Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.23 KB, 7 trang )
ễn dịch, mẫu huyết thanh gà thuộc lô số
5 (gây miễn dịch với nồng độ kháng nguyên
cao nhất, tương ứng với mật độ vi khuẩn 3
x 1010 CFU/ml) cho kết quả mật độ quang
học của các giếng phản ứng cao hơn rõ rệt
so với những lô gà được gây miễn dịch còn
lại (p < 0,05). Như vậy có thể thấy, quy trình
gây miễn dịch sử dụng trong nghiên cứu
này đã có tác dụng kích thích gà mái tạo ra
được kháng thể IgY kháng VKT. ên cạnh
đó, trong phạm vi dải nồng độ kháng
nguyên VKT sử dụng để gây miễn dịch (thể
hiện bằng mật độ vi khuẩn từ 0,375 x 1010 3 x 1010 CFU/ml), cường độ đáp ứng tạo
kháng thể có xu hướng tỷ lệ thuận với nồng
độ kháng nguyên sử dụng gây miễn dịch.
OD 450 (nm)
hình chữ U của khay nhựa 96 giếng. Khay
phản ứng được giữ ở nhiệt độ phòng trong
1 giờ, sau đó để lắng tự nhiên ở 40C qua
đêm. Hiện tượng ngưng kết vi khuẩn được
đánh giá là dương tính khi quan sát thấy
hình ảnh đám ngưng kết, âm tính khi vi
khuẩn (không bị ngưng kết) lắng tự nhiên
xuống trung tâm của đáy giếng.
Độ pha loãng kháng thể (x 1.000)
Hình 2: Phản ứng ELISA phát hiện IgY
kháng VKT (từ lòng đỏ trứng gà).