết peptit
ngắn cho phép sự phân hóa kép của 2 đoạn bổ
sung. Các đột biến có thể được đưa vào bề
mặt VL-VH để ưu tiên tính không đồng nhất
hóa qua quá trình đồng hóa để cải thiện năng
suất của định dạng mong muốn [10].

ImmTACs là các tác nhân đồng đặc hiệu hòa
tan bao gồm một scFv chống CD3 liên kết với
TCR có ái lực cao, nó nhận ra đích là các
phức hợp peptide MHC. ImmTAC nhận ra
các tế bào khối u thông qua một TCR ái lực
cao được thiết kế (thường là một TCR đơn
dòng) thay vì thông qua một đoạn kháng thể.
ImmTACs kích hoạt hoạt hóa tế bào T thông
qua synapse miễn dịch sinh học. TCR đơn
dòng trên ImmTAC có thể nhắm mục tiêu
kháng nguyên liên quan đến khối u nội bào
bằng cách nhận ra phức hợp MHC-peptide
(trên bề mặt tế bào) mà hiếm khi tiếp cận với
kháng thể. Khi tiếp xúc với các tế bào khối u,
ImmTACs bám đặc biệt với một phức hợp
MHC-peptid xác định được hiển thị trên bề
mặt tế bào thông qua việc nhận dạng dựa trên
TCR có ái lực cao. Sau đó, nhánh CD3 tập
hợp các tế bào T đa dòng, do đó, hình thành
một khớp thần kinh miễn dịch và cuối cùng
giết chết các tế bào khối u. Nhiều loại
ImmTAC đã được phát triển, bao gồm mục
tiêu gp100 (kháng nguyên phân biệt
melanocyte), MAGE-A3 (một loại ung thư
biểu hiện trong một loạt các khối u), MelanA/MART-1 (kháng nguyên dòng đặc trưng
được biểu hiện bằng u ác tính di căn) và NYESO-1 (một neoantigen ung thư thể hiện
trong đa u tủy). Hiện nay, ImmTACs tiên tiến
nhất, IMCgp100, đang trong giai đoạn thử
nghiệm ở bệnh nhân u ác tính [7].
KẾT LUẬN

Là thế hệ tiếp theo của chiến lược chống ung
thư, kháng thể đồng đặc hiệu đã nhận được
nhiều sự chú ý vì cơ chế hoạt động độc đáo
của chúng và tác dụng diệt khuẩn mạnh.

187(11): 75 - 80

Những tiến bộ trong tương lai của công nghệ
kháng thể đồng đặc hiệu sẽ tập trung vào việc
phát triển các định dạng kháng thể mới để phù
hợp với sự phức tạp của sinh học khối u.
Ngoài các kháng thể đồng đặc hiệu, người ta
cũng tập trung nghiên cứu sâu hơn về các
kháng thể đa kháng thể và kháng thể đa trị.
Bởi vì phần lớn các kháng thể đồng đặc hiệu
hiện đang nhắm đến các kháng nguyên bề mặt
tế bào khối u, thế nên phát hiện ra các mục
tiêu mới cũng rất cần thiết, bao gồm các
kháng nguyên bề mặt tế bào khối u mới và
phức hợp peptide-MHC kháng nguyên khối u
nội bào, tăng hiệu quả và giảm tác dụng phụ
của kháng thể đồng đặc hiệu.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học và các bác sỹ
đã bước đầu sử dụng liệu pháp miễn dịch ung
thư đối với một số bệnh nhân không đáp ứng
với các biện pháp trị liệu thông thường, đồng
thời các bệnh nhân này phải có điểm kiểm
soát miễn dịch. Tuy nhiên, do giá thành cao
nên liệu pháp miễn dịch ung thư vẫn chưa
được sử dụng phổ biến và phương pháp dùng

kháng thể đồng đặc hiệu trong liệu pháp miễn
dịch ung thư vẫn chưa được sử dụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Atwell S., Ridgway J. B., Wells J. A., Carter P.,
(1997), “Stable heterodimers from remodeling the
domain interface of a homodimer using a phage
display library”, J. Mol. Biol., 270, pp. 26-35;
PMID:9231898.
2. Baeuerle P. A., Kufer P., Bargou R. (2009),
“BiTE: Teaching antibodies to engage T-cells for
cancer therapy”, Curr. Opin. Mol. Ther., 11, pp.
22-30; PMID:19169956.
3. Heiss M. M. (2010), “The trifunctional antibody
catumaxomab for the treatment of malignant
ascites due to epithelial cancer: results of a
prospective randomized Phase II/III trial”, Int. J.
Cancer, 127, pp. 2209-2221; PMID:20473913.
4. Kontermann R. (2012), “Dual targeting
strategies with bispecific antibodies”, MAbs , 4,
pp.182-197; PMID:22453100.
5. Lazar G. A., (2006), “Engineered antibody Fc
variants with enhanced effector function”, Proc.
Natl. Acad. Sci. USA, 103, pp. 4005-4010.
6. LeMercier I., Lines J. L., Noelle R. J. Beyond,
(2015), “CTLA-4 and PD-1, the generation Z of

79


Trần Thị Thanh Hương


Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

negative checkpoint regulators”, Front Immunol,
pp. 416-418; PMID:26347741.
7. Liddy N., Bossi G., Adams K. J., Lissina A.,
Mahon T. M., Hassan N. J., Gavarret J., Gavarret
J., Bianchi F., Pumphrey N. J., Ladell K. et al.
(2012) “Monoclonal TCR-redirected tumor cell
killing”, Nat. Med., 18, pp. 980-987;
PMID:22561687.
8. Merchant A. M., Zhu Z., Yuan J. Q., Goddard
A., Adams C. W., Presta L. G., Carter P. (1998),
“An efficient route to human bispecific IgG”, Nat.
Biotechnol., 16, pp. 677-681; PMID:9661204.
9. Nisonoff A., Rivers M. M. (1961),
“Recombination of a mixture of univalent
antibody fragments of different specificity”, Arch.
Biochem.
Biophys,
93,
pp.
460-462;
PMID:13729244.

187(11): 75 - 80

10. Przepiorka D., Ko C. W., Deisseroth A.,
Yancey C. L., CandauChacon R., Chiu H. J.,
Gehrke B. J., Gomez-Broughton C., Kane R.,

Krishner S. et al. (2015), “FDA Approval:
Blinatumomab”, Clin. Cancer Res., 21, pp. 40354039; PMID:26374073.
11. Spiess C., Zhai Q., Carter P. J. (2015),
“Alternative molecular formats and therapeutic
applications for bispecific antibodies”,
Mol.
Immunol, 67, pp. 195-106; PMID:25637431.
12. Stanglmaier M., Faltin M., Ruf P.,
Bodenhausen A., Schroder P., Lindhofer H.
(2008), “Bi20 (fBTA05), a novel trifunctional
bispecific antibody (anti-CD20 x anti-CD3),
mediates efficient killing of B-cell lymphoma cells
even with very low CD20 expression levels”, Int.
J. Cancer , 123, pp. 1181-1189; PMID:1854628.

SUMMARY
BISPECIFIC ANTIBODY – A NEW WAY IN CANCER IMMUNOTHERAPY
Tran Thi Thanh Huong*
TNU - University of Information and Communication Technology

Cancer immunotherapy was proposed decades ago but has only recently been realized as a
promising approach to revolutionize cancer treatment. Bispecific antibodies play a role in the
assembly of immune cells involved and destroy tumor cells, which are being studied at clinical
stage and will become the next generation of antibody-based therapies. On the basis of format,
bispecific antibodies can be subdivided into 2 groups: IgG-like or bispecific fragment molecules.
IgG-like bispecific antibodies retain the structure of an IgG molecule with a functional Fc region,
which can induce antibody-dependent cellular cytotoxicity or complement-dependent cytotoxicity
and can increase the serum half-life due to the large molecular size and FcRn-mediated recycling
mechanism. However, the production of this type of antibody has some difficulties with the
pairing of heavy and light chains, suggesting some solutions to overcome this problem. The

bispecific-fragment formats have the ability to bind strong antigens, which are smaller in size, able
to penetrate better tumor tissue and ensure a more effective treatment.
Key words: cancer, immunity; bispecific antibodies; Fc, pairing

Ngày nhận bài: 31/8/2018; Ngày phản biện: 14/10/2018; Ngày duyệt đăng: 31/10/2018
*

Tel: 01652 314946, Email:

80



×