Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phát hiện người lành mang gen bệnh và chẩn đoán trước sinh bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (953 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

PHÁT HIỆN NGƯỜI LÀNH MANG GEN BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN  
TRƯỚC SINH BỆNH TĂNG SẢN THƯỢNG THẬN BẨM SINH 
Nguyễn Thị Băng Sương* 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Tăng sản thượng thận bẩm sinh (TSTTBS – Congentinal Adrenal Hyperplasia, viết tắt là CAH) 
là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường. 90‐95% các ca bệnh là do thiếu hụt enzyme 21‐hydroxylase (21‐
OH). Sự thiếu hụt enzyme 21‐OH xảy ra do các đột biến trên gen CYP21A2 mã hóa tổng hợp enzyme steroid 
21‐hydroxylase. 
Mục tiêu: Ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử trong phát hiện người lành mang gen đột biến và chẩn đoán 
trước sinh bệnh TSTTBS.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hai gia đình có con bị đột biến gen CYP21A2. Gia đình 1 phân 
tích gen từ mẫu máu của người mẹ và dịch ối thai nhi. Gia đình 2 phân tích gen từ mẫu máu của bố mẹ và mẫu 
ối của thai nhi. Sử dụng kỹ thuật giải trình tự và MLPA để xác định tình trạng mang gen bệnh của các đối 
tượng nghiên cứu. 
Kết  quả:  Gia đình 1 mẹ và thai nhi đều mang đột biến gen dị hợp tử thay thế Arginin bằng Cystein tại 
codon 426. Gia đình 2 có bố mang gen đột biến dị hợp tử mất đoạn từ exon 1 đến exon 8; mẹ mang đột biến dị 
hợp tử mất đoạn từ exon 1 đến exon 3; thai nhi nam mang đột biến dị hợp tử mất đoạn từ exon 1 đến exon 8.  
Kết luận: Ứng dụng thành công kỹ thuật giải trình tự và MLPA để xác định đột biến gen CYP21A2, đây 
là cơ sở vững chắc để phòng bệnh bằng chẩn đoán và điều trị trước sinh. 
Từ khoá: Bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh, đột biến gen CYP21A2, mất đoạn, đột biến điểm, giải trình 
tự gen, MLPA. 

ABSTRACT 
DETECTION OF CONGENITAL ADRENAL HYPERPLASIA MUTANT CARRIER  
AND PRENATAL DIAGNOSIS 
Nguyen Thi Bang Suong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 150 ‐ 156 


Introduction:  Congenital  adrenal  hyperplasia  (CAH)  is  an  autosomal  recessiveinherited  genetic 
disorder. The most frequent cause is the deficiency of steroid 21‐hydroxylase (21‐OH) due to mutations in 
the CYP21A2 gene.  
Objective: Identify mutations in CYP21A2 gene by sequencing and MLPA technique. 
Patients  and  Methods:  Tow  families  with  children  getting  CAH  disease.  We  analysed  DNA  extracted 
from blood and amniotic fluid samples of parents and fetus in these two families.  
Results:  Analyzing  mutations  from  mother  and  fetus  of  family  1  revealed  that  they  both  carried  a 
heterozygous  of  missense  mutant  R426C  in  exon  10.  Results  from  family  2  showed  that  the  father  carried 
heterozygous  deletion  from  exon  1  to  exon  8  of  CYP21A2  gen;  the  mother  carried  heterozygous  deletion  from 
exon 1 to exon 3; the male fetus carried homologous deletion form exon 1 to exon 3 and heterozygous deletion 
from exon 4 to exon 8.  
Conclusion: Successfully detect carriers and mutants in fetus by sequencing and MLPA techniques.  
Keywords: Congenital adrenal hyperplasia, CYP21A2 mutants, deletions, point mutants, sequencing, MLPA. 
* Bộ môn Hóa Sinh, Trung Tâm Y Sinh Học Phân Tử, Khoa Y ‐ Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: TS. BS. Nguyễn thị Băng Sương   ĐT: 0914007038, Email:  

150

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tăng  sản  thượng  thận  bẩm  sinh  (TSTTBS  – 
Congentinal  Adrenal  Hyperplasia,  viết  tắt  là 
CAH) hay còn gọi là hội chứng sinh dục‐thượng 
thận,  là  bệnh  di  truyền  lặn  trên  nhiễm  sắc  thể 
thường,  được  đặc  trưng  bởi  sự  thiếu  hụt  hoạt 
động của các enzyme tổng hợp hormone cortisol 
từ  cholesteron  của  vỏ  thượng  thận.  Thiếu  hụt 

enzyme  21‐hydroxylase  (21‐OH)  là  thể  thường 
gặp nhất, chiếm 90‐95% các ca bệnh, với tần suất 
khoảng 1:10.000 đến 1:15.000 trẻ sơ sinh(3). Trong 
khi đó, khoa Nội tiết – Chuyển hóa – Di truyền 
Bệnh  viện  Nhi  Trung  ương  cho  biết  số  lượng 
bệnh  nhân  mới  được  chẩn  đoán  tăng  lên  hằng 
năm,  trung  bình  40‐70  trẻ  mới  mắc/  năm.  Kết 
quả sàng lọc sơ sinh trên 24.459 bé sinh tại Bệnh 
viện Từ Dũ – TP. Hồ Chí Minh từ năm 2002 đến 
tháng 06/2008 cho thấy tỷ lệ các bé bị TSTTBS là 
1/8153 bé sinh sống(8).  
Sự  thiếu  hụt  hoạt  động  của  enzyme  21‐OH 
dẫn đến sự thiếu hụt cortisol và/hoặc thiếu hụt 
aldosterone  cũng  như  thừa  androgen  thượng 
thận(3). Tùy mức độ thiếu hụt enzyme 21‐OH mà 
bệnh biểu hiện trên lâm sàng thành 3 thể: thể cổ 
điển  mất  muối  (Salt‐wasting‐SW),  thể  cổ  điển 
nam hóa đơn thuần (Simplevirilizing‐SV) và thể 
không  cổ  điển  (non‐classic).  Triệu  chứng  lâm 
sàng của thể cổ điển tùy thuộc vào mức độ thiếu 
hụt hoạt động của enzyme. Nếu enzyme 21‐OH 
thiếu hụt không hoàn toàn sẽ dẫn đến biểu hiện 
lâm sàng chủ yếu là hội chứng nam hóa thai nữ 
và dậy thì sớm ở trẻ trai. Sự thiếu hoàn toàn hay 
gần  như  hoàn  toàn  enzyme  21‐OH  dẫn  đến 
TSTTBS thể mất muối, có đến ¾ trường hợp thể 
mất muối có cơn suy thượng thận cấp vào ngày 
5 đến ngày 14 sau sinh(2).  
Sự  thiếu  hụt  enzyme  21‐OH  xảy  ra  do  các 
đột  biến  trên  gen  CYP21A2  mã  hóa  tổng  hợp 

enzyme  steroid  21‐hydroxylase.  Trên  90%  các 
đột biến này là do sự bắt chéo không đồng đều 
giữa  gen  CYP21A2  và  giả  gen  CYP21P(3).  Gen 
CYP21A2  và  giả  gen  CYP21P  nằm  trên  nhiễm 
sắc  thể  số  6p21.3  trong  phức  hợp  hòa  hợp  mô 
chủ  yếu  (Major  human  histocompatibility 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

complex – HLA) có chiều dài xấp xỉ 30 kb. Mỗi 
gen CYP21A2 và CYP21P chứa 10 exons, trình tự 
tương đồng giữa hai gen trên các exon là 98% và 
trên các intron là 96%(10). Giả gen CYP21P không 
có chức năng vì một số đột biến ở vùng tận cùng 
5’  của  gen  làm  cho  quá  trình  phiên  mã  không 
được thực hiện. Do tỷ lệ tương đồng trình tự cao 
giữa hai gen nên dẫn đến hiện tượng dễ xảy ra 
nhiều sai sót trong quá trình trao đổi chéo nhiễm 
sắc thể qua phân bào giảm nhiễm, các trình tự ở 
vùng  giả  gen  CYP21P  chuyển  sang  gen 
CYP21A2 gây nên 95% các đột biến trên gen. 5% 
còn  lại  là  do  tự  gen  CYP21A2  bị  đột  biến.  Đến 
nay  có  khoảng  hơn  100  kiểu  đột  biến  gen 
CYP21A2 đã được phát hiện, trong đó chủ yếu là 
các đột biến điểm, còn lại là đột biến xóa đoạn, 
thêm đoạn, lặp đoạn và đột biến chuyển đoạn(8). 
Kiểu  đột  biến  có  liên  quan  chặt  chẽ  đến  kiểu 
hình của bệnh nhân(11). Các đột biến lớn như đột 

biến  xóa  đoạn,  chuyển  đoạn  gen  lớn,  đảo  gen 
hay đột biến vô nghĩa có thể làm mất hoàn toàn 
hoạt  tính  của  enzyme  21‐OH  gây  ra  thể  mất 
muối. Các đột biến làm mất một phần hoạt tính 
của  enzyme  21‐OH  như  đột  biến  sai  nghĩa 
I172N,  P30L,  V281  gặp  ở  thể  bệnh  không  điển 
hình. 
Việc chẩn đoán sớm trẻ mang gen CYP21A2 
bị đột biến giúp xác định chính xác giới tính và 
kiểu  bệnh  của  trẻ.  Điều  này  liên  quan  chặt  chẽ 
đến  điều  trị  trước  sinh,  nếu  thai  nhi  bị  bệnh  là 
nữ và người mẹ muốn bé được ra đời, thai phụ 
sẽ được chỉ định sử dụng dexamethason để trẻ 
sinh ra có bộ phận sinh dục bình thường. Ngoài 
ra, việc chẩn đoán, sàng lọc sơ sinh còn giúp các 
bác sỹ có phác đồ điều trị thích hợp ngay khi bé 
ra đời, tránh những biến chứng trên trẻ sơ sinh. 
Theo nghiên cứu của các tác giả, việc sàng lọc sơ 
sinh chẩn đoán sớm trẻ mắc bệnh TSTTBS có tỷ 
số chi phí/lợi ích là 1/3(8). Xuất phát từ thực tiễn 
đó, chúng tôi tiến hành đề tài với mục tiêu“Ứng 
dụng  kỹ  thuật  sinh  học  phân  tử  trong  phát  hiện 
người  lành  mang  gen  đột  biến  và  chẩn  đoán  trước 
sinh bệnh TSTTBS”. 

151


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Chẩn đoán trước sinh: 02 mẫu dịch ối từ thai 
nhi của hai bà mẹ hai gia đình này để tiến hành 
chẩn đoán trước sinh.  

lớn trên gen CYP21A2. Kit gồm 5 probe cho gen 
CYP21A2 (Ex1, Ex3, Ex4, Ex6, Ex8); 3 probe cho 
gen CYP21A1P (E1P, I2P, E10P); 2 probe cho bổ 
thể  C4A  và  C4B;  22  probe  đặc  trưng  cho  gen 
người làm đối chứng); 2 probe cho nhiễm sắc thể 
X  và  Y.  Sản  phẩm  sau  khuếch  đại  được  phân 
tách  đoạn  trên  hệ  thống  điện  di  mao  quản 
GenomeLab  GeXP  (Beckman  Coulter).  Kết  quả 
sau khi chạy điện di sẽ được phân tích tự động 
để tìm đột biến nhờ vào phần mềm GeneMarker 
version 1.6 (Softgenetics). 

Phương pháp nghiên cứu 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 

Kỹ thuật tách chiết DNA từ 200 μl máu ngoại 
vi và dịch ối thai nhi 
‐ Ly trích DNA từ máu ngoại vi: Tiến hành lấy 
2 ml máu tĩnh mạch của bố và mẹ trong gia đình 
có tiền sử con được xác định mắc bệnh TSTTBS. 
Máu  tươi  được  chống  đông  bằng  EDTA,  được 
tách  DNA  trong  vòng  24  giờ.  Quy  trình  tách 
chiết  DNA  từ  200μl  máu  ngoại  vi  được  tiến 

hành  theo  bộ  kit  QIAamp  DNA  Blood  mini  kit 
(Qiagen).  

Gia đình bệnh nhân CAH 01 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Chẩn  đoán  người  lành  mang  gen  bệnh:  Bố 
mẹ  của  02  gia  đình  cótiền  sử  con  được  chẩn 
đoán mắc bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh, 
hai người con này được phân tích gen CYP21A2 
và đã phát hiện được đột biến. 

Phân tích kiểu gen CYP21A2 của mẹ bệnh nhân 
Ở gia đình này có người con mắc bệnh tăng 
sản thượng thận bẩm sinh và đã được phân tích 
gen  CYP21A2,  kết  quả  phân  tích  gen  đã  được 
chúng  tôi  công  bố  trong  nghiên  cứu  trước,  cho 
thấy bệnh nhân bị đột biến điểm đồng hợp tử tại 
vị trí c.1276 C>T. Tiếp tục phân tích kiểu gen của 
người mẹ chứng tôi nhận thấy kết quả như sau: 

‐ Ly trích DNA thai nhi từ mẫu dịch ối: lấy 1 ml 
dịch  ối  cho  vào  ống  tube  2  ml,  quay  ly  tâm 
10.000  vòng/phút,  thu  cặn.  Hòa  tan  cặn  trong 
200 nước tinh khiết và tiến hành tách DNA dịch 
ối bằng QiAgen Kit tương tự như quy trình tách 
mẫu máu ngoại vi.  

Xác định đột biến điểm của gen CYP21A2 

Sử  dụng  các  cặp  mồi  đặc  hiệu  để  khuếch 
đại hai trình tự từ exon 1 đến exon 3 và exon 3 
đến  exon  9  của  gen  CYP21A2.  Sản  phẩm  PCR 
được  điện  di  trên  gel  agarose  nồng  độ  1%  để 
kiểm  tra  sự  tồn  tại  của  sản  phẩm  khuếch 
đại.Sau  đó  tinh  sạch  sản  phẩm  PCR  và  giải 
trình  tự  gen  theo  phương  pháp  Sanger  trên 
máy  ABI  3500.  Phân  tích  kết  quả,  so  sánh  với 
trình  tự  chuẩn  trên  NCBI  để  chẩn  đoán  tình 
trạng đột biến của các exon. 
Xác  định  đột  biến  mất  đoạn  gen  CYP21A2 
bằng kỹ thuật MLPA 
Sử dụng kit MLPA P050 (MRC‐ Holland) để 
sàng lọc các đột biến mất đoạn và chuyển đoạn 

152

 
Hình 1: Kết quả phân tích gen CYP21A2 của mẹ 
bệnh nhân CAH 01 
Nhận xét: Hình ảnh giải trình tự cho thấy tại 
nucleotid  c.1276  xuất  hiện  sóng  đôi,  1  đỉnh  thể 
hiện nucleotid C (giống trình tự của genbank) và 
1  đỉnh  thể  hiện  nucleotid  T  (giống  trình  tự  của 
bệnh nhân ‐ là người con trai mắc bệnh của bà). 
Điều này chứng tỏ người mẹ của bệnh nhân bị 
đột biến dị hợp tử tại vị trí c.1276 C>T. 

Phân tích kiểu gen CYP21A2 của thai nhi  
Mẹ bệnh nhân CAH 01 tiếp tục mang thai và 

được  chẩn  đoán  trước  sinh,  kết  quả  phân  tích 
kiểu gen thai nhi như sau: 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

kết quả của người mẹ. Điều này chứng tỏ thai nhi 
bị đột biến dị hợp tử tại vị trí c.1276 C>T. 

Gia đình bệnh nhân CAH 02 
Đối với gia đình CAH 02, bệnh nhân CAH 
02  bị  đột  biến  mất  đoạn  gen  (hình  3)  nên 
chúng tôi tiến hành phản ứng MLPA để phân 
tích kiểu gen của các thành viên trong gia đình 
bệnh nhân.  

 
Hình 2: Kết quả phân tích gen CYP21A2 ở thai nhi 
của gia đình CAH 01 
Nhận  xét:  Hình ảnh giải trình tự cho thấy tại 
nucleotid c.1276 xuất hiện sóng đôi tương tự như 

Kết quả phân tích gen của bệnh nhân và bố mẹ 
Ex3

Ex1 Ex6

Ex4

Ex8

Bệnh nhân
CAH 02

Ex3

Ex1
Ex4

Ex6

Ex8

Bố bệnh
nhân CAH 02

Ex3

Ex4
Ex1

Mẹ bệnh
nhân CAH 02

Ex6

Ex8


Y

 
Hình 3. Kết quả MLPA của bệnh nhân CAH 02 và bố mẹ bệnh nhân 
Màu nhạt (bên trái): mẫu đối chứng. Màu đậm (bên phải): mẫu bệnh nhân CAH 02. 

Nhận xét:  

Sản Phụ Khoa

‐ Đối với mẫu bệnh nhân: Tại các đỉnh tương 
tứng  với  exon  1  và  exon  3  của  gen  CYP21A2, 
mẫu  người  bình  thường  xuất  hiện  đỉnh  nhưng 

153


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

mẫu bệnh nhân không xuất hiện đỉnh, chứng tỏ 
rằng bệnh nhân bị đột biến mất đoạn đồng hợp 
tử từ exon 1  đến  exon  3  của  gen  CYP21A2.  Xét 
các  đỉnh  của  exon  4,  6,  8,  chiều  cao  đỉnh  của 
bệnh  nhân  chỉ  bằng  ½  so  với  mẫu  người  bình 
thường,  chứng  tỏ  rằng  bệnh  nhân  bị  đột  biến 
mất đoạn dị hợp tử từ exon 4 đến exon 8. 
‐  Đối  với  mẫu  của  người  bố:  Chiều  cao  các 

đỉnh của exon 1,3, 4, 6, 8 của người bố chỉ bằng 
½ so với mẫu người bình thường, chứng tỏ rằng 

người bố bị đột biến mất đoạn dị hợp tử từ exon 
1 đến exon 8. 
‐  Đối  với  mẫu  người  mẹ:  Chiều  cao  đỉnh 
exon  1  và  exon  3  của  người  mẹ  bằng  ½  so  với 
người bình thường, trong khi các đỉnh của exon 
4, 6, 8 bằng với mẫu người bình thường. Chúng 
tỏ người mẹ bị đột biến mất đoạn dị hợp tử từ 
exon  1‐3.  Tại  đỉnh  tương  ứng  với  NST  Y,  mẫu 
người mẹ không xuất hiện đỉnh. 

Kết quả phân tích gen của thai nhi (em của CAH 02) 
Ex1
Ex3

Ex4
Ex6

Ex8

 
Hình 4: Kết quả phân tích kiểu gen của thai nhi. Màu nhạt (bên trái): mẫu đối chứng. Màu đậm (bên phải): mẫu 
bệnh nhân CAH 02. 
các  chỉ  tiêu  sinh  hóa  như  tăng  nồng  độ  17CS, 
Nhận xét: Chiều cao các đỉnh của exon 1, 3, 
progesterone,  kali,  giảm  nồng  độ  17‐OHCS, 
4, 6, 8 của thai nhi chỉ bằng ½ so với mẫu người 
FSH,  LH  và  natri(9).  Năm  1998,  lần  đầu  tiên  tại 

bình thường, chứng tỏ rằng thai nhi bị đột biến 
Việt  Nam  phương  pháp  PCR  được  áp  dụng 
mất đoạn dị hợp tử từ exon 1 đến exon 8. 
nhằm  xác  định  đột  biến  gen  CYP21A2  trên  43 
BÀN LUẬN  
bệnh  nhân  mắc  bệnh  TSTTBS(11).  Để  xác  định 
Ở Việt Nam, trước năm 1998, bệnh TSTTBS 
chính  xác  nhất  các  đột  biến  gen  CYP21A2  gây 
chủ yếu được chẩn đoán dựa vào các dấu  hiệu 
bệnh  TSTTBS,  giải  trình  tự  gen  và  kỹ  thuật 
lâm sàng và cận lâm sàng, cùng với xét nghiệm 
MLPA là hai tiêu chuẩn vàng nhằm xác định tất 

154

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
cả  các  đột  biến  điểm  cũng  như  đột  biến  mất 
đoạn,  chuyển  đoạn  gen  lớn  trên  gen  CYP21A2. 
Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  sử  dụng  kỹ 
thuật giải trình tự 10 exon của gen CYP21A2 và 
kỹ  thuật  MLPA  để  phát  hiện  người  lành  mang 
gen bệnh, đồng thời chẩn đoán trước sinh cho 2 
gia đình đã có tiền sử con mắc bệnh TSTTBS.  
Khi nghiên cứu trên gia đình số 1, sử dụng 
kỹ  thuật  giải  trình  tự  gen  chúng  tôi  xác  định 
được người mẹ và thai nhi của gia đình này đều 
mang  đột  biến  dị  hợp  tử  thay  thế  nucleotide  C 

thành  T  tại  vị  trí  c.1276C>T  làm  thay  đổi  acid 
amin  Arginine  thành  Cystein  tại  codon  426 
(R426C). Theo các nghiên cứu chức năng gen in 
vitro,  các  đột  biến  làm  phá  vỡ  mối  liên  kết  của 
nhân  hem  –  một  cofactor  cho  hoạt  động  của 
protein CYP21A2 –như đột biến R426C sẽ gây ra 
thể nam hóa đơn thuần trên lâm sàng. Các acid 
amin R91 và R426 tham gia hình thành liên kết 
hydro  với  chuỗi  propionate  của  nhân  hem(5). 
Liên  kết  này  không  chỉ  định  hướng  cho  nhân 
hem trong cấu trúc protein mà còn tham gia vào 
quá  trình  vận  chuyển  electron(13).  Sự  thay  thế 
R426  bằng  một  acid  amin  có  tính  kỵ  nước  như 
Cystein sẽ làm phá vỡ mối tương tác của protein 
với nhân hem, dẫn đến enzyme mất hoạt tính và 
gây  ra  thể  bệnh  nam  hóa  đơn  thuần(5).  Tuy 
nhiên,  đột  biến  mà  người  mẹ  và  thai  nhi  gia 
đình  số  1  mang  là  đột  biến  dị  hợp  tử.  Bệnh 
TSTTBS  là  một  bệnh  có  sự  liên  quan  chặt  chẽ 
giữa  kiểu  gen  và  kiểu  hình(11).  Do  đó,  thông 
thường,  nếu  bệnh  nhân  mang  đột  biến  có  khả 
năng  gây  bệnh  ở  thể  nặng  và  vừa  nhưng  đột 
biến ở dạng dị hợp tử thì thường biểu hiện thể 
bệnh không cổ điển(12). Vì vậy, thai nhi trong gia 
đình số 1 này có thể biểu hiện bệnh ở thể không 
cổ điển. 
Đối  với  gia  đình  thứ  2,  kiểu  gen  của  các 
thành viên gia đình được minh họa trong hình 7. 
Gia  đình  này  có  người  con  mắc  bệnh  tăng  sản 
thượng  thận  và  được  phân  tích  gen  CYP21A2, 

kết  quả  cho  thấy  bệnh  nhân  bị  đột  biến  mất 
đoạn  đồng  hợp  tử  từ  exon  1‐3  và  mất  đoạn  dị 
hợp  tử  từ  exon  4‐8.  Điều  này  gợi  ý  người  mẹ 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

(hoặc  bố)  mang  1  allele  mất  đoạn  từ  exon  1‐3, 
cong người bố (hoặc mẹ) mang allele mất đoạn 
từ exon 1‐8. Suy đoán này được khẳng định khi 
chúng tôi phân tích kiểu gen của người bố và mẹ 
của bệnh nhân. Kết quả được thể hiện ở hình 3, 
mẹ bệnh nhân bị đột biến mất đoạn dị hợp tử từ 
exon 1‐3 và bố bị mất đoạn dị hợp tử từ exon 1‐
8. Bố mẹ trong gia đình này đều mang đột biến 
mất đoạn gen. Ngoài ra, ở mẫu người mẹ, tại vị 
trí đỉnh tương ứng với chứng NST Y kích thước 
238 nucleotid không xuất hiện, điều này hợp lý 
vì người mẹ không có NST Y.  
Kết  quả  MLPA  cho  thấy  thai  nhi  mang  đột 
biến dị hợp tử mất đoạn exon từ 1 đến exon 8. 
Các  đột  biến  mất  đoạn  hay  chuyển  đoạn  là 
những  đột  biến  nghiêm  trọng,  gây  bệnh  thể  cổ 
điển mất muối(6) (Hình 6). Đột biến đồng hợp tử 
mất  đoạn  Del/Del  là  nguyên  nhân  gây  ra  thể 
bệnh  cổ  điển  mất  muối  trên  lâm  sàng  ở  những 
bệnh nhân mang đột biến này(1). Tuy nhiên đây 
là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường 
nên  thông  thường  bệnh  nhân  bị  đột  biến  đồng 

hợp  tử,  bất  thường  xảy  ra  trên  cả  2  allele  mới 
biểu hiện kiểu hình. Trường hợp này thai nhi chỉ 
mang  đột  biến  trên  1  allele,  allele  còn  lại  bình 
thường  nên  có  thể  không  biểu  hiện  kiểu  hình. 
Với kết quả này, bác sỹ lâm sàng có thể đưa ra 
các tư vấn thích hợp cho gia đình cũng như đưa 
ra các phác đồ điều trị hiệu quả cho thai nhi sau 
khi sinh.  

KẾT LUẬN  
Nghiên  cứu  đã  bước  đầu  ứng  dụng  thành 
công kỹ thuật giải trình tự gen và MLPA để sàng 
lọc  chẩn  đoán  các  đột  biến  gen  CYP21A2  gây 
bệnh  TSTTBS  ở  người  lành  mang  gen  bệnh  và 
chẩn  đoán  trước  sinh  cho  các  thai  nhi  của  gia 
đình  có  tiền  sử  con  mắc  bệnh  TSTTBS.  Xét 
nghiệm  di  truyền  xác  định  đột  biến  trên  gen 
CYP21A2  là  điều  kiện  cần  và  đủ  trong  chẩn 
đoán trước sinh bệnh TSTTBS. Điều này có liên 
quan  chặt  chẽ  đến  điều  trị  trước  sinh,  trong 
trường  hợp  thai  nhi  nữ  và  mắc  bệnh  TSTTBS, 
tránh  quá  trình  nam  hoá  gây  bất  thường  bộ 
phận  sinh  dục  sau  khi  sinh.  Cũng  như  có  thể 

155


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014


dừng  điều  trị  trong  trường  hợp  thai  nhi  nam 
hoặc thai nhi không mắc bệnh.  

7.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.
3.

4.

5.

6.

Abraham  M, Gonzalez  B, Dumic  M, Razzaghy‐Azar 
M, Chitayat  D, Sun  L, Zaidi  M, Wilson  RC, Yuen  T  (2013). 
Genotype‐phenotype  correlation  in  1,507  families  with 
congenital  adrenal  hyperplasia  owing  to  21‐hydroxylase 
deficiency. Proc Natl Acad Sci U S A;110(7): 2611‐6.  
Cao Quốc Việt (2000). Hội chứng sinh dục thượng thận. Bài 
giảng Nhi Khoa, Tập 2, Bộ môn Nhi Đại học y Khoa Hà Nội. 
Forest  MG  (2004),  Recent  advances  in  the  diagnosis  and 
management  of  congenital  adrenal  hyperplasia  due  to  21‐
hydroxylase deficiency, Hum Reprod Update, 10(6): 469‐485. 
Grischuk  Y, Rubtsov  P, Riepe  FG, Grötzinger  J, Beljelarskaia 
S, Prassolov  V, Kalintchenko  N, Semitcheva  T, Peterkova 

V, Tiulpakov  A, Sippell  WG, Krone  N  (2006),  Four  novel 
missense mutations in the CYP21A2 gene detected in Russian 
patients  suffering  from  the  classical  form  of  congenital 
adrenal 
hyperplasia: 
identification, 
functional 
characterization,  and  structural  analysis.J  Clin  Endocrinol 
Metab; 91(12): 4976‐80. 
Haider S, Islam B, DʹAtri V, Sgobba M, Poojari C, Sun L, Yuen 
T, Zaidi M (2013), Structure‐phenotype correlations of human 
CYP21A2  mutations  in  congenital  adrenal  hyperplasia.Proc 
Natl Acad Sci U S A; 110(7): 2605‐10.  
Kayserili  H,  Darendeliler  F,  Uyguner  O,  Günöz  H,  Yüksel 
Apak M, Atalar F, Bundak R, Wilson RC, New MI, Wollnik B, 
Saka  N  (2009),  Gene  Mutations  in  Congenital  Adrenal 

8.
9.

10.

11.
12.

13.

Hyperplasia:  Genotype−phenotype  correlation  in  Turkish 
children. J Clin Res Pediatr Endocrinol; 1(3): 116–128. 
Loke KY, Lee YS, Lee WW, Poh LK (2001), Molecular analysis 

of  CYP21  mutations  for  coggenital  adrenal  hyperplasia  in 
Singapore, Hormone research, 55 (4): 179‐184. 
Trần  Huy  Thịnh,  Tạ  Thành  Văn  (2011),  Bệnh  học  phân  tử, 
Nhà xuất bản Y học, tr.217‐229 
Võ Kim Huệ, Nguyễn Thu Nhạn, Nguyễn Thị Phượng (1997), 
Phát  hiện  sớm  bệnh  tăng  sinh  tuyến  thượng  thận  bẩm  sinh 
thiếu 21‐hydroxylase thể mất muối ở trẻ em Việt Nam, Tuyển 
tập công trình NCKH của Nghiên cứu sinh. 
White  PC,  New  MI,  Dupont  B  (1968).  Structure  of  human 
steroid  21‐hydroxylase  genes.  Proc  Natl  Acad  Sci  USA;  83: 
5111–5. 
White PC, Speiser PW (2000). Congenital adrenal hyperplasia 
due to21‐hydroxylase deficiency. Endocr Rev; 21: 245–91. 
Wilson  RC, Nimkarn  S, Dumic  M, Obeid  J, Azar 
MR, Najmabadi  H, Saffari  F  (2007),  Ethnic‐specific 
distribution  of  mutations  in  716  patients  with  congenital 
adrenal 
hyperplasia 
owing 
to 
21‐hydroxylase 
deficiency.Mol Genet Metab; 90(4): 414‐21. 
Xu  J,  Voth  GA  (2008).  Redox‐coupled  proton  pumping  in 
cytochrome  c  oxidase:  Furtherinsights  from  computer 
simulation. Biochim Biophys Acta; 1777(2):196–201 

 
Ngày nhận bài báo:  

 


 

01/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

26/11/2013 

Ngày bài báo được đăng:  

05/01/2014 

 

 

156

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



×