Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

CÁI HAY CỦA THƠ MỚI (1932 - 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.76 KB, 4 trang )

Cái hay của Thơ mới (1932 - 1945)
Ngày nay, khi nhắc đến hai từ Thơ mới, ngay lập tức ngời ta liên tởng đến
một thời kì trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Ngời ta lại
biết đến Thơ mới qua các bài thơ tiêu biểu của các tác giả nổi danh nh Xuân
Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Chế Lan Viên, Đông Hồ, Nguyễn Nhợc Pháp, Lu
Trọng L, Nguyễn Bính... mà ít ai biết đợc rằng, để có đợc một phong trào thơ
với đúng nh tên gọi của nó, thế hệ văn nghệ sĩ thời bấy giờ đã trải qua những
bớc thăng trầm nh thế nào.
Thật vậy, phong trào Thơ mới (1932 1945) khi đang còn trong thời kì
trứng nớc đã phải đối mặt với không ít những ý kiến, quan điểm phản đối
gay gắt , mạnh mẽ của thơ cũ. Xã hội truyền thống Việt Nam cha cho
phép, cha chuẩn bị để làm một cuộc cách mạng trong thi ca. Vì vậy khi
vào một ngày nọ (10 3 1932) Cuộc cách mạng trong thi ca đã nhóm
dậy (Hoài Thanh Hoài Chân). Lần đầu tiên trong thành trì thơ cũ hiện ra
một lỗ thủng với bài thơ Tình già của Phan Khôi trên tờ Phụ nữ tân văn.
Nói nh Huy Cận trong bài phát biểu nhân kỉ niệm 60 năm phong trào Thơ
mới (15 02 - 1992) Bây giờ đây, Thơ mới đã nghiễm nhiên nằm trong văn
mạch dân tộc và là một chơng rất quan trọng trong lịch sử văn học nớc nhà.
Nhng hồi đó (1932) Thơ mới là nỗi niềm, thái độ , là một cuộc ra trận của cả
một thế hệ văn chơng, một lực lợng trẻ văn hoá dân tộc quyết đổi mới cả một
nền văn thơ, văn chơng đã mỏi mòn, khô cứng, bạc màu.
Tổng kết về Thơ mới, Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam
đã khẳng định: Không lấy một ngời so sánh với một ngời, hãy lấy thời đại so
sánh với thời đại. Tôi quyết rằng cha có thời đại nào phong phú nh thời đại này
trong lịch sử thi ca Việt Nam. Cha bao giờ ngời ta thấy xuất hiện cùng một lần
một hồn thơ rộng mở nh Thế Lữ, mơ màng nh Lu Trọng L, hùng tráng nh Huy
Thông, trong sáng nh Nguyễn Nhợc Pháp, ảo não nh Huy Cận, quê mùa nh
Nguyễn Bính, kì dị nh Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn nh Xuân
Diệu.
Thơ mới tạo lập và chứa đựng nhiều nỗi niềm, là một phong trào thơ, một
nền thơ, các nhà Thơ mới có quan điểm thẩm mĩ, có những cách thể hiện riêng


đợc định hình thông qua các nhà thơ tiêu biểu, từ đó chi phối cả nền thơ. Trớc
hết, Thơ mới thể hiện cái tôi cá nhân (In-di-vi-du) một cách rõ rệt. Cái tôi
trong thơ mới có cái tinh tơm, tinh tờng của nó và cái lớn muốn hoà vào đại d-
ơng, muốn đẩy xa không ngừng cả lớp sóng của cả trờng giang. Cái tôi khi vừa
mới phát hiện ra, nó đã đem lại cho ta nhiều giá trị mới. Nó thể hiện sự cách
tân của thơ vì cuộc đời và lẽ sống. Cái tôi trong Thơ mới xuất hiện gắn liền với
từng lớp thị dân, gắn với nền văn minh công nghiễp, đó vừa là sản phẩm, vừa
là chủ thể của nền văn hoá mới. Các nhà Thơ mới đều có ý thức khẳng định
mình nh một thực thể duy nhất không lặp lại. Bởi vậy, Lu Trọng L đã mỉm c -
ời trong thú đau thơng. Đồng thời, các nhà Thơ mới quan niệm rằng cô đơn,
buồn chính là cái đẹp. Huy Cận đã từng bảo rằng Cái đẹp bao giờ cũng hơi
buồn. Những quan niệm ấy có lẽ đợc khởi nguồn từ phơng Tây khi nhà thơ
Mĩ Edgar Allan Poe đã từng nói: Giọng điệu buồn là giọng điệu thích hợp
với thơ ca .
Rõ ràng, khi quan niệm nh vậy thì việc thể hiện thế giới tự nhiên cũng
đồng thời cho việc bộc bạch tâm trạng. Huy Cận đã phải thốt lên:
Hồn đơn chiếc nh đảo rời dặm biển
Cả một thiên cổ sầu ngìn năm dồn chất vào trong một tâm hồn thơ. Hoài
Thanh đã nhận xét trong Thi nhân Việt Nam rằng: Các cụ nhà ta khi nhìn
thấy một cô gái xinh đẹp thì có cảm giác tội lỗi. Nhng xã hội đã đổi mới rồi,
Một xã hội mới hình thành thay thế cho xã hội truyền thống. Một ý thức hệ
mới đang hình thành thay cho ý thức hệ cố hữu. Một con ngời mới dầu cha
phải là đa số quốc dân đang muốn hớng cuộc sống theo ý của họ. Những con
ngời ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây....
Các nhà Thơ mới say sa viết về những mối tình dang dở. Họ quan niệm:
Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề
(Hồ Zếnh)
Vũ Hoàng Chơng nh mất hết cả niềm đam mê khi:
Em ơi lửa tắt bình khô cạn

Đời vắng em rồi say với ai?
Hàn Mặc Tử cũng hoá dại khờ khi:
Ngời đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi hóa dại khờ
Chủ nghĩa lãng mạn thờng viết về những đề tài thiên nhiên và tình yêu,
hay thiên nhiên và tình yêu là đề tài rất phù hợp với các nhà thơ. Bởi vậy, Hoài
Thanh đã từng khen hai câu thơ hay nhất trong nền thơ ca viết về đề tài mùa
thu của Bích Khê:
Ô hay! Buồn vơng cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
Thơ mới nói chung thờng thích những cảnh sông dài trời rộng, những
cảnh gợi cho ngời ta cảm giác bâng khuâng, man mác, cô đơn... Các nhà Thơ
mới thích những đêm trăng lạnh, những buổi chiều tà mà tiêu biểu là Huy Cận
với bài Tràng giang.
Nói chung,Thơ mới thể hiện nỗ lực sáng tạo hình thức thơ ca. Có thể nói
trong Thơ mới, có nhiều câu thơ rât mới lạ so với thơ ca truyền thống. Cái mới
ấy đợc biểu hiện trong cách thể hiện của các nhà thơ chịu ảnh hởng bởi
Baudelaire và trờng phái tợng trng Pháp, với những câu thơ đầy tính nổi loạn
nh:
Ô kìa! Bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dới đáy khe
(Hàn Mặc Tử)
Và đây là những câu thơ hoàn toàn mới lạ của Xuân Diệu:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vờn sắc đỏ rủa màu xanh
Điều quan trọng là Thơ mới có nhạc tính, đặc sắc trong cách cấu tạo từ:
ái ân bờ cỏ ôm chân trúc
(Thế Lữ)
Điểm hay nhất của Thơ mới là chấp nhận cái phi lí. Theo quan niệm mĩ
học thì cái đẹp là chấp nhận cái phi lí, đó mới là nghệ thuật. Nhng trong Thơ

mới, cái phi lí lại trở nên rất có lí (Phạm Hổ đã nghe thấy Một tiếng chim kêu
sáng cả rừng)
Xuân Diệu thì lại khẳng định:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
Cái tôi thờng đợc biểu hiện trớc hết là ở cách xng hô và các đại từ nhân x-
ng. Chỉ riêng một mình Thế Lữ mà cái tôi cá nhân ấy đợc biểu hiện thật là đa
dạng, thể hiện ra dới nhiều vai, lúc thì ng ời bộ hành phiêu lãng
Tôi là ngời bộ hành phiêu lãng
Đờng trần gian xuôi ngợc để vui chơi
Là một khách tình si, có khi nhà thơ tự coi mình là ng ời mơ ớc hão !
Tôi chỉ là ngời mơ ớc thôi
Là ngời mơ ớc hão! Than ôi!
ý thức rõ về cái tôi càng mạnh mẽ bao nhiêu thì chỉ khiến cho con ngời ta
đau buồn, và có khi lại quá nhỏ bé giữa một thực thể quá rộng lớn của vũ trụ.
Xuân Diệu đã từng ví mình nh một cây kim bé nhỏ :
Tôi chỉ là cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
Rõ ràng, con ngời không thể đứng ngoài dòng chảy của cuộc sống, nhng
có lúc chính cái dòng chảy thời gian ấy, chính cái thực thể ấy đã khiến cho
con ngời ta cảm thấy mình nh ngời xa lạ, muốn đợc tự do:
Tôi là con chim đến từ núi lạ
Ngứa cổ hót chơi!
Cái tôi cá nhân không phải đến thời gian này mới xuất hiện, thực tế trong
tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, cái tôi cá nhân đã ít nhiều xuất hiện vào
thời kì trung đại (từ nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX) với các đại
biểu nh Đặng Trần Côn, Nguyuễn Gia Thiều, Nguyễn Du và tiêu biểu hơn cả
là bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hơng. Thời kì này, cái tôi cá nhân đã phát triển
lên thành một thuật ngữ lần đầu tiên xuất hiện Chủ nghĩa Nhân dạo. Nhng
rõ ràng, sang thế kỉ XIX. Đúng vậy, sang đầu thế kỉ XIX thôi, văn học Việt

Nam cũng đã xuất hiện một hiện tợng lạ lùng, đơng nhiên đó không phải là
Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu mà đó chính là Tú Xơng:
Khi cao lâu, khi cà phê, khi nớc đá
Khi thuốc lá, khi đủng đỉnh ngồi xe
Hẩu lố, méc xì thông mọi tiếng
Không sang Tàu thì cũng tích sang Tây
Vì vậy, GS. Trần Mạnh Hảo nhận xét: Thơ Tú Xơng tuy còn mặc áo the
khăn đóng nhng chất thơ đã Tây lắm rồi
Thực tế cuộc sóng cho thấy, để phát sinh ra cái mới cần phải có hai điều
kiện: nội sinh và ngoại nhập. Khi hai yếu tố này phát triển mạnh mẽ và tác
động tơng trợ lẫn nhau ắt sẽ tạo nên cái mới. Vì vây, không phải ngẫu nhiên
mà có ngời đã nhận định: Văn học trung đại Việt Nam thai nghén cả nghìn
năm, sang đầu thế kỉ XX mới bắt đầu trở dạ
Từ những tiền đề ấy, với sự xuất hiện những gơng mặt Thơ mới tiêu biểu
nh Thế Lữ, xuân Diệu, Lu Trọng L... Và đặc biệt khi bài Tình già của Phan
Khôi trình làng, bắt đầu từ năm 1930 phong trào Thơ mới phát triển một
cách rầm rộ, ồ ạt. Ngời nắm bắt đợc cái tinh tuý, ngời có con mắt tinh tờng
trong việc phát hiện ra những giá trị quý báu của phong trào này là hai anh em
Hoài Thanh Hoài Chân, trong đó công đầu phải kể đến thuộc về Hoài
Thanh. Ông đã tập hợp những tác giả nổi danh với những bài thơ đợc xem là
những tuyệt tác của mọi thời đại vào trong cuốn Thi nhân Việt Nam.
Ngày nay, đất nớc đang trên đà hội nhập và phát triển, việc giao lu, học
hỏi lẫn nhau giữa các quốc gia cũng ngày càng đợc mở rộng. Chính vì vậy,
quan niệm về thơ ca nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung rất thoải mái,
mới mẻ. Nhng dù có phát triển đến đâu thì chúng ta cũng không thể phủ nhận
những thành tựu, những đóng góp mà phong trào Thơ mới mang lại, đặc biệt là
việc khẳng định cái tôi cá nhân một cách mạnh mẽ đầy cá tính, tô điểm thêm
cho gơng mặt của nền thơ ca Việt Nam vốn đã tơi tắn, xinh đẹp lại càng xinh
đẹp và tơi tắn hơn!
Mỹ Thuỷ, tháng 5 năm 2009

Đỗ Đức Thuần

×