Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Rách bể thận do chấn thương thận ứ nước do hẹp phần nối bể thận niệu quản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.91 KB, 4 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

RÁCH BỂ THẬN DO CHẤN THƯƠNG THẬN Ứ NƯỚC  
DO HẸP PHẦN NỐI BỂ THẬN NIỆU QUẢN 
Nguyễn Duy Việt*, Lê Anh Dũng*, Nguyễn Thị Mai Thuỷ* 

TÓM TẮT 
Mục  tiêu:  Giới thiệu một trường hợp rách bể thận sau chấn thương thận ứ nước do hẹp chỗ nối bể thận 
niệu quản và kết quả phẫu thuật.  
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo ca bệnh, chúng tôi giới thiệu trẻ nữ 4 tuổi, chấn thương thận trái độ V. 
Rách bể thận bên trái/ thận trái ứ nước do hẹp phần nối bể thận niệu quản trái, thận bên phải loạn sản giảm chức 
năng, có biểu hiện suy thận cấp. Chụp cắt lớp vi tính để phân loại chấn thương theo hiệp hội chấn thương hoa kỳ, 
chụp xạ hình thận đánh giá chức năng thận, xét nghiệm hoá sinh máu và xét nghiệm máu. Bệnh nhân được theo 
dõi tình trạng huyết động và nhiễm khuẩn. Phẫu cắt bể thận và tạo hình theo phương pháp Anderson – Hynes’, 
lưu sonde JJ 15 cm/4Fr, được rút sau 4 tuần. Xét nghiệm sinh hoá máu, siêu âm và xạ hình thận sau 6 tháng. 
Kết quả: Bệnh nhân nằm viện 24 ngày, xét nghiệm ure và creatinin trước lúc ra viện và ở thời điểm khám 
lại trong giới hạn bình thường. Bệnh nhân không phải truyến máu trong thời gian nằm viện. Xạ hình thận chức 
năng, thận trái 78,4% và thận phải 21,6%. 
Kết luận: Một chấn thương nhẹ có biểu hiện suy thận cấp nên được xem xét có dị tật thận cả 2 bên. Phẫu 
thuât ở bệnh nhân rách bể thận là chỉ định tuyệt đối và đồng thời chữa dị tật cho kết quả tốt. 
Từ khóa: Thận ứ nước, phần nối bể thận niệu quản, thận loạn sản. 

ABSTRACT 
A RENAL PELVIC RUPTURE OF HYDRONEPHROSIS DUE TO PUJ STENOSIS 
Nguyen Duy Viet, Le Anh Dung, Nguyen Thi Mai Thuy 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 148 ‐ 151 
Objectives:  To  introduce  a  renal  pelvic  rupture  of  hydronephosis  due  to  UPJ  stenosis  and  result  of 
pyeloplasty. 
Methods: Case report, we present a 4 years old female having renal pelvic rupture of hydronephrosis due to 


UPJ stenosis on the left, associated dysplastic right kidney. She occurs acute renal failure. Grade of renal trauma 
according to AAST and renal function was calculated by MAC 3. There were some investigations such as urea, 
creatinine,  hemoglobin  and  hematocrit.  Hemodynamic  was  followed  by  monitor.  Pyeloplasty  Anderson‐Hynes 
technique.  
 With JJ stent that was removed after 4 week operation. The patient was examined 6 months after operation. 
Results: Hospitalization was 24 days, urea and creatinine is normal range. No transfusion with refunction 
is 78.4% on the left kidney and 21.6% on the right kidney. 
Conclusions: Mild renal trauma is associated acute renal failure could be considered both abnormalities of 
kidney. Pyeloplasty is indication of renal pelvic rupture due to hydronephrosis with good result. 
Key words: Hydronephrosis, ureteric‐pelvic junction stenosis, dysplastic kidney.  
* Bệnh viện Nhi Trung Ương 
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Duy Việt 

148

 ĐT: 0904 915 969 

 Email:  

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Với sự  phát triển của  các  phương  tiện  chẩn 
đoán hình ảnh, tỷ lệ bất thường thận bẩm sinh là 
0,1‐23%  trong  nhóm  chấn  thương  thận(1,2,5,7,8,10), 
phần  lớn  là  thận  ứ  nước  do  hẹp  phần  nối  bể 
thận  niệu  quản(1,5,7,8).  Đau  bụng  cấp,  dữ  dội  sau 
một chấn thương thận nhẹ có thể gợi ý bệnh lý 

bất thường bẩm sinh. Chúng tôi giới thiệu bệnh 
nhân nữ 4 tuổi, xuất hiện đau bụng cấp dữ dội 
sau khi ngã từ bậc hè. Chụp cắt lớp vi tính phát 
hiện thận trái ứ nước (74%), thận phải giảm sản 
(26%).  Xét  nghiệm  ure  và  creatinin  biểu  hiện 
tình  trạng  suy  thận.  Lúc  phẫu  thuật  phát  hiện 
vỡ, rách mặt sau của bể thận trái sát chỗ nối, có 
chiều  dại  5  cm,  nhu  mô  thận  không  thấy  dung 
dập,  tụ  máu  hay  rách,  hố  thận  căng  đầy  nước 
tiểu. Bệnh nhân được cắt chỗ hẹp, cắt bể thận và 
tạo hình theo phương pháp Anderson – Hynes, 
lưu sonde JJ 15 cm/4Fr, được rút sau 4 tuần. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Giới thiệu một trường hợp rách bể thận sau 
chấn thương thận ứ nước do hẹp chỗ nối bể thận 
niệu quản và kết quả phẫu thuật.  

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu ca bệnh lâm sàng. 

Phương pháp nghiên cứu 
Bệnh nhân Lê Ngọc L, nữ, 4 tuổi, 15 kg, mã 
hồ  sơ:  13565266.  Bệnh  nhân  không  có  triệu 
chứng, chưa được chấn đoán bệnh lý thận trước 
đây. Bệnh nhân xuất hiên đau bụng bên trái dữ 
dội sau khi ngã từ bậc hè. Vào viện theo dõi tại 
phòng hồi sức với tình trạng mạch 117 lần/phút, 
huyết  áp  85/60  mmHg,  nhiệt  độ  36,8.  Bụng 

trướng  căng,  đặc  biệt  hố  thận  trái,  nước  tiểu 
vàng  trong,  không  có  máu.  Bệnh  nhân  được 
theo dõi nước tiểu (bảng 1), xét nghiệm sinh hoá 
máu (bảng 2), xét nghiệm công thức máu (bảng 
3)  và  theo  dõi  huyết  động  (bảng  4).  Bệnh  nhân 
được chụp cắt lớp vi tính (hình 1), cho thấy hình 
ảnh khối dịch lớn chiếm hầu hết nửa bụng trái, 
kích  thước  140  x  104  x  92  mm,  dịch  tỷ  trọng 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

Nghiên cứu Y học

thấp. Đài bể thận trái dãn to, đường kính trước 
sau  65  mm,  nhu  mô  mỏng,  không  thấy  tổn 
thương nhu mô. Xạ hình thận (hình 2), thận trái 
74.0 % tắc phần nối bể thận niệu quản trái, thận 
phải nhỏ, giảm chức năng 26,0%.  
Bệnh  nhân  được  phẫu  thuật,  phát  hiện 
đường rách dài 5 cm, ở mặt sau bể thận, nhu mô 
thận mỏng, không phát hiện đụng dập hay tổn 
thương  khác  của  nhu  mô  thận.  Phẫu  thuật  cắt 
phần  nối  bể  thận  niệu  quản,  cắt  bể  thận  và  tạo 
hình  bể  thận  niệu  quản  theo  phương  pháp 
Anderson‐Hynes,  đặt  sonde  JJ  và  được  rút  sau 
mổ 4 tuần. 
Bảng 1: Thể tích nước tiểu (ml/h/kg) 
Lúc vào viện
7,5


Quá trình nằm viện
3,2

Trước mổ
3,5

Bảng 2: Xét nghiệm hoá sinh máu 
13,5

Quá trình
nằm viện
12,8

207,9

188,7

Hoá sinh máu Lúc vào viện
Ure (mmol/l)
Creatinin
(Mcromol/l)

Trước mổ
10,0
183,5

Bảng 3: Xét nghiệm công thức máu 
Hoá sinh máu

Lúc vào viện


Số lượng bạch cầu
CRP
Hb
Hematocrit (%)

22,44
98,2
117
35,4

Quá trình
nằm viện
11,96
72,6
113
33,8

Trước
mổ
16,64
171,4
97
30,4

Bảng 4: Tình trạng mạch và huyết áp 
Mạch và huyết
Lúc vào viện
áp
Mạch (lần/phút)

117
Huyết áp (mmHg)
88/60

Quá trình
Trước mổ
nằm viện
130
135
110/70
115/70

 
Hình 1: Thận trái nằm trong khối dịch, bể thận giãn, 
thận phải nhỏ 

149


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 

 
Hình 2: Tắc đường bài xuất thận trái, thận phải nhỏ 
chức năng 26% 

KẾT QUẢ 
Bênh nhân được theo dõi truyền dịch, khác 
sinh  trước  mổ  2  tuần  và  làm  các  xét  nghiệm 

thăm  dò.  Cho  đến  trước  mổ,  tình  trạng  nhiễm 
khuẩn  không  giảm,  qua  bảng  3  thấy  số  lương 
bạch cầu và CRP vẫn cao. Xét nghiệm hoá sinh 
máu (bảng 3), thấy chỉ số Ure và Creatinin cao, 
mặc dù thể tích dịch trong giới hạn bình thường 
Hematocrit(3)  và  huyết  áp  được  duy  trì  ổn  định 
trong  quá  trình  điều  trị.  Kết  quả  sau  mổ  và 
khám  lại  sau  6  tháng,  bảng  5  thấy  ure  và 
creatinin về trong giới hạn bình thường. Đường 
kính bể thận giảm sau mổ (bảng 6). 
Bảng 5: Hoá sinh máu sau mổ 
Hoá sinh máu
Ure (mmol/l)
Creatinin (Mcromol/l)

Sau mổ
3,5
62,7

6 tháng
5,7
75,76

Bảng 6: Đường kính bể thận sau mổ 
Đường kính bể thận
Trước mổ
Sau mổ

mm
65

32

BÀN LUẬN 
Chấn  thương  thận  chiếm  tỷ  lệ  10%  trong 
chấn  thương  bụng  và  cơ  chế  chấn  thương 
thường  gặp  do  vật  tù(9).  Thậm  chí  ở  bệnh  nhân 
nhi  có  cấu  trúc  thận  bình  thường,  vẫn  có  nguy 
cơ  chấn  thương  là  do  cấu  trúc  quanh  thận  ít 
được bảo vệ(5). Bất thường bẩm sinh của thận sẽ 
làm cho thận tổn thương nặng hơn khi có chấn 
thương  mặc  dù  mức  độ  chấn  thương 
nhẹ(6,14).Chụp cắt lớp vi tính giúp phát hiện mức 

150

độ tổn thương, đặc điểm tổn thương và đánh giá 
chức  năng  thận,  cho  thấy  tổn  thương  khác(3). 
Phát hiện giãn đài bể thận, nhu mô thận mỏng 
có  thể  gợi  ý  đến  thận  ứ  nước  do  hẹp  phần  nối 
trước đây(4). Huyết áp ở bệnh nhi không là yếu 
tố chỉ định phẫu thuật(3). Thể tích máu được theo 
dõi  để  quyết  định  lượng  dịch  và  máu  mất,  để 
quyết  định  truyền  dịch  và  truyền  máu  hay 
không. Bệnh  nhân  có  thể  được  điều  trị  bảo  tồn 
hay  can  thiệp  phẫu  thuật  ngay.  Phẫu  thuật  tạo 
hình  bể  thận  niệu  quản  được  chỉ  định  ở  bệnh 
nhận có xuất hiện vỡ, rách bể thận(4). Tuy nhiên, 
một vài thông báo cho thấy phẫu thuật ngay đối 
với những trường hợp đái máu sau chấn thương 
thận có tỷ lệ cắt thận cao(11,12,13). 

Bệnh nhân của chúng tôi không có đái máu, 
nước  tiểu  vàng  trong,  tình  trạng  nhiễm  trùng 
không  cải  thiện,  tình  trạng  suy  thận  không  cải 
thiện  mặc  dù  bù  đủ  dịch  và  kháng  sinh.  Đồng 
thời với thận phải giảm chức năng, vấn đề đặt ra 
là giải quyết tốt nguyên nhân thận bên trái. Bệnh 
nhân  được  phẫu  thuật,  phát  hiện  đường  rách 
dài 5 cm, ở mặt sau bể thận, nhu mô thận mỏng, 
không phát hiện đụng dập hay tổn thương khác 
của  nhu  mô  thận.  Phẫu  thuật  cắt  phần  nối  bể 
thận niệu quản, cắt bể thận và tạo hình bể thận 
niệu  quản  theo  phương  pháp  Anderson  – 
Hynes, đặt sonde JJ và được rút sau mổ 4 tuần. 
Sau phẫu thuật Ure và creatinin về giới hạn bình 
thường, tình trạng nhiễm khuẩn hết. Bệnh nhân 
ra viện sau 1 tuần. 

KẾT LUẬN  
Chấn thương thận, rách bể thận ở bệnh nhân 
thận  ứ  nước  do  hẹp  bể  thận  niệu  quản,  có  kết 
hợp  với  thận  bên  đối  diện  loạn  sản  giảm  chức 
năng,  nên  chỉ  định  phẫu  thuật  ngay  giải  quyết 
nguyên nhân cho kết quả tốt. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.
3.


Brower  P,  Paul  J,  Brosman  SA  (1978).  Urinary  tract 
abnormalities  presenting  as  a  result  of  blunt  abdominal 
trauma. J trauma, 18: pp 719‐722. 
Cass AS (1983). Blunt renal trauma in children. J trauma, 23: 
pp 123‐127. 
Chopra  P,  St‐Vil  D,  Yazbeck  S  (2002).  Blunt  renal  trauma 
blessing in disguise?. J peadiatric surg, 37: pp 779‐782. 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
4.
5.
6.

7.

8.

9.
10.

Giyanani  VL,  Gerlock  AJ,  Grozinger  KT  (1985).  Trauma  of 
occult hydronephrotic kidney. Urology, 25: pp 8‐12. 
Kuzmarov IW, Morehouse DD, Gibson S (1981). Blunt renal 
trauma in pediatric population. J urol,126: pp 648‐649. 
Kattan S (2001). Traumatic pelvi‐uretreric junction disruption: 
How can we avoid the delayed diagnosis? Injury, 32: pp 779‐
800. 

Lieu  TA,    Fleisher  GR,  Mahboubi  S  (1988).  Hematuria  and 
Clinical Findings as Indications for Intravenous Pyelography 
in Pediatric Blunt Renal Trauma. Pediatrics, 82: pp 216‐222. 
Middlebrook  PF,  Schillinger  JF  (1993).  Hematuria  and 
intravenous  pyelography  in  peadiatric  blunt  renal  trauma. 
CJS, 36: pp 59‐62. 
McAninch  JW,  Carroll  PR  (1991).  Renal  reconstruction  after 
injury. J Urol, 145: pp 932‐937. 
Peterson NE (1989). Complications of renal trauma. Urol Clin 
North Am, 16: pp 221‐236. 

11.

Nghiên cứu Y học

Quinlan  DM,  Gearhart  JP  (1990).  Blunt  renal  trauma  in 
childhood. Features indicating severe injury. Br J urol, 66: pp 
526‐531. 
Roy C, Tuchmann C, Pflege D (2001). Post‐traumatic rupture 
of in uretero‐pelvic junction obstruction syndrome: two cases 
report. J Radiol, 82: pp 171‐ 173. 
Sebatia  MC,  Rodriguez‐Dobao  M,  Quiroga  S  (1999).  Renal 
trauma  in  occult  uretero‐pelvic  junction  obstruction:  CT 
findings. Eur Radiol, 9: pp 611‐615. 
Simith  M,  Johnston  B,  Wessells  H  (2003).  Rupture  of  a  UPJ 
obstructed kidney in a 15 years ol boy football player. Am J 
Radiol, 180: pp 504. 

12.


13.

14.

 
Ngày nhận bài   

 

 

17/07/2013. 

Ngày phản biện nhận xét bài báo  

21/07/2013. 

Ngày bài báo được đăng:  

15–09‐2013 

 

 
 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

151




×