Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tỷ lệ và các yếu tố liên quan của rối loạn trầm cảm ở phụ nữ quanh tuổi mãn kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.15 KB, 7 trang )

TỶ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA RỐI LOẠN TRẦM CẢM
Ở PHỤ NỮ QUANH TUỔI MÃN KINH
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh*, Võ Minh Tuấn**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn trầm cảm là một hội chứng rất hay gặp ở người phụ nữ nhất là phụ nữ lớn tuổi và tỷ
lệ này càng tăng trong giai đoạn quanh mãn kinh. Chăm sóc sức khỏe phụ nữ mãn kinh cần quan tâm nhiều đến
các rối loạn tâm sinh lý ở phụ nữ mãn kinh. Mục tiêu nghiên cứu là xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan của rối
loại trầm cảm ở phụ nữ qu anh tuổi mãn kinh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang từ 6/2007 đến 6/2008 ở phụ nữ 45 – 55
tuổi đến khám tại phòng khám phụ khoa Bệnh viện Từ Dũ, được dùng bảng CES-D để tầm soát trầm cảm. Phỏng
vấn các yếu tố về nhân khẩu, xã hội, tiền căn bệnh lý, sang chấn tâm lý, các triệu chứng rối loạn tiền mãn kinh rồi
so sánh giữa hai nhóm có tầm soát là trầm cảm và không trầm cảm.
Kết quả: Khảo sát 380 phụ nữ quanh mãn kinh, tỷ lệ trầm cảm là 37,9%. Trầm cảm trong tuổi quanh mãn
kinh liên quan với sang chấn tâm lý và thực thể như: sự ra đi của người thân (OR* = 3,84, 95% CI = 2,21 –
6,67), tình trạng hôn nhân (OR* = 8,65, 95% CI = 2,67 – 32,96), mất việc (OR* = 2,02, 95% CI = 1,03 – 4,00),
rối loạn tiền mãn kinh (OR* = 3,02, 95% CI = 1,29 – 7,05).
Kết luận: Cần xây dựng phác đồ sàng lọc và trị liệu rối loạn trầm cảm cho phụ nữ quanh mãn kinh tại các
cơ sở y tế.

ABSTRACT
PREVALENCE AND RISK FACTORS OF DEPRESSION AMONG PERIMENOPAUSAL WOMEN
Nguyen Thi My Hanh, Vo Minh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 87 - 91
Background: Depression is a syndrome found often in women, especially in old women, the problem is
significant higher within perimenopausal phase. Perimenopausal cares need to be more aware of mental disorder.
Our study aim is exam the prevalence and risk factors of depression among perimenopausal women.
Method: A cross-sectional study conducted from June 2007 to June 2008, among 45 – 55 year-old women at
TuDu Hospital, who came to gynecology unit for checking up. We used CES-D to screen depression. Face-to-face
interview applied for demographic, social, history of physical or mental disorder, menopause symptoms’
information, we compared the odd of the factors between with and without depression groups.


Result: Conducted research on 380 subjects, rate of perimenopausal depression was 37.9%. There were some
factors found having significantly relation with depression including both physical and mental disorders such as:
lost relative (OR* = 3.84, 95% CI = 2.21 – 6.67), marital status (OR* = 8.65, 95% CI = 2.67 – 32.96), lost job
(OR* = 2.02, 95% CI = 1.03 – 4.00), menopause disorders (OR* = 3.02, 95% CI = 1.29 – 7.05).
Conclusion: We are in need of a health policy of screening and treatment for depression among
perimenopausal women at health service centers.
* Bệnh viện Từ Dũ. ** Bộ môn Sản, Đại học Y Dược Tp. HCM

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa

1


ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU
Mãn kinh là một tình trạng sinh lý bình
thường mà người phụ nữ nào cũng phải trải qua
trong cuộc sống. Mãn kinh liên quan đến sự
chấm dứt của kinh nguyệt hậu quả của việc mất
đi chức năng buồng trứng một cách tự nhiên
theo tuổi. Tuổi mãn kinh trung bình là 51 tuổi
còn tuỳ thuộc vào chủng tộc và tình trạng dinh
dưỡng hiện tại, tuy nhiên nó có thể xảy ra sớm
hơn ở những người đa sản, hút thuốc lá và đã
cắt đi tử cung(7).
Tuy là một giai đoạn sinh lý trong cuộc sống,
nhưng mãn kinh luôn tồn tại trong nó những rối
loạn như: rối loạn vận mạch, rối loạn tiết niệu
sinh dục, rối loạn tâm sinh lý, bệnh loãng xương,
bệnh tim mạch và suy giảm trí nhớ. Chính vì thế
chăm sóc sức khỏe phụ nữ mãn kinh ngày càng

được quan tâm trong Sản Phụ khoa hiện nay.
Rối loạn trầm cảm là 1 hội chứng (nhóm các
triệu chứng) phản ánh tâm trạng buồn rầu quá
mức. Cụ thể hơn, sự buồn rầu của trầm cảm
được mô tả bởi cường độ cao hơn và kéo dài hơn
và bởi triệu chứng nặng hơn và bất lực chức
năng hơn mức bình thường.
Rối loạn trầm cảm là một hội chứng rất hay
gặp ở người phụ nữ nhất là phụ nữ lớn tuổi và
tỷ lệ này càng tăng trong giai đoạn chung quanh
mãn kinh. Nhiều nghiên cứu cho thấy, trầm cảm
có liên quan mật thiết với tình trạng hormon của
người phụ nữ, và nó sẽ dễ dàng xuất hiện ở
những phụ nữ có những xung đột về tâm lý như
tình trạng kinh tế suy giảm(7).
Chăm sóc sức khỏe phụ nữ mãn kinh tại Việt
Nam nói chung và tại Bệnh viện Từ Dũ nói riêng
chỉ tập trung vào các bệnh lý phụ khoa thực thể
và các rối loạn vận mạch, tiết niệu sinh dục mà
chưa quan tâm nhiều đến các rối loạn tâm sinh
lý ở phụ nữ mãn kinh. Các nghiên cứu nổi tiếng
về mãn kinh trên thế giới chỉ tập trung vào tác
dụng và biến chứng của việc điều trị nội tiết thay
thế ở phụ nữ mãn kinh. Tại Việt Nam có rất ít
nghiên cứu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe
phụ nữ mãn kinh và gần như chưa có nghiên

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa
2


cứu nào về rối loạn tâm sinh lý ở phụ nữ mãn
kinh. Chính vì lý do đó chúng tôi quyết định tiến
hành nghiên cứu: “Tỷ lệ và các yếu tố liên quan
của rối loạn trầm cảm ở phụ nữ quanh tuổi mãn
kinh” với ước mong có thể xác định được tỉ lệ và
các yếu tố có thể đưa đến trầm cảm ở phụ nữ
quanh tuổi mãn kinh tại Bệnh viện Từ Dũ nói
riêng và Việt Nam nói chung nhằm khuyến cáo
với các bác sĩ Sản Phụ khoa Việt Nam bên cạnh
điều trị bệnh lý thường gặp ở phụ nữ mãn kinh
cần quan tâm đến chất lượng cuộc sống và gia
đình họ.

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính
Xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở phụ nữ
quanh tuổi mãn kinh tới khám tại phòng khám
phụ khoa Bệnh viện Từ Dũ trong khoảng thời
gian từ 06/2007 – 06/2008.
Mục tiêu phụ
Tìm mối liên quan giữa rối loại trầm cảm
với:
1. Các yếu tố nhân khẩu học gồm: tuổi, nghề
nghiệp, tình trạng kinh tế, trình độ học vấn, số
con.
2. Các yếu tố sang chấn tâm lý gồm: không
hạnh phúc, mất người thân, mất việc, về hưu,
giảm thu nhập, các bệnh lý đi kèm như tăng
huyết áp, tiểu đường, tăng lipide máu, bệnh
khớp, bệnh thận, bệnh xương, có phẫu thuật.

3. Rối loạn tiền mãn kinh gồm: rối loạn
vận mạch, bốc hỏa, hồi hộp đánh trống ngực,
mất ngủ.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.

Dân số nghiên cứu
Dân số đích
Phụ nữ quanh tuổi mãn kinh tại thành phố
Hồ Chí Minh.
Dân số chọn mẫu
Phụ nữ quanh tuổi mãn kinh đến khám và


điều trị tại phòng khám phụ khoa Bệnh viện
Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
06/2007 – 06/2008. Tuổi 45 – 55 tuổi. Tình trạng
sức khỏe và tinh thần có khả năng trả lời được
bảng phỏng vấn.

Tiêu chuẩn loại trừ
Có bệnh lý tâm thần, thần kinh thực thể.
Không đồng ý tham gia vào nghiên cứu sau khi
đã tư vấn kỹ về mục tiêu, các bước tiến hành và
những lợi ích khi tham gia vào nghiên cứu.

Cỡ mẫu
Tính cỡ mẫu theo tỷ lệ % trầm cảm ở tuổi

quanh mãn kinh

n=

Ζ12− α/2 × p × (1 − p )
d2

Z1-α/2 = 1,96. Theo nghiên cứu của Yahya
(2002), p = 0,385. d = 0,05.
Thế vào công thức có N = 363. Chúng tôi đã
nghiên cứu 380 trường hợp.

Phương pháp trình tự nhận bệnh và thu
thập số liệu
Chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên
thuận tiện cho đến khi đủ mẫu cần thiết theo
thiết kế nghiên cứu.
Chúng tôi mời 4 bác sĩ chuyên khoa tâm
thần không biết mục tiêu nghiên cứu tiến hành
phỏng vấn bệnh nhân bằng thang điểm tầm soát
trầm cảm CES-D (Center for Epidemiologycal
Studies Depression Scale)(3).
Chúng tôi chọn bệnh vào tất cả các buổi sáng
từ thứ hai tới thứ sáu. Nếu thỏa các tiêu chuẩn
chọn mẫu và không có tiêu chuẩn loại trừ thì
mời bệnh nhân vào tham gia nghiên cứu. Sau
khi giải thích quyền lợi và nghĩa vụ của người
bệnh, nếu người bệnh đồng ý tham gia nghiên
cứu, chúng tôi sẽ tiến hành phỏng vấn bệnh
nhân 2 bảng câu hỏi trong một phòng ở 2 bàn

riêng biệt kín đáo.
Bàn thứ nhất do chính tác giả phụ trách bảng
phỏng vấn khảo sát các yếu tố liên quan đến
trầm cảm.

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa

Bàn thứ hai do bác sĩ chuyên khoa tâm thần
phụ trách bảng phỏng vấn để tầm soát trầm cảm
CES-D. Trầm cảm ở phụ nữ quanh mãn kinh là
biến số nhị giá gồm có hai giá trị: có (Bảng
phỏng vấn thang điểm CES-D ≥ 16 điểm) hoặc
không (Bảng phỏng vấn thang điểm CES-D < 16
điểm), được bác sĩ chuyên khoa tâm thần sàng
lọc. Nếu phát hiện có biểu hiện rối loạn trầm
cảm sau khi phỏng vấn, bác sĩ phỏng vấn sẽ tư
vấn hướng dẫn cho người bệnh khám và điều trị
hợp lý tại bệnh viện tâm thần.

Phương pháp xử lý số liệu
Nhập số liệu bằng phần mền Epi Data. Xử lý
số liệu bằng phần mềm thống kê Stata 10.0. Phân
tích gồm 2 bước: bước 1 mô tả và phân tích đơn
biến, bước 2 dùng mô hình hồi qui đa biến nhằm
kiểm soát yếu tố gây nhiễu để tính OR hiệu
chỉnh (OR*) cho các biến số. Tính toán thống kê
với độ tin cậy 95%.

KẾT QUẢ
Bảng 1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo điểm số

các triệu chứng trầm cảm
Điểm số*
0
1
2
Ít
Trbình
Không
111
63
Bực mình vô lý 140
36,70% 29,20% 16,60%
Không cảm
207
84
63
giác ngon
54,50% 22,10% 16,60%
miệng
Không bỏ
244
71
40
được sự buồn
64,20% 18,70% 10,50%

Cảm giác
279
38
14

mình không tốt
73,40% 10,00% 3,70%
Thang CESD

189
Khó tập trung
làm việc
49,70%
Cảm giác chán 216
nản
56,80%
Cảm giác làm 154
mọi việc với cả
1 sự nỗ lực 40,50%
Không hy vọng 223
vào tương lai 58,70%
Nghĩ rằng
275
cuộc đời là 1
72,40%
sự thất bại
214
Cảm thấy sợ

Tổng
3
cộng
Nhiều
63
380

17,40% 100%
26
380
6,80% 100%
25

380

6,60% 100%
49

380

12,90% 100%

100
64
27
380
26,30% 16,80% 7,10% 100%
77
63
24
380
20,30% 16,60% 6,30% 100%
84
62
80
380
22,10% 16,30% 21,10% 100%

75
33
49
380
19,70% 8,70% 12,90% 100%
45
41
19
380
11,80% 10,80% 5,00% 100%
79

70

17

380

3


Thang CESD
hãi
Giấc ngủ
không ngon
Không hạnh
phúc
Nói ít hơn bình
thường
Cảm thấy cô

đơn

0
Không
56,30%
174
45,80%
240
63,20%
241
63,40%
205
53,90%
273

Điểm số*
1
2
Ít
Trbình
20,80% 18,40%
74
80
19,50% 21,10%
54
55
14,00% 14,50%
59
45
15,50% 11,80%

73
66
19,20% 17,40%
70
25

Cảm giác mọi
người đều
không thân 71,80% 18,40%
thiện
57
Không yêu
270
thích cuộc
71,10% 15,00%
sống
90
228
Khóc lóc
60,00% 23,70%
117
130
Cảm thấy
buồn
34,20% 30,80%
75
Cảm giác mọi 264
người không
69,50% 19,70%
thích tôi

319
Không thể tiếp 318
tục sống
83,70% 10,30%

6,60%

3
Nhiều
4,50%
52
13,70%
31
8,20%
35
9,20%
36
9,50%
12

100%
380
100%
380
100%
380
100%
380
100%
380


3,20% 100%

30
7,90%

Tổng
cộng

23

380

6,10% 100%

48
14
380
12,60% 3,70% 100%
111
22
380
29,20% 5,80% 100%
35
6
380
9,20%

1,60% 100%


22
5,80%

1
380
0,30% 100%

Qua khảo sát 380 phụ nữ tuổi từ 45 – 55 đến
khám tại phòng khám phụ khoa Bệnh viện Từ
Dũ từ tháng 6 năm 2007 đến tháng 6 năm 2008
chúng tôi nhận thấy: Tỷ lệ trầm cảm trong nhóm
nghiên cứu là 37,9%.
Bảng 2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tỉ lệ rối
loạn trầm cảm
Rối loạn trầm cảm*
Có rối loạn trầm cảm
Không rối loạn trầm cảm
Tổng cộng

N
144
236
380

Tỷ lệ %
37,9
62,1
100,0

Theo qui ước của bảng CES-D có tổng điểm

=44, nếu < 16 điểm: không có rối loạn trầm cảm,
nếu ≥ 16/44: có rối loạn trầm cảm. Có sự khác
biệt khá lớn giữa kết giữa tỷ lệ trầm cảm trong
nghiên cứu của chúng tôi so với nghiên cứu của
tác giả Chedraui(1) tại Eucuador (37,9% so với
67,4%), lý giải cho hiện tượng này có lẽ do tiêu
chuẩn chẩn đoán trầm cảm, nghiên cứu của
Chedraui không dựa vào tiêu chuẩn mà chỉ hỏi

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa
4

trực tiếp bệnh nhân có tự mình cảm thấy trầm
cảm hay không.

Phân tích yếu tố liên quan
Sau khi phân tích đơn biến, chúng tôi chọn
các biến số trong mục tiêu nghiên cứu chính đưa
vào phương trình hồi qui đa biến nhằm kiểm
soát các yếu tố gây nhiễu, bảy biến số vào
phương trình hồi qui đa biến. Bao gồm: tình
trạng kinh tế, số con hiện có, sang chấn tâm lý
liên quan đến người thân, sang chấn tâm lý liên
quan đến hạnh phúc, sang chấn tâm lý liên quan
đến bệnh tật, sang chấn tâm lý liên quan đến
công việc và các sang chấn tâm lý do rối loạn
tiền mãn kinh. Tất cả các yếu tố nói trên đều có
liên quan đến trầm cảm ở phụ nữ quanh mãn
kinh trong phân tích đơn biến (p < 0,05).
Bảng 3. Phân tích hồi qui đa biến xác định yếu tố liên

quan với trầm cảm
Yếu tố
Tình trạng
kinh tế
Số con hiện

Sang chấn
người thân
Sang chấn
hạnh phúc
Sang chấn
bệnh tật
Sang chấn
công việc
T/c tiền mãn
kinh

Khá giả
Đủ ăn
Thiếu ăn
Không con
1 – 2 con
> 2 con
Không

Không

Không

Không


Không


OR*
Ref.
0,95
1,30
Ref.
0,28
0,27
Ref.
3,84
Ref.
8,65
Ref.
1,11
Ref
2,02
Ref
3,02

95% CI

P

0,28 – 3,23
0,28 – 5,98

0,94

0,73

0,10 – 0,76
0,09 – 0,76

0,01
0,01

2,21 – 6,67

< 0,01

2,67 – 32,96 < 0,01
0,64 – 1,91

0,71

1,03 – 4,00

< 0,01

1,29 – 7,05

0,01

Có mối liên quan giữa số con với rối loạn
trầm cảm ở phụ nữ quanh tuổi mãn kinh: sanh
1-2 con (OR* = 0,28, 95% CI = 0,10 – 0,76); sanh
> 2 con (OR* = 0,27, 95% CI = 0,09 – 0,76). Kết
quả tương đồng với tác giả Nguyễn Thị Ngọc

Phượng(6).
Có mối liên quan giữa các yếu tố sang chấn
tâm lý với trầm cảm ở phụ nữ quanh mãn kinh
như sau:
Sang chấn tâm lý liên quan đến người thân
(chồng chết hoặc con chết hoặc con ra ở riêng


hoặc con dâu vào ở cùng nhà hoặc con thi hoặc
con thất nghiệp) với OR* = 3,84, 95% CI = 2,21 –
6,67. Sang chấn tâm lý liên quan đến hôn nhân
(độc thân hoặc ly dị hoặc chồng chết) với OR* =
8,65, 95% CI = 2,67 – 32,96. Kết quả phù hợp với
Maartens(5) Nguyễn Thị Ngọc Phượng(6).
Sang chấn tâm lý liên quan đến công việc
(mất việc hoặc nghỉ hưu hoặc giảm thu nhập)
với OR* = 2,02, 95% CI = 1,03 – 4,00, giống với kết
quả nghiên cứu của Hayden(4).
Sang chấn tâm lý liên quan giữa các rối loạn
tiền mãn kinh (rối loạn vận mạch, bốc hỏa, hồi
hộp, đánh trống ngực, mất ngủ) với rối loạn
trầm cảm ở phụ nữ quanh mãn kinh với OR* =
3,02, 95% CI = 1,29 – 7,05. Cũng như các tác giả
Cohen(2) và Hayden(4), chúng tôi cũng ghi nhận
phụ nữ có bất cứ một hay nhiều rối loạn tiền
mãn kinh đều làm tăng nguy cơ trầm cảm.
Không có mối liên quan giữa sang chấn
tâm lý do bệnh lý và rối loạn trầm cảm ở phụ
nữ quanh mãn kinh, không có mối liên quan
giữa các yếu tố nhân khẩu học gồm: tuổi, nghề

nghiệp, tình trạng kinh tế, trình độ học vấn với
rối loạn trầm cảm ở phụ nữ quanh tuổi mãn
kinh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.
8.

Chedraui P, Hidalgo L, Chavez D, Morocho N; Menopausal
symptoms and associated risk factors among postmenopausal
women screened for the metabolic syndrome; Arch Gynecol
Obstet, 2007 Mar;257(3):161-8. Epub 2006 Sep 20.
Cohen LS, Soares CN, Vitonis AF, Otto MV, Harlow BL; Risk
for new onset of depression during the menopausal
transition: the Harvard study of moods and cycles; Arch Gen
Psychiatry. 2006 Apr; 63(4):385-90.
Harlow BL, Wise LA, Otto MW, Soares CN, Cohen LS;
Prevelence and predictor of depressive symptoms in older pre

menopausal women, the Harvard Study of Moods and
Cycles; Arch Gen Psychiatry.Vol 56 May 1999:418 – 424.
Hayden B, et all (2001), Depressive symptom, menopause
status and climacteric symptoms in women at midlife,
Psychosomatic Medicine 63: 603 – 608.
Maartens LW, Knottnerus JA, Pop VJ; Menopausal transition
and increased depressive symptomatology: a community
based prospective study; Maturitas. 2002 Jul 25;42(3):195-200.
Nguyễn Thị Ngọc Phượng (2006), Sức khỏe phụ nữ tuổi mãn
kinh tại thành phố Hồ Chí Minh; Hội nghị Việt – Pháp Châu
Á Thái Bình Dương lần VI, trang 69 – 80.
Shifren JL., Schiff IS (2007), Menopause, Novak’s
Gyneacology 14, p 1950-1974.
Yahya S, Rehan N; Age, pattern and sumptoms of menopause
among rural women of Lahore; J Ayub Med Coll Abbottabad.
2002 Jul-Sep;14(3):9-12.

KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
Từ số liệu và kết quả nghiên cứu này, chúng
tôi thấy có mối liên hệ mật thiết của những yếu
tố nguy cơ do hệ quả của tuổi quanh mãn kinh
đem lại và bệnh lí trầm cảm. Chúng tôi muốn
kiến nghị tới cấp chức năng để có thể đưa phác
đồ sàng lọc và trị liệu rối loạn trầm cảm cho phụ
nữ quanh mãn kinh tại các cơ sở y tế. Những
phụ nữ trong tuổi quanh mãn kinh nhất là
những phụ nữ có triệu chứng tiền mãn kinh rầm
rộ cũng như những phụ nữ có những sự kiện bất
lợi trong cuộc sống cần được khám và tầm soát
trầm cảm để phát hiện sớm và có hướng điều trị

kịp thời những rối loạn trầm cảm nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống cho người phụ nữ giúp
họ vượt qua một cách nhẹ nhàng giai đoạn khó
khăn này của cuộc đời.

Chuyên Đề Sản Phụ Khoa

5


Chuyên
Đề Sản Phụ Khoa
6


Chuyên Đề Sản Phụ Khoa

7



×