Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Hiệu quả của các biện pháp giáo dục sức khỏe trong phòng ngừa nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi, TP. HCM, năm học 2008-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.58 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

HIỆU QUẢ CỦA CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC SỨC KHỎE
TRONG PHÒNG NGỪA NHIỄM GIUN KIM Ở TRẺ MẪU GIÁO
HUYỆN CỦ CHI, TP. HCM, NĂM HỌC 2008-2009
Nhữ Thị Hoa, Nguyễn Hằng Giang*, Lê Thị Vân Trang*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của giáo dục sức khỏe (GDSK) bằng truyền thông trực tiếp (TTTT) kết hợp
phát tờ bướm so với phát tờ bướm đơn thuần trong phòng ngừa nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi,
TP. HCM năm học 2008 - 2009.
Phương pháp: Thử nghiệm can thiệp cộng đồng có đối chứng được tiến hành trên 1.576 phụ huynh (PH)
có con học tại 6 trong 28 trường mẫu giáo thuộc huyện Củ Chi, năm học 2008-2009 (chọn trường bằng rút
thăm). Mẫu nghiên cứu được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm A: GDSK bằng TTTT và phát tờ bướm,
nhóm B: phát tờ bướm đơn thuần. GDSK được nhắc lại bằng phát tờ bướm sau một tháng và thư nhắc sau hai
tháng kể từ lần GDSK đầu tiên. Sử dụng bảng câu hỏi để thu thập thông tin hành chánh, kiến thức (KT) và thực
hành (TH) của PH. Tỷ lệ KT, TH được đánh giá trước và sau GDSK. Phân tích số liệu bằng Stata 10.0.
Kết quả: KT, TH đúng trước GDSK ở nhóm A đạt 53,31% và 48,18%; nhóm B đạt 63,13% và 49,38%.
Sau 3 lần GDSK trong 2 tháng, KT chưa đúng ở cả hai nhóm đều giảm với RR = 0,57 (0,45 – 0,70) ở nhóm A và
0,58 (0,44 – 0,78) ở nhóm B; TH sai giảm mạnh trong nhóm B, chỉ bằng 0,43 (0,31 – 0,58) so với trước GDSK,
nhóm A giảm ít hơn: RR = 0,74 (0,60 – 0,91). KT, TH đúng sau GDSK có liên quan với nhau (OR = 1,89 (1,51
– 2,37)) và bị chi phối bởi KT, TH ban đầu, phân hiệu của trẻ, nghề nghiệp và quan hệ của PH với trẻ (p<0,01).
Tuy nhiên, chưa chứng minh được mối liên quan giữa biện pháp GDSK với KT, TH (p>0,05).
Kết luận & đề xuất: GDSK bằng phát tờ bướm hoặc TTTT đều đạt hiệu quả trong việc nâng cao KT, TH
về phòng ngừa nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi. Phát tờ bướm dễ thực hiện, ít tốn kém, có thể được
khuyến cáo áp dụng rộng rãi cho cộng đồng và cần lập lại nhiều lần nhằm cung cấp và củng cố thông tin đúng
cho PH, góp phần giảm tỉ lệ bệnh.
Từ khóa: giun kim, tái nhiễm, giáo duc sức khỏe, kiểm soát nhiễm giun kim, phòng ngừa nhiễm giun kim


ABSTRACT
THE EFFECT OF HEALTH EDUCATION METHODS ON CONTROLLING ENTEROBIASIS IN
KINDERGATEN CHILDREN IN CU CHI DISTRICT, HO CHI MINH CITY SCHOOL YEAR 2008 – 2009
Nhu Thi Hoa, Nguyen Hang Giang, Le Thi Van Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 11 - 17
Objective: to assess the effect of health education methods: direct communication and flyers versus unique
flyers on preventing enterobiasis in kindergarten children in Cu Chi district, HCM City 2008 - 2009.
Subjects & method: this community intervention study was carried out among 1576 parents of children
belonging to 6 kindergartens that were randomly selected from 28 kindergartens in Cu Chi district, HCM City.
The studied subjects were randomly divided into two groups: group A received direct health education & flyers,
just flyers for group B. Distributing flyers and remind-letters was done after one month and two months,



Bộ môn Ký Sinh–Vi Nấm Học, trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: Ths. Nhữ Thị Hoa
ĐT : 0903379566
Email :

Chuyên Đề Ký Sinh Trùng

11


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

respectively, from first health education. Using the questionaire to collect data on administration, knowledge and
practice of parents. The rates of knowledge and practice were assessed before and after intervention. Data was

analysed by Stata 10.0.
Results: The rates of correct knowledge and practice before intervention are 53.31% and 48.18% in group A;
63.13% and 49.38% in group B, respectively. After three times of health education in 2 months, the rate of
incorrect knowledge and practice decreased in both groups: RR = 0.57 (0.45 – 0.70) and 0.74 (0.60 – 0.91) in
group A; RR = 0.58 (0.44 – 0.78) and 0.43(0.31 – 0.58) in group B. The rate of correct knowledge and practice
after intervention relates each other (OR =1.89(1.51 – 2.37)) and is influenced strongly by original cognition and
behavior, the center or branch of school, career of parents and people who directly take care of children (p <0.01).
However, this study has not yet demonstrated the relationship between health education methods and the rate of
correct knowledge and practice (p>0.05).
Conclusion & suggestion: Using flyers or direct communication improved equally on knowledge and
practice of parents of kindergarten children in Cu Chi district. But the former is simplier and doesn’t require time
or human resources, therefore, it is recommended for applying popularly to the community. It is also necessary to
repeat health education in order to ameliorate knowledge and practice of parents, contributing to control of
enterobiasis in kindergarten children.
Key words: Enterobius vermicularis, pinworm, pinworm infestation, enterobiasis, pinworm control,
prevention on enterobiasis, health education, reinfestaion.
Nhiều hoạt chất tẩy giun được tổng hợp với
ĐẶT VẤN ĐỀ
hiệu quả cao, > 90%(15). Tuy nhiên, hiện tượng tái
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột khá phổ
nhiễm vẫn đáng lo ngại, khoảng 15,5% vào
biến tại các nước nhiệt đới, nhất là những nước
tháng thứ 3(15) hoặc 44,7% vào tháng thứ 6 sau
đang phát triển, trong đó giun kim (Enterobius
điều trị(5). Như vậy, xổ giun định kỳ chưa đủ
vermicularis) xuất hiện khắp nơi trên thế giới do
ngăn chặn bệnh vì các trường hợp không đáp
khả năng lây nhiễm trực tiếp, không phụ thuộc
ứng với thuốc vẫn tiếp tục phát tán mầm bệnh
vào điều kiện khí hậu, địa lý. Yếu tố chính liên

vào môi trường và gây tái nhiễm nếu không áp
quan đến nhiễm giun kim là “vệ sinh”. Vào năm
dụng các biện pháp phòng ngừa.
1994, y văn thông báo khoảng 1 tỉ người nhiễm
Nói cách khác, một khoảng trống đã tồn tại
giun kim(1), tập trung chủ yếu ở trẻ sống trong
trong chiến lược tẩy giun định kỳ. Khoảng trống
môi trường đông đúc như nhà trẻ, mẫu giáo.
này phải được lấp đầy bằng các biện pháp
Mười năm sau, Corry ước tính hơn 30% trẻ trên
phòng ngừa nhiễm giun kim. Nhưng bao nhiêu
thế giới bị nhiễm Enterobius vermicularis(2). Ở Việt
phần trăm trong cộng đồng đã biết cách phòng
Nam, trước năm 2007, các tác giả ghi nhận nhiều
ngừa và đã thực hiện đúng? Thiết nghĩ tỷ lệ này
kết quả khác nhau, thay đổi theo vùng: 18,5 –
không cao vì con số tái nhiễm không được khả
47%(3,4,6,8,9,16,17), thậm chí lên đến 73,45%(10). Riêng
quan như đã đề cập. Thật vậy, KT, TH đúng nói
tại Củ Chi, khoảng 22 – 31% phết Graham
chung của PH về nhiễm giun kim tại Thái Bình
dương tính nhưng đôi khi <10% hoặc >50% ở
lần lượt là >67% và >27%(6); tại Củ Chi khoảng
một vài xã(11,12,15). Ngoài tính phổ biến, bệnh có
46% và 30,1%(13). Điều này chứng tỏ việc truyền
thể ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe bệnh nhân
thông cho cộng đồng về phòng ngừa nhiễm
nhất là trẻ em: suy dinh dưỡng, chậm phát triển
giun kim là cần thiết. Tuy nhiên “lựa chọn và
tâm thần vận động(1,2) , hoặc gây viêm nhiễm cơ

kết hợp các biện pháp giáo dục sức khỏe như thế
quan sinh dục, đường tiết niệu, ruột thừa, … do
nào để đạt hiệu quả cao nhất?”. Vì thế nghiên
biến chứng lạc chỗ.
cứu này được thực hiện tại huyện Củ Chi, nơi
Tỷ lệ nhiễm cao cùng với tác hại lâu dài của
có tỉ lệ nhiễm giun kim khá cao, với mong muốn
bệnh đã đặt ra yêu cầu giải quyết mầm bệnh.

12

Chuyên Đề Ký Sinh Trùng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
tìm ra phương pháp GDSK hiệu quả, khả năng
ứng dụng cao và ít tốn kém, góp phần kiểm soát
bệnh giun kim nói riêng và chăm sóc sức khỏe
cộng đồng nói chung.

ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có nhóm
chứng được tiến hành tại 6 trong 28 trường mẫu
giáo thuộc huyện Củ Chi, TP. HCM (rút thăm
ngẫu nhiên) năm học 2008-2009, với mong
muốn ứng dụng kết quả lên trẻ 3 – 5 tuổi trong
huyện. Tất cả PH của trẻ học tại 6 trường trên,
có mặt suốt thời gian nghiên cứu và đồng ý
tham gia đều được phân bố ngẫu nhiên vào 2

nhóm: nhóm A: TTTT & phát tờ bướm; nhóm B:
phát tờ bướm đơn thuần. Cỡ mẫu tối thiểu cho
mỗi nhóm là 447 PH, được tính dựa trên công
thức ước lượng một nguy cơ tương đối với α =
5%, độ chính xác mong muốn ε = 20%, p tham
khảo về KT đúng, TH đúng của hai nhóm
nghiên cứu lần lượt là: pKT-A= 95,9%, pKT-B =
67,5%, pTH-A= 72,6%, pTH-B = 28,4%(7), hệ số giảm
hiệu ứng mẫu cụm = 2.
GDSK được tiến hành 3 đợt, khoảng cách
giữa 2 đợt là 1 tháng. Đợt 1: TTTT từng nhóm
nhỏ cho tất cả PH trong nhóm A (khoảng 50
PH/nhóm); phát tờ bướm cho PH nhóm B. Đợt
2: phát tờ bướm cho PH cả 2 nhóm. Đợt 3: gửi
thư nhắc đến tất cả PH tham gia. Nội dung
GDSK của 3 hình thức trên đều nhấn mạnh đến
các biện pháp phòng ngừa nhiễm giun kim. Thu
thập thông tin bằng bảng câu hỏi cấu trúc phát

KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Nhóm A
Nhóm B
(NA = 936)
(NB = 640)
n (%)
n (%)
Người chăm sóc trẻ (NCS trẻ)
Mẹ
818 (87,4)

524 (819)
Khác
118 (12,6)
116 (18,1)
Dân tộc của PH
Kinh
993 (99,7)
631 (98,6)
Khác
3 (0,3)
9 (1,4)
Nghề của PH
Trí óc
26 (2,8)
97 (15,2)
Chân tay
910 (97,2)
543 (84,8)
TĐHV của PH
> cấp 2
145 (15,5)
242 (37,8)
≤ cấp 2
791 (84,5)
398 (62,2)
Tuổi của PH
≥30
559 (59,8)
396 (61,9)
<30

377 (40,2)
244 (38,1)
Phân hiệu
Điểm lẻ
415 (48,6)
615 (96,1)
Điểm chính
481 (51,4)
25 (3,9)
Phân lớp

692 (73,9)
324 (50,6)
Chồi
244 (26,1)
316 (49,4)
KT của PH
Đúng
499 (53,3)
404 (63,1)
Sai
437 (46,7)
236 (36,9)
TH của PH
Đúng
451 (48,2)
316 (49,4)
Sai
485 (51,8)
324 (50,6)

Đặc điểm

Đặc điểm

nhóm cũng như trong từng nhóm. Khử nhiễu
bằng phương pháp hồi quy logistic.

Chuyên Đề Ký Sinh Trùng

Trước GDSK

quả can thiệp. Sử dụng tần số, tỷ lệ để đo lường

khác biệt về KT, TH trước và sau GDSK giữa 2

< 0,01

< 0,02

< 0,01

< 0,01

> 0,39

< 0,01

< 0,01

< 0,01


> 0,64

Bảng 2: So sánh kiến thức, thực hành trước và sau
GDSK trong nhóm A (NA = 936).

vào và 1 tháng sau GDSK lần 3 để đánh giá hiệu

ý nghĩa 5% và RR (KTC 95%) để đo lường sự

p (χ2)

Ngoại trừ tuổi và thực hành trước GDSK của
PH, các thuộc tính còn lại phân bố không đều
giữa 2 nhóm.

cho PH tự điền trước GDSK để đánh giá đầu

KT, TH của PH; kiểm định χ2, MacNemar ở mức

Nghiên cứu Y học

Đúng
Sai
Đúng
Sai
Đúng
Sai

Sau GDSK

P
RR
(KTC 95%)
Đúng
Sai
McNemar
KIẾN THỨC (nhóm A)
Triệu chứng bệnh
330
146
0,62
<0,01
(0,50 – 0,77)
234
226
Yếu tố nguy cơ
55
143
> 0,27
125
613
Biện pháp phòng ngừa
589
92
0,64
< 0,01
(0,49 – 0,84)
143
112


13


Nghiên cứu Y học
Đặc điểm

Đúng
Sai

Đúng
Sai
Đúng
Sai
Đúng
Sai
Đúng
Sai

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Sau GDSK
P
Đúng
Sai
McNemar
Kiến thức chung
367
132
< 0,01
233

204
THỰC HÀNH (nhóm A)
Cắt móng tay cho trẻ
466
185
> 0,4
170
115
Rửa hậu môn cho trẻ
448
121
<0,01
197
170
Vệ sinh nhà cửa
6
14
<0,01
45
871
Thực hành chung
287
164
< 0,01
222
263

RR
(KTC 95%)


Sai
0,57
(0,45 – 0,70)

0,61
(0,48 – 0,77)
0,31
(0,16 – 0,58)
0,74
(0,60 – 0,91)

GDSK giúp cải thiện KT và TH của PH
nhóm A, cụ thể là hiểu biết về triệu chứng bệnh
và biện pháp phòng ngừa, thực hành rửa hậu
môn cho trẻ mỗi sáng sớm và lau nhà trước khi
quét.
Bảng 3: So sánh kiến thức, thực hành trước và sau
GDSK trong nhóm B (NB = 640).
Đặc điểm

Đúng
Sai

Trước GDSK

Đúng
Sai
Đúng
Sai
Đúng

Sai

Đúng
Sai
Đúng
Sai
Đúng

14

Sau GDSK
P
Đúng
Sai
McNemar
KIẾN THỨC (nhóm B)
Triệu chứng bệnh
320
69
<0,01
124
127
Yếu tố nguy cơ
43
101
>0,07
77
419
Biện pháp phòng ngừa
458

46
< 0,01
90
46
Kiến thức chung
325
79
< 0,01
135
101
THỰC HÀNH (nhóm B)
Cắt móng tay cho trẻ
396
61
< 0,01
108
75
Rửa hậu môn cho trẻ
340
57
<0,01
125
118
Vệ sinh nhà cửa
4
12
>0,8

Đặc điểm


OR
(KTC 95%)

Đúng
Sai

Sau GDSK
P
Đúng
Sai
McNemar
11
613
Thực hành chung
253
63
< 0,01
148
176

OR
(KTC 95%)

0,43
(0,31 – 0,58)

Sau GDSK, KT và TH sai nói chung của PH
nhóm B đều giảm; cụ thể là KT về triệu chứng
bệnh và biện pháp phòng ngừa, thực hành cắt
móng tay và rửa hậu môn cho trẻ mỗi sáng khi

trẻ thức dậy.
Bảng 4: Kết quả phân tích hồi quy đa biến sự khác
biệt về các thành tố KT, TH giữa hai nhóm sau
GDSK.
Biến số
Kiến thức
Triệu chứng bệnh
Yếu tố nguy cơ
Biện pháp phòng ngừa
Thực hành
Cắt móng tay cho trẻ
Rửa hậu môn cho trẻ
Vệ sinh nhà cửa

RR (KTC 95%)

p χ2

0,9 0,72 – 1,22 >0,65
1,15 0,84 – 1,58 >0,38
0,97 0,69 – 1,36 >0,87
0,90 0,68 – 1,20 >0,48
0,97
0,73
>0,84
1,50 0,70 – 3,11 >0,30

Các thành tố về KT, TH phòng ngừa nhiễm
giun kim của 2 nhóm PH đều như nhau sau
GDSK.

Bảng 5: Kết quả phân tích hồi quy đa biến sự khác
biệt KT chung giữa hai nhóm sau GDSK.

0,56
(0,41 – 0,75)

0,51
(0,35 – 0,74)
0,58
(0,44 – 0,78)

0,56
(0,41 – 0,78)
0,46
(0,33 – 0,63)

Biến số
Biện pháp GDSK
KT trước GDSK
NCS trẻ
Dân tộc PH
Nghề PH
Học vấn PH
Tuổi PH
Phân hiệu
Lớp

RR
1,06
2,49

1,03
0,50
2,12
1,32
1,11
1,55
1,03

(KTC 95%)
0,81 – 1,39
1,99 – 3,10
0,75 – 1,41
0,11 – 2,39
1,17 – 3,86
0,97 – 1,80
0,88 – 1,39
1,18 – 2,05
0,80 – 1,32

2


>0,64
<0,01
>0,87
>0,38
<0,02
>0,08
>0,37
<0,01

>0,83

Nhóm PH có KT đúng trước GDSK, LĐ trí
óc, trẻ học ở phân hiệu chính sẽ có tỷ lệ KT
đúng sau GDSK cao hơn. Tuy nhiên chưa tìm
thấy mối liên hệ giữa biện pháp GDSK và KT về
bệnh giun kim.
Bảng 6: Kết quả phân tích hồi quy đa biến sự khác
biệt TH chung giữa hai nhóm sau GDSK.
Biến số
Biện pháp GDSK

RR
0,93

(KTC 95%)
0,72 – 1,20

p χ2
>0,58

Chuyên Đề Ký Sinh Trùng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Biến số
TH trước GDSK
KT sau GDSK
NCS trẻ
Dân tộc PH

Nghề PH
Học vấn PH
Tuổi PH
Phân hiệu
Lớp

RR
2,79
1,89
1,43
3,22
1,31
1,15
0,96
1,55
1,00

(KTC 95%)
2,25 – 3,45
1,51 – 2,37
1,07 – 1,93
0,93 – 11,2
0,81 – 2,12
0,86 – 1,54
0,77 – 1,20
1,18 – 2,04
0,85 – 1,19

p χ2
<0,01

<0,01
<0,02
>0,05
>0,05
>0,05
>0,05
<0,01
>0,05

Nhóm PH là mẹ, trẻ học ở phân hiệu chính,
có TH đúng trước GDSK sẽ TH đúng sau GDSK
cao hơn các nhóm còn lại, nhưng chưa tìm thấy
mối liên quan giữa biện pháp GDSK và TH
phòng bệnh giun kim.

BÀN LUẬN
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Tổng mẫu khảo sát bao gồm 1.576 PH, trong
đó 936 PH thuộc nhóm A và 640 PH thuộc
nhóm B. Với phương pháp chọn mẫu cụm, sự
khác biệt đã xuất hiện giữa hai nhóm về các
thuộc tính: phân hiệu, phân lớp, người trực tiếp
chăm sóc trẻ (NCS) cũng như dân tộc, nghề
nghiệp, trình độ học vấn và kiến thức về bệnh
giun kim của PH (p < 0,05, bảng 1). Sự không
tương đồng này có khả năng gây nhiễu khi so
sánh kết quả giữa hai nhóm, do đó, phương
pháp hồi quy đa biến được sử dụng để phân
tích sự khác biệt về KT, TH giữa 2 nhóm sau can
thiệp.


So sánh tỷ lệ KT, TH đúng của PH trước và
sau GDSK trong từng nhóm
Sau TTTT và phát tờ bướm, tỷ lệ KT, TH
sai của PH về nhiễm giun kim nói chung đều
giảm: lần lượt thấp hơn so với trước GDSK
0,57 và 0,74 lần ở nhóm A, 0,58 và 0,45 lần ở
nhóm B (p<0,01, bảng 2 và 3). Như vậy GDSK
đã có tác dụng cải thiện KT và TH của PH.
Khảo sát năm 2008 tại Củ Chi cũng chứng
minh được vai trò tích cực của GDSK với RR =
0,45 (0,36-0,56) và 0,66 (0,52-0,83)(14).
Xét chi tiết hơn, về KT, hiểu biết đúng các
yếu tố thuận lợi chưa được cải thiện ở cả 2
nhóm. Hầu hết PH vẫn cho rằng ăn uống kém

Chuyên Đề Ký Sinh Trùng

Nghiên cứu Y học

vệ sinh, đi chân đất đều liên quan đến nhiễm
giun kim (bảng 2 và 3). Nguyên nhân có thể do
việc truyền thông trên các phương tiện thông tin
đại chúng về phòng ngừa nhiễm giun sán trước
đây và hiện nay chủ yếu tập trung vào các loại
giun sán gây nhiễm qua thức ăn nước uống
hoặc tay chân dơ dính đất cát, khác với giun
kim; trong khi việc GDSK chuyên về giun kim
chỉ mới được thực hiện qua khảo sát này tại Củ
Chi nên chưa đủ lực tạo “dấu ấn bền bỉ” trong

nhận thức của phụ huynh sau khi ngưng GDSK.
Qua đó đã nhấn mạnh nguyên tắc “nhắc lại đều
đặn, thường xuyên” trong hoạt động truyền
thông giáo dục.
Ngoài ra, yếu tố nguy cơ thường đi đôi với
các biện pháp phòng ngừa, nhưng bảng 2 và 3
đã không thể hiện được tính song hành này:
nhận thức về các hành vi liên quan đến nhiễm
giun kim chưa được nâng cao trong khi PH lại
cải thiện tốt hiểu biết về cách phòng ngừa. Mâu
thuẫn này được lý giải như sau: vấn đề ăn uống
không hợp vệ sinh (ăn rau sống không rửa kỹ,
uống nước không nấu chín) được đánh giá
trong KT về điều kiện thuận lợi của bệnh nhưng
các câu hỏi về phòng ngừa lại chuyên biệt cho
nhiễm giun kim và chủ yếu nhấn mạnh đến việc
rửa hậu môn cho trẻ mỗi buổi sáng khi trẻ thức
dậy. Đây là điểm quyết định trong chu kỳ lây
nhiễm của E. vermicularis và KT này đã được
nâng cao sau GDSK, vì thế thực hành biện pháp
này cũng gia tăng 1,6 lần ở nhóm A và 2,2 lần ở
nhóm B, nói cách khác, số PH không rửa hậu
môn cho trẻ đều đặn vào sáng sớm, sau khi trẻ
thức dậy, chỉ còn 0,61 lần ở nhóm A và 0,46 lần
ở nhóm B so với trước GDSK.

So sánh tỷ lệ KT, TH đúng của PH sau can
thiệp giữa 2 nhóm
Sau khi xử lý hồi quy logistic, bảng 4, 5 và 6
đều không phát hiện sự khác biệt giữa 2 nhóm

trong từng KT, TH thành phần nói riêng cũng
như về KT, TH nói chung, nghĩa là không tồn tại
mối liên quan giữa KT, TH về phòng ngừa
nhiễm giun kim và các biện pháp GDSK (p
>0,05). Tuy nhiên, một số yếu tố thuộc tính lại

15


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

ảnh hưởng đến việc tiếp thu KT và TH của PH
sau GDSK. Đối với nhận thức sau can thiệp,
bảng 5 và 6 đã ghi nhận tác động của KT đúng
trước GDSK, nghề nghiệp của PH, và phân hiệu
của trẻ với RR lần lượt là 2,49 (1,99-3,10); 2,12
(1,17-3,86) và 1,55 (1,18-2,05). Về TH sau khi tiến
hành truyền thông, vai trò của hành vi đúng
trước can thiệp, KT đúng sau can thiệp, người
trực tiếp chăm sóc trẻ và phân hiệu của trẻ cũng
được thể hiện (RR = 2,79 (2,25-3,45), 1,89 (1,51 –
2,37), 1,43 (1,07-1,93) và 1,55 (1,18-2,04)).
KT, TH đúng trước can thiệp là nền tảng cơ
bản nhưng có thể tồn tại những lỗ hổng. GDSK
sẽ lấp đầy các lỗ hổng đó, điều chỉnh các sai sót
và vun đắp thêm những gì đang sẵn có, giúp
hoàn thiện nhận thức và thực hành. Vì vậy, sau
truyền thông, KT, TH của PH đã tăng lên rõ rệt

(> 2 lần). Ngoài ra, sự cải thiện nhận thức sau
can thiệp cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy PH
thực hiện biện pháp phòng ngừa tốt hơn. Một
khảo sát năm 2008 trên 1677 trẻ mẫu giáo huyện
Củ Chi đã đưa ra nhận định tương tự: nếu có
kiến thức đúng, phụ huynh sẽ thực hành đúng
về phòng ngừa nhiễm giun kim cao hơn nhóm
không có kiến thức đúng 1,72 lần (1,27 – 2,33)(13).
Quy luật này đáp ứng được trình tự logic trong
chuyển biến tư duy, hành động của con người
và đã được chứng minh một cách thực tế, từ đó
chứng tỏ hiệu quả của GDSK trong việc lấp đầy
khoảng trống của xổ giun định kỳ nhằm kiểm
soát triệt để nhiễm giun kim.
Các yếu tố thuộc tính khác bao gồm nghề
nghiệp của PH, phân hiệu của trẻ đã ảnh hưởng
gián tiếp đến nhận thức thông qua trình độ học
vấn, và từ nhận thức đúng dẫn đến thực hành
đúng như đã trình bày trong các phần bàn luận
phía trên. Về yếu tố người trực tiếp chăm sóc
trẻ, đây là người sẽ phải chịu đựng những phiền
toái khi trẻ bị nhiễm giun kim: mất ngủ liên tục
vào ban đêm do trẻ quấy khóc khi ngứa hậu
môn, lo lắng khi trẻ biếng ăn, suy dinh
dưỡng…, hơn nữa, mẹ thường quan tâm nhiều
đến trẻ hơn những người khác trong gia đình, vì
thế mẹ sẽ chú tâm và nhiệt tình tìm hiểu thông
tin về nhiễm giun kim hơn và TH đúng hơn.

16


Nói tóm lại, trong khảo sát này, các biện
pháp giáo dục sức khỏe (truyền thông trực tiếp
kết hợp phát tờ bướm và phát tờ bướm đơn
thuần) đều có hiệu quả như nhau trong vai trò
cải thiện kiến thức, thực hành liên quan đến
phòng ngừa bệnh giun kim. GDSK trực tiếp có
nhiều ưu điểm như: i) song song với việc cung
cấp thông tin, truyền thông trực tiếp có thể giải
thích cặn kẽ thắc mắc của phụ huynh; ii) việc
lượng giá trực tiếp ngay sau buổi nói chuyện
(đặt câu hỏi mời phụ huynh trả lời) là một cách
nhắc lại và củng cố kiến thức cho đối tượng
được truyền thông. Nhưng về khía cạnh thực
hiện, truyền thông trực tiếp đòi hỏi thời gian,
nhân lực và tài lực nhất là khi tiến hành tại các
trường có nhiều điểm lẻ cách xa nhau. Mặt khác,
nghề nghiệp của phụ huynh đa dạng nên việc
tập trung phụ huynh vào một thời điểm nhất
định rất khó khăn. Với việc phát tờ bướm, nếu
được lập lại thường xuyên và không thay đổi
hình thức, nội dung trình bày có thể gây nhàm
chán, phụ huynh không được giải đáp những
điều vướng mắc, nhưng phụ huynh có thể lưu
giữ để xem lại nhiều lần khi cần thiết - một cách
tự củng cố kiến thức rất hữu ích. Ngoài ra, biện
pháp này rất linh động về thời gian thực hiện,
có thể phổ biến cho mọi thành viên trong gia
đình.
Như vậy, mỗi biện pháp đều có ưu khuyết

điểm riêng và sẽ thích hợp cho từng nhóm đối
tượng. Ví dụ: truyền thông trực tiếp sẽ hữu ích
hơn đối với nhóm phụ huynh làm nghề tự do,
học dưới cấp 2, vì dễ tổ chức và có thể giải thích
kỹ hơn, rõ hơn, ngược lại, GDSK bằng phát tờ
bướm đơn thuần sẽ thuận tiện hơn cho nhóm
phụ huynh là cán bộ, viên chức, lao động trí óc
do hạn chế về thời gian nhưng PH có thể hiểu
nội dung truyền thông một cách dễ dàng. Vì
vậy, trước khi thực hiện GDSK, nên tiến hành
khảo sát đặc điểm của cộng đồng cần được can
thiệp để lựa chọn biện pháp tối ưu nhất.

KẾT LUẬN
Tỷ lệ kiến KT, TH đúng của PH trẻ mẫu giáo
huyện Củ Chi trước GDSK về phòng ngừa bệnh

Chuyên Đề Ký Sinh Trùng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
giun kim tương đối thấp (< 64% và < 50%). Tuy
nhiên, TTTT phối hợp phát tờ bướm hoặc phát
tờ bướm đơn thuần đều cải thiện KT, TH của PH
(> 1,5 lần, p<0,01). KT đúng sẽ giúp TH đúng
nhiều hơn. Nền tảng KT, TH ban đầu, nghề
nghiệp của PH, NCS trẻ là mẹ và phân hiệu nơi
trẻ học đều chi phối hiệu quả của GDSK.

7.


8.

9.

ĐỀ XUẤT
Nên khảo sát đặc điểm của cộng đồng trước
khi tiến hành GDSK để lựa chọn biện pháp phù
hợp. Hiện nay, nguồn lực của huyện Củ Chi còn
khó khăn nên trước mắt có thể áp dụng biện
pháp phát tờ bướm để truyền thông về phòng
ngừa nhiễm giun kim cho PH trẻ mẫu giáo tại
huyện. Đề nghị BGH các trường mẫu giáo
thường xuyên nhắc nhở PH qua sổ bé ngoan về
việc rửa sạch vùng hậu môn cho bé mỗi sáng
sớm, lau rửa sàn nhà cũng như các vật dụng
sinh hoạt, đồ chơi của bé. Bên cạnh đó, nên tiến
hành khảo sát KT, TH của cô giáo về phòng
ngừa nhiễm giun kim cho trẻ.

10.

11.

12.

13.

Chân thành cám ơn công ty Janssen-Cilag đã hỗ trợ một phần
thuốc Mebendazole 500mg (Fugacar) cho nghiên cứu này.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

4.

5.

6.

Cook GC (1994). Tropical infection of the gastrointestinal tract
and liver series. Gut, 35: 1159 – 1162
Corry JK, Martin GL, Sortor BV (2004). Common Intestinal
Parasites. American Family Physician, 69:1161-1162
Giang Thùy Dương (2006). Tình hình nhiễm giun kim ở một số
nhà trẻ - Mẫu giáo phường Tân An TP Buôn Ma Thuột và xã
EaDrơng Huyện CưMgar, tỉnh DakLak. Luận văn tốt nghiệp
bác sĩ đa khoa. Trường đại học Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột
Lại Quang Sáng, Hoàng Thị Hòa, Nguyễn Thị Thu Huyền
(2004). Tình hình nhiễm giun kim của trẻ em lứa tuổi nhà trẻ Mẫu giáo tại trường mầm non số 2 thành phố Nam Định và
hiệu quả của Mebendazol. Tạp chí y học thực hành, 477: 93 -95
Lương V. Định, N.V. Hinh, B.T. Lộc, H.T.D. Hương, T.T.M.
Liên, L.Q. Phú, và cs. (2006). Nghiên cứu tình hình nhiễm giun
truyền qua đất và đánh giá sự tái nhiễm sau can thiệp bằng
Mebendazole ở trẻ em xã Hồng Vân, huyện A Lưới, tỉnh Thừa
Thiên Huế 2005 – 2006. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các
bệnh ký sinh trùng, 6: 87-94
Lê Thị Tuyết (2006). Thực trạng nhiễm giun kim ở trẻ em nhà

trẻ, mẫu giáo và nhận thức, thực hành của người nuôi, dạy trẻ ở
3 xã tỉnh Thái Bình. tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh
ký sinh trùng, 6:72 - 9

Chuyên Đề Ký Sinh Trùng

14.

15.

16.

17.

Nghiên cứu Y học

Lê Thị Tuyết (2006). Hiệu quả của biện pháp giáo dục sức khỏe
và vệ sinh môi trường cho người nuôi dạy trẻ về bệnh giun kim
ở nhà trẻ, mẫu giáo xã Tân Phong – Thái Bình. Tạp chí phòng
chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 6: 80-86
Nguyễn Ngọc Huyền (2006). Thực trạng nhiễm giun kim ở lứa
tuổi nhà trẻ - mẫu giáo tại một số trường mầm non nội và ngoại
thị thành phố Buôn Ma Thuột. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa
khoa. Trường Đại học Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột
Nguyễn Thị Hường (2005). Tình hình nhiễm giun kim ở lứa tuổi
nhà trẻ - mẫu giáo tại một số điểm thuộc hai huyện Eakar và
Easoup, tỉnh Dak Lak năm 2005. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa
khoa. Trường Đại học Tây Nguyên, Dak Lak
Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Xuân Tuế (1996). Tình hình nhiễm
giun kim ở trẻ em thành phố Buôn Ma Thuột lứa tuổi từ 1 - 10.

Luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa khoa. Trường Đại học Tây
Nguyên, Buôn Ma Thuột
Nhữ Thị Hoa (2008). Tình hình nhiễm giun kim ở các trường
mẫu giáo huyện Củ Chi, TP. HCM sau 5 năm thực hiện xổ giun
định kỳ. Tạp chí Thời Sự Y Học, 26: 7 – 9
Nhữ Thị Hoa, Hồ Quốc Cường, Nguyễn Trương Tường Duy
(2010). Tỉ lệ nhiễm giun kim trên trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi,
TP. HCM từ tháng 9/2008 đến tháng 5/2009. Tạp chí Y Học
TP.HCM, Chuyên đề Khoa Học Cơ Bản – Y tế Cộng Đồng, Hội
Nghị Khoa Học Công Nghệ Kỹ Thuật lần thứ 27, trường Đại
Học Y Dược TP. HCM 2010, phụ bản của tập 14, số 1, tr. 133 –
138
Nhữ Thị Hoa, Hồ Quốc Cường, Nguyễn Trương Tường Duy
(2010). Kiến thức thực hành về phòng ngừa nhiễm giun kim của
phụ huynh trẻ mẫu giáo tại huyện Củ Chi, TP. HCM. Tạp chí Y
Học TP.HCM, Chuyên đề Khoa Học Cơ Bản – Y tế Cộng Đồng,
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Kỹ Thuật lần thứ 27, trường
Đại Học Y Dược TP. HCM 2010, phụ bản của tập 14, số 1, tr. 127
– 132
Nhữ Thị Hoa, Hồ Quốc Cường, Nguyễn Trương Tường Duy,
Trần Xuân Mai (2010). Hiệu quả của giáo dục sức khỏe trong
kiểm soát nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo tại huyện Củ Chi, TP.
HCM từ tháng 9/2008 đến tháng 5/2009. Tạp chí Y Học
TP.HCM, Chuyên đề Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Kỹ Thuật
trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 2010, phụ bản của
tập 14, số 2, tr. 206 – 211.
Nhữ Thị Hoa, Lương Thúy Vân, Nguyễn Đức Chỉnh, Trần
Công Trưởng (2009). Hiệu quả của Mebendazole đơn liều trong
kiểm soát nhiễm giun kim tại huyện Củ Chi, TP. HCM từ 5/2007
đến 1/2008. Tạp chí Y Học TP.HCM, tập 13, số 3, tr. 145 – 150.

Phan Thị Hương Liên, Hoàng Tân Dân, Lê Thanh Phương & cs.
(2003). Nghiên cứu tình hình nhiễm giun đường ruột ở trẻ em
trường mầm non Việt - Bun, Hà Nội và đánh giá hiệu quả của
Nasoko (Mebendazole) trong điều trị giun đường ruột. Tạp chí y
học thực hành, 477: 95 -99.
Trần Thị Thanh Tâm, Nguyễn Thị Thảo Hiền (1994). Phân tích
dịch tễ học tỷ lệ nhiễm giun kim tại hai trường mầm non 15A Q.
Phú Nhuận (nội thành TP.HCM), mầm non Linh Xuân - Thủ
Đức (ngoại thành TP.HCM). Luận văn tốt ngiệp bác sĩ đa khoa.
Trung Tâm Đào Tạo và Bồi Dưỡng Cán Bộ Y Tế, TP.HCM.

17



×