Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

nghẹ thuat mieu ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.77 KB, 3 trang )

Vài nét về nghệ thuật miêu tả trong
truyện kiều của nguyễn du
Hun đúc trng một gia đình có truyền thống văn học, kết hợp khiếu bẩm sinh thông
minh ham học. Nguyễn Du là đứa con của hai làn điệu dân ca. Một là câu hát Ví Dặm theo
điệu Phờng Vải; hai là quê hơng hát Quan Họ, cộng thêm hai luồng ngôn ngữ ( ngôn ngữ t-
ợng tng của văn học cổ Trung quốc; Hán - Việt và ngôn ngữ văn học dân tộc). Nguyễn Du là
bậc thầy về việc sử dụng Tiếng việt.
Xét về nghệ thuật miêu tả trong Truyện Kiều

về nghệ thuật miêu tả thì Nguyễn Du là một tài nghệ truyền thần với bút pháp tả thực. Truyện
Kiều có cái đẹp sâu sắc, tế nhị, tinh vi của thơ Đờng, có các đẹp giản dị, dễ hiểu chất phác của ca
dao. Có sử dụng nhiều điển cố thông thờng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.Ngôn ngữ Truyện
Kiều có cả nhạc, họa mang sắc thái sinh động nhiều vẻ, có tả thực, có tả khái quát cao độ, có ớc
lệ cách điệu và tợng trng. Truyện Kiều là một bức tranh sinh động, xác thực về xã hội phong kiến
áp bức ở thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Bức tranh ấy có cả ngời - cảnh vì nhằm thể hiện tình, bức
tranh có âm thanh, màu sắc, đờng nét, hình ảnh.
1) tả cảnh:
Nguyễn Du tả cảnh mà ông đã lồng tình vào cảnh, tả cảnh mà thực ra là tả tình ( tả cảnh ngụ
tình ). Tuy vậy có khi là những cảnh tả thực với thái độ khách quan.
*Cảnh Thanh minh:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm, một vài bông hoa
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe nh nớc , áo quần nh nêm
*Cảnh mùa hè:
Dới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tờng lửa lựu lập lòe đơm bông
*Cảnh mùa thu:
Long lanh đáy nớc in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
*Cảnh mùa xuân:


Ngày xuân con én đa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mơi
- phần nhiều tả cảnh ngụ tình.
+ Cảnh vật chỗ Kim Trọng và Kiều gặp nhau bên dòng nớc, bây giờ Kim Trọng trở lại thăm
mọi cảnh vật đều nh nỗi lòng nhớ nhung man mác của Kim Trọng:
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nớc ngân trong vắt thấy gì nữa đâu
Gió chiều nh gợi cơn sầu
Vĩ lô hiu hắt nh màu khơi trâu
Để làm rõ nỗi sợ hải của Kiều khi trốn theo Sở Khanh và ra đi lần đầu tiên bơ vơ trên đờng với
ngời lạ đó là cảnh mùa thu não nùng, cảnh đêm hiu hắt:
vĩ lô san sát hơi mây
Một trời thu để riêng say một ngời
Dặm khuya bát ngát mù khơi
Thấy trăng mà thện những lời non sông
đêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sơng
Lối mòn cỏ lạt màu sơng
Lòng quê đi một bớc đờng quặn đau.
2) Tả tình.
Dới con mắt của Nguyễn Du tài quan sát từng nào thì trái tim ông đồng cảm với nhân vật
từng ấy. Vì ông không chỉ là một nhà tâm lý
Sâu sắc mà còn một nghệ sĩ thiên tài có trái tim muôn triệu. Chỉ có đồng cảm đòng cảm chân thành
với nhân vật mới viết nên những câu thơ đầy truyền cảm có mảnh lực khêu gợi nh những câu thơ của
ông.
- Tình yêu của Kiều với Kim Trọng khi gặp Kim Trọng
dùng dăng cha nở rời tay
Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà
Ngời đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không

- Tả nỗi lòng của Thuý Kiều trong thời gian phải tiếp khách, sống lăn lóc trong cuộc đời truỵ lạc,
xấu xa, nhng ngòi bút sành sỏi của Nguyễn Du rất tế nhị:
Khi tỉnh rợu lúc tàn canh
Giật mình, mình lại, thơng mình xó xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác nh hoa giữa đờng
Mặt sao dày gió dạn sơng
Thân sao bớm chán ong chờng bấy thân
Mặc ngời m sở mây tần
Những mình nào biết có xuân là gì ?
Cũng là tâm trạng nỗi lòng của Kiều nhng qua 4 lần gãy đàn là 4 biểu hiện khác nhau.
*tiếng đàn trong đêm tình tự với Kim Trọng; vui có, buồn có nhng thật bồng bột sôi nỗi
so vần dây vũ dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thơng
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu t mà phợng cầu
Nghe ra nh oán nh sầu phải chăng
Quá này là khúc chiêu quân
Nữa phần luyến chúa, nữa phần t gia
Trong nh tiếng hạc bay qua
Đục nh tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan nh gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập nh trời đổ ma.
tiếng đàn hầu Hoạn Th và Thúc Sinh:
bốn dây nh khóc nh than
khiến ngời trên tiệc cũng tan nát lòng
cũng trong một tiếng tơ đồng
ngời ngoài cời nụ ngời trong khóc thầm
Tiếng đàn trong bữa tiệc thắng trận đầy máu tanh của Hồ Tôn Hiến
Một cung nhỏ thảm ma sầu

Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Kiều đánh đàn cho họ Mã:
ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
Kiều đánh đàn sau khi chịu tiếp khách:
đòi phen vẽ nét câu thơ
Cầm cung trong nguyệt dới cờ ,dới hoa
* kiều đánh đàn cho Thúc Sinh
'' khi hơng sớm, khi trà tra
Bàn vây điểm nớc đờng tơ hoạ đàn''
Kiều đánh đàn cho Hoạn Th
Lỉnh lời nàng mới lựa dây
Nỉ non thánh thót dễ say lòng ngời .
3) Tả ng ời:
Nguyễn Du tả ngời theo phơng pháp điển hình, thủ pháp ớc lệ tợng trng. Chỉ một vài chi tiết,
vài câu nét chấm phá cũng đã đủ cho ta thấy con ngời ấy là ai, là ngời nh thế nào, thuộc hạnh ngời
nào rồi. Ông thờng dùng nghệ thuật miêu tả bề ngoài ( hình dáng ) mà diễn tả nội tâm bên trong
nhân vật, dùng cử chỉ lời nói mà vẽ tâm lý.
+ Nàng Kiều:
Một ngời con gái đẹp đến tuyệt thế giai nhân tác giả không nói nhiều mà chỉ vài nét chấm phá:
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nớc nghiêng thành
Sác đành đòi một tài đành hoạ hai
+ Kim Trọng:
Chỉ vài nét miêu tả rất thanh tú Nguyễn Du gây cho ngời đọc thấy chàng là một ngời tài ba, đạo
mạo và có sắc đẹp tài năng xứng đáng, con ngời mang dáng dấp phong nhã th sinh cuốn hút bao cô
gái đẹp
Phong th tài mạo tót vời
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
+Mã Giám Sinh:

Dới ngòi bút Nguyễn Du ,anh chàng họ Mã này hiện lên là một kẻ lái buôn đội lốt, chuyên bịp
bợm lừa lọc, xảo trá. Chúng đã dùng tiền để biến Kiều thành một món hàng mua bán ở chợ:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Kò kè bớt một thêm hai
+Tú Bà:
Tú Bà đợc phác hoạ qua một vài nét, chúng ta cũng thấy dáng vóc của Tú Bà thô kệch, dữ tợn,
buôn ngời, bán ngời, bóc lột trên nỗi khổ mồ hôi của ngời khác
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì mà to lớn đẫy đà làm sao
+ Sở Khanh:
Trong Truyện Kiều đọc đến đó ai cũng chép miệng và ghê tỡm, một tên chuyên bóp chết
những cái tinh hoa nhị khí của ngời phụ nữ dới chế độ phong kiến
Bạc tình nỗi tiếng lầu xanh,
Một tay chôn biết mấy cành phù dung.
+Hoạn Th:
Một nhân vật khó quyên, một tên gian ác, mu cao. Nó đã hành hạ Kiều một cách tàn nhẫn, bắt
Kiều phải làm đủ mọi điều. Đội đèn, đánh đàn hầu rợu và làm đứa ở:
Bề ngoài thơn thớt nói cời,
Mà trong nham hiểm giết ngời không dao.
Ngôn ngữ Truyện Kiều rất phong phú và đa dạng, bản thân cảm nhận vài nét nh vậy, có gì khiếm
khuyết mong bạn đọc góp ý thêm. Xin cảm ơn.
Tháng 12 năm 2008
Ngời viết
Đào Xuân Ngãi




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×