Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Giáo trình Pháp luật trong thương mại quốc tế - Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 75 trang )

CHƢƠNG 2
TRANH CHẤP TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
Mục tiêu
Chƣơng này trình bày những vấn đề cơ bản về:
- Hợp đồng trong tƣ pháp quốc tế;
- Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thƣơng;
- Các tranh chấp hợp đồng khác liên quan đến thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa ngoại thƣơng;
- Cơ quan giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại quốc tế.
Nội dung
I. Hợp đồng trong tƣ pháp quốc tế
1. Khái niệm
Hợp đồng trong tƣ pháp quốc tế là hợp đồng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài28.
Trong đời sống dân sự quốc tế, đa số các quan hệ đều tồn tại dƣới hình thức hợp
đồng, có thể bằng miệng, bằng văn bản hoặc các phƣơng tiện giao dịch khác. Việc
nghiên cứu hợp đồng trong tƣ pháp quốc tế có ý nghĩa trong việc xác định nguồn luật,
các điều kiện hiệu lực để hợp đồng mang lại giá trị thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
Dấu hiệu nhận biết hợp đồng trong tƣ pháp quốc tế:
Thứ nhất, các bên chủ thể ký kết hợp đồng có quốc tịch khác nhau. Luật quốc
tịch của các nƣớc hiện nay quy định những dấu hiệu khác nhau cho chủ thể là một
trong những nguyên nhân dẫn tới xung đột pháp luật về mặt chủ thể trong quan hệ hợp
đồng dân sự trong tƣ pháp quốc tế.
Thứ hai, hợp đồng đƣợc ký kết ở một nƣớc (nƣớc mà một bên chủ thể không
mang quốc tịch hoặc không có trụ sở).Trong trƣờng hợp này, luật điều chỉnh hợp đồng
không chỉ là luật của bên chủ thể mang quốc tịch mà luật nơi ký kết hợp đồng cũng có
thể điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng trên cơ sở luật nơi ký kết hợp đồng
(còn gọi là nguyên tắc Lex Loci Contratus). Nhƣ vậy, hiện tƣợng xung đột pháp luật
cũng đã xuất hiện và cần đƣợc giải quyết theo các phƣơng pháp giải quyết xung đột
pháp luật trong tƣ pháp quốc tế.
Thứ ba, đối tƣợng của hợp đồng là tài sản hoặc nhân thân phi tài sản ở nƣớc
ngoài đối với một trong các bên của hợp đồng và cùng một lúc chịu sự điều chỉnh của


luật ở nƣớc có đối tƣợng mà họ mang quốc tịch và luật của nƣớc nơi có chủ thể còn
lại.
2. Các loại hợp đồng thƣờng gặp trong tƣ pháp quốc tế

28

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tƣ pháp quốc tế, NXB Công an nhân dân 2008, Trang 135.

52


2.1. Các loại hợp đồng dân sự trong tư pháp quốc tế
Đời sống dân sự trong tƣ pháp quốc tế rất phong phú, diễn biến trên mọi lĩnh vực
kinh tế, văn hóa xã hội, khoa học kỹ thuật v.v…vì thế hợp đồng dân sự trong tƣ pháp
quốc tế cũng rất đa dạng và phong phú. Hầu hết các loại hợp đồng này thể hiện trong
hai mối quan hệ vốn rất đặc trƣng của quan hệ dân sự là: quan hệ tài sản mà chủ yếu là
tiền và hàng và quan hệ nhân thân phi tài sản.
- Các hợp đồng dân sự trong tƣ pháp quốc tế về quan hệ tài sản mà đối tƣợng của
nó là tiền (là ngoại tệ đối với một trong các chủ thể hoặc tất cả chủ thể của hợp đồng
hoặc là tiền của một tổ chức quốc tế) thì loại tiền nào đƣợc đƣa vào hợp đồng do các
bên thỏa thuận lựa chọn giao dịch. Ví dụ: thƣơng nhân Việt Nam giao dịch hợp đồng
với thƣơng nhân Nhật Bản có thể chọn đồng Việt Nam (VND), Yên Nhật (JPY) hay
Đô la Mỹ (USD), v.v… Tuy nhiên, các loại tiền giao dịch trong quan hệ dân sự bị điều
chỉnh theo luật của nƣớc sở tại hoặc tổ chức quốc tế có loại tiền đó. Đối với bên còn
lại, nếu là ngoại tệ với họ thì đây là loại tiền mà luật nƣớc họ cho phép chuyển đổi
đƣợc. Nhƣng các quốc gia đều quy định, tiền trong giao dịch dân sự phải chứng minh
đƣợc nguồn gốc hợp pháp và nếu là tiền mặt, không tránh khỏi sự kiểm soát nghiêm
ngặt của Chính phủ mà đồng tiền đó muốn lƣu thông.
Cần phải chú ý, trong quan hệ hợp đồng dân sự quốc tế, thanh toán bằng tiền mặt
rất hạn chế bởi những khó khăn vốn có của nó về khả năng chuyển đổi (ngoại tệ mạnh,

ngoại tệ yếu), rào cản ngoại hối của quốc gia, khả năng vận chuyển cũng nhƣ kiểm
soát tiền thật, tiền giả và tốc độ thanh toán chậm với lƣợng tiền mặt lớn. Do vậy, nếu
nhƣ thanh toán bằng tiền mặt cho các hợp đồng dân sự vƣợt quá một hạn mức mà các
quốc gia quy định thì số lƣợng tiền mặt còn lại buộc phải thanh toán qua các ngân
hàng hoặc các công cụ thay thế nó nhƣ hối phiếu, séc, kỳ phiếu, thẻ nhựa, thƣ tín dụng
v.v…
Nếu đối tƣợng của hợp đồng dân sự trong tƣ pháp quốc tế về quan hệ tài sản mà
đối tƣợng của nó là hàng hóa (hàng hóa hữu hình, hàng hóa vô hình) thì đối tƣợng này
phải đƣợc điều chỉnh trƣớc tiên theo luật pháp quốc gia hoặc các cam kết song
phƣơng, đa phƣơng về lƣu thông hàng hóa giữa các nƣớc. Hầu hết các quốc gia đều có
những cơ chế giám sát hàng hóa ra vào trong nƣớc bằng các cơ chế về hàng cấm lƣu
thông, hàng lƣu thông có điều kiện (phải xin phép chính quyền nƣớc sở tại), hàng
không cần điều kiện, hàng khuyến khích. Tuy nhiên, cơ chế về hàng hóa cụ thể giữa
các quốc gia thƣờng không giống nhau gây ra xung đột pháp luật trong các quan hệ về
lƣu thông hàng hóa. Chẳng hạn, Việt Nam hiện nay vẫn cấm nhập hàng cũ thì một số
nƣớc nhƣ Hoa Kỳ, EU… lại cho phép mua bán hàng cũ, hàng tân trang lại.
- Các hợp đồng dân sự trong tƣ pháp quốc tế về quan hệ nhân thân phi tài sản
diễn ra trong các quan hệ nhƣ quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu tác phẩm, thƣơng hiệu, kiểu
dáng sản phẩm; hợp tác lao động quốc tế; giáo dục đào tạo…các đối tƣợng này khá
phức tạp và các nƣớc có những quy định rất khác nhau trong luật quốc gia của mình
gây nên xung đột pháp luật trong lĩnh vực này.
2.2. Các loại hợp đồng thương mại trong tư pháp quốc tế
Quan hệ thƣơng mại là một quan hệ đặc thù của quan hệ dân sự và không nằm
ngoài quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản nhƣ đã nêu ở đặc điểm chung của hợp
đồng dân sự trong tƣ pháp quốc tế. Cụ thể về mặt thể loại hợp đồng thƣơng mại trong

53


tƣ pháp quốc tế là hợp đồng đƣợc giao kết giữa các thƣơng nhân theo luật thƣơng mại

của các quốc gia trong các lĩnh vực:
- Xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới theo các phƣơng thức: mua bán thông
thƣờng, mua bán đối lƣu, mua hàng đấu giá, đấu thầu, hàng hóa gia công, tạm nhập tái
xuất, tạm xuất tái nhập, hàng hóa quá cảnh…
- Xuất nhập khẩu hàng hóa không qua biên giới nhƣng ở trong những khu vực,
khu kinh tế đƣợc quốc gia quy định riêng có cơ chế giám sát nhƣ là giám sát đối với
hàng hóa qua biên giới. Nhƣ ở Việt Nam, gọi là Khu chế xuất, hàng hóa giao thƣơng
trong khu công nghiệp loại này đƣợc Chính phủ Việt Nam giám sát theo cơ chế điều
hành xuất nhập khẩu.
Các nƣớc có những quy định khác nhau về thƣơng mại, quy chế thƣơng nhân, cơ
chế điều hành hàng hóa thƣơng mại (hàng hóa hữu hình, hàng hóa vô hình) nên không
tránh khỏi xung đột pháp luật trong giải quyết tranh chấp về loại hợp đồng này.
2.3. Các loại hợp đồng thuộc một số lĩnh vực khác trong tư pháp quốc tế
Trong tƣ pháp quốc tế còn có nhiều loại hợp đồng trong nhiều lĩnh vực khác nhƣ:
- Hợp đồng tín dụng;
- Hợp đồng dịch vụ quốc tế;
- Hợp đồng vận tải quốc tế;
- Hợp đồng bảo hiểm quốc tế;
v.v…
3. Phƣơng pháp giải quyết xung đột về tính pháp lý của hợp đồng
3.1. Quy định của quốc gia về nguyên tắc xác định tính hợp pháp của hợp
đồng
3.1.1. Giải quyết xung đột về hình thức hợp đồng
a. Hệ thống luật các nƣớc giải quyết xung đột về hình thức hợp đồng
Hình thức hợp đồng đƣợc hiểu là những phƣơng tiện tồn tại trên thực tế chứa
đựng nội dung hợp đồng mà các chủ thể đã giao kết, nó có thể là văn bản (bằng giấy
hay các loại thể hiện có chữ viết trên đó) hay bằng tiếng nói, bằng ký hiệu… mà các
bên thỏa thuận sử dụng.
Mỗi loại hình thức có một giá trị pháp lý nhất định, tùy theo hoàn cảnh kinh tế xã
hội, tập quán sử dụng mà các quốc gia quy định các loại hình thức hợp đồng nhất định

cho các quan hệ.
Hệ thống luật các nƣớc Đông Âu thƣờng căn cứ vào luật nơi ký kết hợp đồng
hoặc luật nơi thực hiện hợp đồng, trên cơ sở ƣu tiên áp dụng luật nơi ký kết hợp đồng
để giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng. Trong trƣờng hợp hợp
đồng ký ở một nƣớc nhƣng thực hiện ở một nƣớc khác thì luật nơi ký kết hợp đồng
vẫn đƣợc áp dụng để xem xét về hình thức của hợp đồng. Nếu luật nơi ký kết hợp
đồng chƣa quy định hoặc không hợp pháp về mặt hình thức thì luật nơi thực hiện hợp
đồng vẫn có thể đƣợc áp dụng để xem xét hình thức của hợp đồng khi tòa án tại nơi
giải quyết tranh chấp xét thấy hình thức của hợp đồng không trái với quy định của
pháp luật nƣớc mình.
54


Hệ thống luật các nƣớc Bắc Âu, Tây Âu, Châu Mỹ thƣờng ƣu tiên áp dụng luật
nơi ký kết hợp đồng để giải quyết xung đột về hình thức của hợp đồng. Trong trƣờng
hợp nếu hợp đồng bị xem là bất hợp pháp về hình thức theo luật nơi ký kết nhƣng theo
luật nhân thân của các bên chủ thể hoặc theo luật tòa án nơi xét xử tranh chấp xem hợp
đồng hợp pháp về mặt hình thức thì hợp đồng vẫn có giá trị hiệu lực về hình thức.
Theo Công ƣớc Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:“Hợp
đồng không cần thiết phải được kết lập hoặc ghi nhận bằng văn bản và không bị chi
phối bởi một điều kiện hình thức nào khác. Nó có thể chứng minh bằng mọi cách kể cả
nhân chứng”29.
b. Quy định của luật Việt Nam giải quyết xung đột về hình thức hợp đồng
Đối với luật pháp Việt Nam, tại Khoản 1, Điều 770 Bộ Luật Dân sự Việt Nam
năm 2005 có quy định: “Hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nơi
giao kết hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng được giao kết ở nước ngoài mà vi
phạm quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật của nước đó, nhưng không trái
với quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thì hình thức hợp đồng được giao kết ở nước ngoài đó vẫn được công nhận tại
Việt Nam”.

Mặc khác, Bộ Luật Dân sự Việt Nam cũng quy định rất rõ hình thức cho các loại
hợp đồng:
“Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ
liệu được coi là giao dịch bằng văn bản
Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải thể hiện bằng văn
bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân
theo các quy định đó”30.
Theo Luật Thƣơng mại Việt Nam:“Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các hợp
đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải
tuân theo các quy định đó”31.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa giữa một bên là thƣơng nhân Việt Nam và
một bên là thƣơng nhân nƣớc ngoài thì hình thức của nó phải đƣợc thể hiện bằng văn
bản32
3.1.2. Giải quyết xung đột về nội dung hợp đồng
a. Hệ thống luật các nƣớc giải quyết xung đột về nội dung hợp đồng
Nội dung hợp đồng là các điều khoản liên quan đến đối tƣợng giao dịch (tiền,
hàng hóa). Đa số các nƣớc áp dụng nguyên tắc thỏa thuận để xác định tính hợp pháp
về nội dung của hợp đồng, số lƣợng các điều khoản của hợp đồng nhiều hay ít hoàn
toàn do các bên trong hợp đồng tự thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên, hầu hết các quốc

29

Công ƣớc Viên năm 1980, Chƣơng I, Điều 1, Khoản 1,Trang 10.
Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005, Điều 124.
31
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005, Điều 24.
32
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005, Khoản 2, Điều 27.

30

55


gia đều đƣa vào Luật Dân sự hay Luật Thƣơng mại số lƣợng các điều khoản chủ yếu
để làm cho hợp đồng có hiệu lực.
Theo nguyên tắc thỏa thuận, các bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận luật áp
dụng đối với quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh từ hợp đồng và thông thƣờng các
bên sẽ áp dụng hệ thống luật có những quy định về hợp đồng.
- Các nƣớc theo luật Anh Mỹ và một số nƣớc Châu Âu nhƣ Pháp, Ý áp dụng luật
nơi ký hợp đồng (gọi là nguyên tắc Lex loci contratus) để xác định tính hợp pháp về
nội dung hợp đồng. Tuy vậy, vấn đề nơi ký hợp đồng còn tùy vào các quan điểm khá
phổ biến rằng nếu nhƣ việc ký kết thực hiện qua phƣơng thức đàm phán trực tiếp thì
địa điểm nơi ký kết đƣợc xác định ngay. Nếu việc ký kết hợp đồng thực hiện qua
phƣơng thức gửi thƣ giao dịch thì có hai quan điểm khác nhau:
Các nƣớc theo luật Anh Mỹ sử dụng “thuyết tống phát”, theo thuyết này, nơi nào
gửi đi đề nghị ký kết hợp đồng thì áp dụng luật nơi đó.
Các nƣớc Tây Âu sử dụng “thuyết tiếp thu”, theo thuyết này, nơi nào nhận đƣợc
chấp nhận ký hợp đồng thì áp dụng luật nơi đó.
- Một số quốc gia vẫn còn sử dụng luật nƣớc ngƣời bán (còn gọi là nguyên tắc
Lex venditoris), theo nguyên tắc này ngƣời bán nƣớc nào thì dùng luật nƣớc đó. Trƣớc
đây, các hợp đồng Việt Nam ký với các nƣớc trong khối xã hội chủ nghĩa dùng nguyên
tắc này.
- Một số quốc gia khác sử dụng luật lựa chọn (còn gọi là nguyên tắc Lex
voluntatis), theo nguyên tắc này tranh chấp về nội dung hợp đồng cho phép các bên tự
do lựa chọn luật nƣớc nào mà họ thấy phù hợp.
- Một số ít quốc gia sử dụng luật nơi thực hiện nghĩa vụ, theo nguyên tắc này
nghĩa vụ của hợp đồng thực hiện ở nƣớc nào thì dùng luật của nƣớc đó.
Nhƣ vậy, đa số các nƣớc dù theo hệ thống luật nào cũng thừa nhận rằng một hợp

đồng có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc coi là hợp pháp về nội dung khi nó chứa các điều
khoản do các bên thỏa thuận phù hợp với luật do các bên chọn và không trái với pháp
luật nơi ký hợp đồng.
b. Quy định của luật Việt Nam giải quyết xung đột về nội dung hợp đồng
Theo pháp luật Việt Nam: hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự 33. Cũng theo Bộ Luật Dân sự
Việt Nam: quyền và nghĩa vụ các bên theo hợp đồng dân sự đƣợc xác định theo luật
pháp của nƣớc nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác. Hợp đồng dân
sự giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn ở Việt Nam thì phải tuân theo pháp
luật Việt Nam34.
Nhƣ vậy, theo pháp luật Việt Nam, vấn đề xung đột pháp luật về nội dung hợp
đồng có yếu tố nƣớc ngoài sẽ áp dụng nguyên tắc cơ bản là thỏa thuận hoặc áp dụng
luật nơi ký kết hợp đồng hoặc luật nơi thực hiện hợp đồng tùy theo từng trƣờng hợp cụ

33
34

Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005, Điều 388.
Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005, Khoản 1, Điều 769.

56


thể. Nói cách khác, Việt Nam áp dụng nguyên tắc luật lựa chọn (Lex voluntatis), tôn
trọng quyền tự định đoạt của các chủ thể.
3.1.3. Giải quyết xung đột về điều kiện hiệu lực hợp đồng
a. Hệ thống luật các nƣớc giải quyết xung đột về điều kiện hiệu lực hợp đồng
Hiệu lực của hợp đƣợc hiểu là hợp đồng có đầy đủ các yếu tố, nội dung theo quy
định của pháp luật để hàng hóa trong hợp đồng lƣu thông đƣợc, đảm bảo khi tranh
chấp bên thực hiện đúng hợp đồng phải đƣợc pháp luật bảo vệ, bên sai phạm phải thực

hiện các nghĩa vụ bồi hoàn cho bên thực hiện đúng.
Về cơ bản, hiệu lực đƣợc xác định bao gồm năng lực chủ thể ký kết (năng lực
hành vi, năng lực pháp lý) và về mặt không gian, thời gian, nghĩa là hợp đồng sẽ có
hiệu lực ở đâu và bắt đầu khi nào và về mặt nội dung.
Về thời điểm phát sinh hiệu lực hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài, nhiều nƣớc áp
dụng luật nơi ký kết hợp đồng hoặc luật nơi thực hiện hợp đồng tùy theo các trƣờng
hợp cụ thể.
Về mặt năng lực chủ thể ký kết hợp đồng, hầu hết luật pháp các nƣớc quy định
việc xác định năng lực hành vi, năng lực pháp lý của các bên chủ thể hợp đồng có yếu
tố nƣớc ngoài sẽ căn cứ vào luật nhân thân của họ, tức là sẽ áp dụng luật quốc tịch hay
luật nơi cƣ trú tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể.
b. Quy định của luật Việt Nam giải quyết xung đột về điều kiện hiệu lực hợp
đồng
Theo pháp luật Việt Nam, để xác định điều kiện hiệu lực cho hợp đồng có yếu tố
nƣớc ngoài, chúng ta sử dụng nguyên tắc luật lựa chọn, nghĩa là điều kiện hiệu lực của
hợp đồng sẽ xác định theo luật nơi ký kết hợp đồng hoặc luật mơi thực hiện hợp đồng.
Riêng đối với các hợp đồng giao dịch bất động sản thì điều kiện hiệu lực mà Việt Nam
quy định là nơi có vật35. Bộ Luật Dân sự Việt Nam quy định: hợp đồng có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, trừ trƣờng hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác36. Đối với một số hợp đồng liên quan đến tài sản nhƣ bất động sản, nhà cửa,
thừa kế, cho, tặng tài sản, pháp luật yêu cầu phải công chứng, chứng thực của cơ quan
Nhà nƣớc có thẩm quyền thì hợp đồng sẽ có hiệu lực từ thời điểm đƣợc công chứng,
chứng thực.
Về hiệu lực của năng lực chủ thể giao kết hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài, Bộ
Luật Dân sự Việt Nam quy định: “Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại
Việt Nam như công dân Việt Nam”37. Về năng lực chủ thể của ngƣời nƣớc ngoài đƣợc
xác định theo pháp luật của nƣớc mà ngƣời đó là công dân; trong trƣờng hợp ngƣời
nƣớc ngoài xác lập, thực hiện hành vi giao dịch hợp đồng tại Việt Nam thì năng lực
hành vi dân sự của họ đƣợc xác định theo pháp luật Việt Nam.
Tóm lại, đối với Việt Nam, tùy vào từng trƣờng hợp, năng lực hành vi ký kết hợp

đồng của các chủ thể tham gia đƣợc xác định theo luật quốc tịch của họ (còn gọi là
nguyên tắc Lex Natinonalis) hoặc theo luật nơi thực hiện hành vi (còn gọi là nguyên
tắc Lex Loci Actus).

35

Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005, Điều 760,770.
Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005, Điều 405.
37
Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005, Điều 761.
36

57


3.2. Các điều ước quốc tế giải quyết xung đột về tính pháp lý của hợp đồng
3.2.1. Điều ước quốc tế song phương giải quyết xung đột về tính pháp lý của
hợp đồng
Trong việc giải quyết xung đột pháp luật về tính hợp pháp của một hợp đồng cụ
thể trong tƣ pháp quốc tế, có sự vận dụng rõ nét hai phƣơng pháp giải quyết xung đột
trong tƣ pháp quốc tế là phƣơng pháp xung đột nhƣ đã nêu ở phần 3.1, các quốc gia
còn sử dụng phƣơng pháp thứ hai là phƣơng pháp thực chất để giải quyết vấn đề này.
Theo phƣơng pháp này các nƣớc thỏa thuận ký kết các điều ƣớc song phƣơng hoặc đa
phƣơng để đƣa ra các nguyên tắc xác định tính hợp pháp của một hợp đồng có yếu tố
nƣớc ngoài. Ví dụ: theo Hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt Nam và Hoa Kỳ
tháng 7 năm 2000, Việt Nam đã đồng ý mở cửa thị trƣờng với hàng hóa Hoa Kỳ theo
tinh thần:
Dành quy chế đối xử tối huệ quốc cho các hàng hoá của Mỹ. Ðối xử với các hàng
hoá nhập khẩu giống nhƣ hàng hoá sản xuất trong nƣớc (còn đƣợc gọi là “đối xử quốc
gia”)… Lần đầu tiên cho phép tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đƣợc phép kinh

doanh xuất nhập khẩu mọi loại hàng hoá. Theo nội dung này, hợp đồng thƣơng mại
giữa các thƣơng nhân Việt Nam và thƣơng nhân Hoa kỳ muốn có hiệu lực phải tuân
thủ luật pháp về quản lý hàng hóa XNK của Việt Nam và cả Hoa Kỳ.
Trong các điều ƣớc quốc tế song phƣơng thì luật nơi ký kết hợp đồng thƣờng
đƣợc áp dụng để xác định tính hợp pháp của hợp đồng. Tuy vậy, luật nơi có vật cũng
đƣợc áp dụng nếu hợp đồng liên quan đến tài sản là bất động sản.
Trong các điều ƣớc quốc tế song phƣơng mà Việt Nam tham gia ký kết thì luật
nơi ký kết hợp đồng hoặc luật nơi có vật sẽ đƣợc áp dụng.
Việc xác định năng lực hành vi ký kết hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài, các điều
ƣớc quốc tế thƣờng áp dụng luật quốc tịch của các chủ thể.
3.2.2. Điều ước quốc tế đa phương giải quyết xung đột về tính pháp lý của hợp
đồng
Trong các điều ƣớc quốc tế đa phƣơng giải quyết xung đột về tính pháp lý của
hợp đồng, nguyên tắc tự do lựa chọn của các bên chủ thể đƣợc xem là nguyên tắc cơ
bản để xác định tính hợp pháp của hợp đồng có yêu tố nƣớc ngoài. Luật do các bên lựa
chọn có yếu tố nƣớc ngoài sẽ là luật xác định tính hợp pháp của hợp đồng.
Các điều ƣớc quốc tế quan trọng liên quan đến việc xác định tính hợp pháp của
hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài:
Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đây là công
ƣớc đƣợc rất nhiều nƣớc trong đó có Việt Nam áp dụng khi xử lý tranh chấp về
HĐMBHHNT, nhƣng khi áp dụng phải chú ý phạm vi áp dụng của công ƣớc:
“Công ước này không áp dụng vào việc mua bán:
Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người bán,
vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp đồng, không
biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như thế.
Bán đấu giá;
Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật;

58



Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền tệ;
Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí;
Ðiện năng”38.
Về tính pháp lý cho hiệu lực hợp đồng, công ƣớc có nêu:
“Công ước này chỉ điều chỉnh việc ký kết hợp đồng mua bán và các quyền và
nghĩa vụ của người bán và người mua phát sinh từ hợp đồng đó. Trừ trường hợp có
quy định khác được nêu trong Công ước, Công ước không liên quan tới:
Tính hiệu lực của hợp đồng, hoặc bất cứ điều khoản nào của hợp đồng, hoặc bất
kỳ tập quán nào.
Hậu quả mà hợp đồng có thể đối với quyền sở hữu các hàng hóa đã bán”39.
Công ước Rôma năm 1980 về luật áp dụng cho trách nhiệm hợp đồng, công ƣớc
này đƣợc hầu hết các nƣớc thuộc khối EU tham gia. Nguyên tắc cơ bản của công ƣớc
là nguyên tắc tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài. Theo
nguyên tắc này, các bên chủ thể của hợp đồng có thể thỏa thuận chọn luật áp dụng cho
hợp đồng và sự thỏa thuận này phải đƣợc thể hiện thành điều khoản của hợp đồng:
“Một hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật pháp được các bên lựa chọn. Sự lựa
chọn phải được thể hiện hoặc chứng tỏ với sự chắc chắn hợp lý bởi các điều khoản
của hợp đồng hoặc các tình huống của vụ việc. Bằng sự chọn lựa của mình, các bên
có thể chon luật áp dụng cho toàn bộ hoặc chỉ một phần hợp đồng”40.
Trong trƣờng hợp, nếu các bên không chọn luật áp dụng thì luật của nƣớc có
quan hệ gần nhất với hợp đồng sẽ đƣợc áp dụng để xem xét tính hợp pháp của hợp
đồng41.
Tuy vậy, khi sử dụng công ƣớc cần chú ý phạm vi áp dụng công ƣớc:
“Các luật lệ của Công ước này sẽ áp dụng cho các nghĩa vụ theo hợp đồng trong
bất kỳ tình huống nào liên quan sự chọn lựa giữa các luật pháp của các nước khác
nhau.
Chúng sẽ không áp dụng với: những vấn đề liên quan tình trạng hay tư cách
pháp lý của những con người tự nhiên, không phương hại đến điều 11; các nghĩa vụ
theo hợp đồng liên quan đến: Di chúc và thừa kế; các quyền tài sản phát sinh ngoài

quan hệ hôn nhân; các quyền và nghĩa vụ phát sinh ngoài quan hệ gia đình, thân
thích, hôn nhân hay họ hàng, bao gồm các nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con không hợp
pháp; các nghĩa vụ phát sinh theo các hối phiếu, ngân phiếu và kỳ phiếu và các công
cụ chuyển nhượng khác trong phạm vi các nghĩa vụ theo như các công cụ chuyển
nhượng khác đã phát sinh ngoài đặc tính có thể thương lượng của chúng; các thỏa
thuận trong tài và các thỏa thuận về lựa chọn tòa án; các vấn đề được điều chỉnh bởi
luật công ty và các bộ phận khác có tính chất pháp nhân hoặc không như là sự sáng
tạo, bằng cách đăng ký hoặc khác, có năng lực pháp luật – tổ chức nội bộ hoặc thanh
lý của các công ty và các bộ phận khác có tính chất pháp nhân hoặc không và trách

38

Công ƣớc Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980. Điều 2.
Công ƣớc Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980. Điều 4.
40
Công ƣớc về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ hợp đồng năm 1980. Khoản 1, Điều 3.
41
Công ƣớc về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ hợp đồng năm 1980. Khoản 1, Điều 4.
39

59


nhiệm cá nhân của các nhân viên và thành viên như là các nghĩa vụ của công ty hoặc
bộ phận;
Vấn đề một đại lý có thể ràng buộc một người ủy thác, hoặc một bộ phận để ràng
buộc một công ty hoặc bộ phận khác có tính chất pháp nhân hoặc không, đối với bên
thứ ba;
Thiết chế của niềm tin và quan hệ giữa người thiết lập, người ủy thác và người
thụ hưởng;

Bằng chứng và thủ tục, không phương hại đến điều 14.
Các luật lệ của Công ước này không áp dụng đối với các hợp đồng bảo hiểm cho
các rủi ro đặt trong lãnh thổ của các Nước thành viên của Cộng đồng Kinh tế Châu
Âu. Để xác định một rủi to đặt trong các lãnh thổ này, tòa án sẽ áp dụng luật nội bộ
của nó…
Việc áp dụng của pháp luật của các nước không ký kết: Mọi luật lệ quy định tại
Công ước này sẽ được áp dụng không kể có là luật của một nước ký kết hay không”42.
Ngoài các công ƣớc có tính phổ biến trên, còn có nhiều công ƣớc quốc tế khác đề
cập đến tính hợp pháp của hợp đồng nhƣ:
Công ƣớc Lahay năm 1955 về luật áp dụng trong mua bán hàng hóa quốc tế;
Công ƣớc Lahay năm 1985 về luật áp dụng về luật áp dụng đối với hợp đồng ủy thác
và công nhận hợp đồng đó; Công ƣớc Lahay năm 1986 về luật áp dụng cho hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
II. Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thƣơng
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thƣơng
1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương
Trƣớc khi nghiên cứu HĐMBHHNT, cần tìm hiểu khái niệm về hợp đồng.
Nói một cách chung nhất, hợp đồng là sự thoả thuận giữa hai bên hay nhiều bên
đƣơng sự làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt mối quan hệ dân luật nhất định.
Theo Bộ Luật Dân sự Việt Nam: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”43.
“Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản
và trả tiền cho bên bán”44.
Theo khái niệm này, phạm vi của hợp đồng dân sự bao hàm các giao kết trong
lĩnh vực dân sự không phân biệt chủ thể là cá nhân hay pháp nhân hội đủ các điều kiện
về năng lực hành vi, năng lực pháp lý của Việt Nam. Khi các chủ thể không hội đủ các
dấu hiệu giao kết hợp đồng theo các lĩnh vực cụ thể nhƣ thƣơng mại, đầu tƣ…các quan
hệ giao kết sẽ đƣợc quy về hợp đồng dân sự.
Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thƣơng (HĐMBHHNT):


42

Công ƣớc về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ hợp đồng năm 1980. Khoản 1, Điều 1,2.
Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005, Điều 388.
44
Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005, Điều 428.
43

60


Hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thƣơng là hợp đồng mua bán có yếu tố nƣớc
ngoài. Tuy nhiên, yếu tố nƣớc ngoài trong một hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại
thƣơng đƣợc luật pháp của các nƣớc và các điều ƣớc quốc tế quy định khác nhau.
Theo Công ƣớc Viên năm 1980 (Công ƣớc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, Chƣơng I, Điều 1, Khoản 1): “Hiệp ước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế áp
dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có cơ sở tại các quốc gia khác
nhau”.
Công ƣớc Viên năm 1980 không đƣa ra một khái niệm cụ thể cho HĐMBHHNT
chỉ nhấn mạnh yếu tố cơ bản xác lập HĐMBHHNT là cơ sở của các bên tại các quốc
gia khác nhau, nhƣng không quy định rõ các dấu hiệu cho cơ sở này do vậy có thể hiểu
là cơ sở của các chủ thể phải đƣợc xác lập theo dấu hiệu luật quốc tịch.
Theo Công ƣớc Lahay năm 1964 (Công ƣớc về mua bán quốc tế những động sản
hữu hình,1964, Điều 1), một hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là hợp đồng mua
bán ngoại thương khi các bên chủ thể của hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước
khác nhau, hàng hóa trong hợp đồng được chuyển dịch qua biên giới và hợp đồng
được xác lập ở các nước khác nhau.
Theo khái niệm này các dấu hiệu cho các chủ thể giao kết HĐMBHHNT đƣợc
xác lập rõ hơn, trong đó dấu hiệu trụ sở thƣơng mại là nơi chủ thể đăng ký kinh doanh

theo luật nƣớc sở tại và tiến hành hoạt động theo đúng yêu cầu của cơ sở kinh doanh
đƣợc quy định trong điều lệ đã đăng ký.
Khái niệm biên giới đƣợc hiểu là biên giới của các quốc gia đƣợc xác định theo
các cam kết song phƣơng hoặc theo các điều ƣớc quốc tế mà các nƣớc đã ký kết với
nhau để xác định lãnh thổ, chủ quyền. Một số nƣớc nhƣ Việt Nam còn quy định một số
trƣờng hợp đặc biệt về biên giới thƣơng mại quốc tế nhƣ hàng hóa giao thƣơng trong
khu chế xuất hoặc các khu kinh tế đặc biệt đƣợc Chính phủ quy định riêng vẫn đƣợc
xem là giao dịch về HĐMBHHNT.
Nhƣ vậy, có thể khái quát một cách đầy đủ về HĐMBHHNT (hay còn gọi là hợp
đồng mua bán quốc tế; hợp đồng xuất nhập khẩu (XNK), hợp đồng mua bán hàng hóa
với thƣơng nhân nƣớc ngoài) là sự thoả thuận ý chí giữa các thƣơng nhân có trụ sở
kinh doanh ở các quốc gia khác nhau (thƣơng nhân có quốc tịch khác nhau), theo đó
một bên gọi là bên xuất khẩu (Bên bán) có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở
hữu hàng hoá cho một bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua); Bên nhập khẩu có
nghĩa vụ thanh toán cho Bên xuất khẩu, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo
thỏa thuận.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương
Việc nhận thức đƣợc các đặc điểm của HĐMBHHNT có ý nghĩa trong việc phân
biệt nó với các hợp đồng khác có yếu tố nƣớc ngoài, qua đó vận dụng nguồn luật để
xác định tính hợp pháp cho hợp đồng một cách đúng đắn. Từ các khái niệm và theo
quan điểm của Việt Nam có thể rút ra, HĐMBHHNT có những đặc điểm sau:
- HĐMBHHNT là hợp đồng song vụ, theo đó mỗi bên ký kết đều có quyền lợi,
nghĩa vụ và là hợp đồng có tính chất đền bù, các bên có quyền lợi và nghĩa vụ tƣơng
xứng.
- Chủ thể của HĐMBHHNT là những thƣơng nhân có trụ sở ở các nƣớc khác
nhau, có quốc tịch khác nhau (trừ trƣờng hợp đặc biệt là hợp đồng giữa các thƣơng
61


nhân nƣớc ngoài trong khu chế xuất, hàng hóa không di chuyển ra khỏi biên giới quốc

gia nhƣng vẫn có ý nghĩa nhƣ là hoạt động XNK).
- Hàng hóa trong hợp đồng thƣờng có khối lƣợng lớn, ảnh hƣởng đến cung cầu
quốc gia và phải tuân thủ sự quản lý của Chính phủ các nƣớc, hơn nữa phải di chuyển
qua biên giới quốc gia và đặt dƣới sự kiểm soát của Hải quan các nƣớc, nên các cơ chế
về thông quan hàng hóa là bắt buộc.
- Đồng tiền sử dụng trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một trong hai bên hoặc cả
hai bên hoặc là đồng tiền quốc tế.
- Nguồn luật áp dụng,“Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, điều
ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế” 45.
- Cơ quan xử lý tranh chấp là Toà án hay Trọng tài thƣơng mại có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
2. Tính pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thƣơng
2.1. Khái niệm về hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại
thương
Hiệu lực của HĐMBHHNT đƣợc hiểu là hợp đồng có đầy đủ các yếu tố, nội
dung theo quy định của pháp luật để hàng hóa trong hợp đồng lƣu thông đƣợc, đảm
bảo khi tranh chấp bên thực hiện đúng hợp đồng phải đƣợc pháp luật bảo vệ, bên sai
phạm phải thực hiện các nghĩa vụ bồi hoàn cho bên thực hiện đúng.
HĐMBHHNT vô hiệu sẽ dẫn đến việc xử lý hậu quả của nó, tùy vào các mức độ
vô hiệu của hợp đồng và các quy định của luật pháp quốc gia, luật pháp quốc tế.
2.2. Các điều kiện hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại
thương
2.2.1. Điều kiện về nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại
thương
Việc ký kết hợp đồng phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có
lợi (không có sự cƣỡng bức, lừa dối, nhầm lẫn hoặc lợi dụng sự tự nguyện để liên kết
với nhau làm những điều sai trái với pháp luật).
2.2.2. Điều kiện về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương
Hình thức của hợp đồng, tùy thuộc vào quy định của mỗi nƣớc, các nƣớc khác
nhau có những quy định khác nhau chẳng hạn:

Theo Công ƣớc Viên năm 1980: “Hợp đồng không cần thiết phải được kết lập
hoặc ghi nhận bằng văn bản và không bị chi phối bởi một điều kiện hình thức nào
khác. Nó có thể chứng minh bằng mọi cách kể cả nhân chứng”46.
Theo Luật Thƣơng mại Việt Nam:“Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các hợp
đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải
tuân theo các quy định đó”47.

45

Luật Thƣơng mại Việt Nam (2005), Điều 5.
Công ƣớc Viên năm1980, Chƣơng II, Điều 11.
47
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005, Điều 24.
46

62


Tại Khoản 2, Điều 27 của Luật Thƣơng mại Việt Nam, riêng hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế phải đƣợc xác lập bằng văn bản.
2.2.3. Điều kiện về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương
- Đối tƣợng hợp đồng: là hàng hóa không thuộc diện cấm của các nƣớc. Ở Việt
Nam, hàng hóa xuất nhập khẩu thực hiện theo cơ chế điều hành của Chính phủ.
+ Hiện nay ở Việt Nam, các điều kiện về hàng hóa, dịch vụ thƣơng mại đƣợc
chia thành các loại:
“Hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hóa kinh doanh
có điều kiện”48.
Theo đó, các chủ thể kinh doanh không đƣợc kinh doanh những hàng hóa bị cấm.
Đối với hàng hóa bị hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện, các chủ thể

phải có đơn xin và xuất trình các cơ sở đảm bảo đủ yêu cầu kinh doanh hàng hóa đó để
các cơ quan Nhà nƣớc thẩm định, nếu đạt yêu cầu sẽ cấp các thủ tục công nhận (ví dụ:
cấp Giấy phép kinh doanh hàng hóa...).
Hoặc nếu hàng hóa có yêu cầu xác định xuất xứ để xác minh nguồn gốc chế tạo,
nuôi trồng đánh bắt hoặc hƣởng các ƣu đãi thuế quan, lúc này, điều kiện về xuất xứ
hàng hóa sẽ đƣợc đề cập đến. Hiện nay, điều kiện về xuất xứ hàng hóa ở Việt Nam
đƣợc quy định tại Nghị định số: 19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thƣơng mại về
xuất xứ hàng hoá.
Một số các hoạt động dịch vụ tƣơng đối đặc thù phải có điều kiện nhất định nhƣ:
Điều kiện về dịch vụ Logistics, đƣợc quy định tại Điều 233. Điều kiện về dịch vụ quá
cảnh, đƣợc quy định tại Điều 241. Điều kiện về dịch vụ giám định, đƣợc quy định tại
Điều 254... Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005.
+ Theo từng thời kỳ nhất định, Chính phủ quy định chi tiết danh mục hàng
hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, bị hạn chế hoặc phải có điều kiện. Do vậy, các thƣơng
nhân Việt Nam phải thƣờng xuyên cập nhật, nắm bắt các quy định này kịp thời.
- Nội dung của hợp đồng phải bao gồm những điều khoản chủ yếu làm cho hợp
đồng có hiệu lực thực hiện. Vấn đề này tùy thuộc vào luật pháp của các quốc gia khác
nhau. Ví dụ, ở Việt Nam, hợp đồng tối thiểu phải có các nội dung tên hàng, số lƣợng,
chất lƣợng, giá cả, phƣơng thức thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng.
2.2.4. Điều kiện về thẩm quyền ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại
thương
- Chủ thể hợp đồng phải có tƣ cách pháp lý trong hoạt động thƣơng mại, cụ thể
nếu là cá nhân phải có tƣ cách cá nhân, là tổ chức phải có tƣ cách pháp nhân hoặc thể
nhân trong hoạt động thƣơng mại, thành lập theo đúng luật pháp của các nƣớc liên
quan. Đối với bên Việt Nam, tƣ cách chủ thể đƣợc xác định theo Luật Doanh nghiệp
2005, Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Thƣơng mại 2005.
- Ngƣời đại diện ký hợp đồng phải là đại diện hợp pháp của chủ thể, đƣợc quy
định theo luật của các nƣớc liên quan. Ở Việt Nam, chủ thể xác định theo Bộ Luật Dân
sự năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và các quy định có liên quan.


48

Luật Thƣơng mại Viêt Nam năm 2005, Điều 25.

63


Thẩm quyền ký kết HĐMBHHNT còn liên quan đến thẩm quyền giao dịch
thƣơng mại quốc tế, luật pháp Việt Nam còn quy định rất rõ:
+ Điều kiện về quyền hoạt động, đối với Việt Nam, quyền hoạt động thƣơng
mại đƣợc quy định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các
địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm.
Quyền hoạt động thương mại hợp pháp của thương nhân được Nhà nước bảo hộ.”49
Theo quy định trên, tất cả các thƣơng nhân Việt Nam có đăng ký kinh doanh
thƣơng mại đều có quyền hoạt động thƣơng mại, trong đó có TMQT nói riêng. Tuy
nhiên, khi hoạt động thƣơng mại phải tuân thủ các điều kiện theo pháp luật quy định
và khi chủ thể có quyền kinh doanh thì đại diện hợp pháp của chủ thể đó có quyền ký
kết hợp đồng nói chung.
+ Riêng quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đƣợc quy định:
“Đối với thương nhân Việt Nam không có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
(dưới đây gọi tắt là thương nhân):
Trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu,
Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu quy định tại Nghị định này
và các văn bản pháp luật khác, thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa
không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh.
Chi nhánh thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo ủy quyền của
thương nhân.
Đối với thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, công ty và chi nhánh công ty

nước ngoài tại Việt Nam:
Các thương nhân, công ty, chi nhánh khi tiến hành hoạt động thương mại thuộc
phạm vi điều chỉnh tại Nghị định này, ngoài việc thực hiện các quy định tại Nghị định
này, còn thực hiện theo các quy định khác của pháp luật có liên quan, các cam kết của
Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên và lộ trình do Bộ Công Thương công bố.
Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện, khi xuất khẩu, nhập khẩu,
ngoài việc thực hiện quy định của Nghị định này, thương nhân phải thực hiện quy định
của pháp luật về điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đó”50.
Theo từng thời kỳ và giai đoạn phát triển kinh tế đất nƣớc, Nhà nƣớc giao quyền
quản lý hoạt động XNK cho Chính phủ, điều tiết bằng các văn bản nhằm cụ thể hoá
quyền hoạt động XNK sao cho phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế và phù hợp với các
cam kết của Việt Nam với các nƣớc. Ví dụ: Các điều kiện hoạt động XNK đƣợc quy
định ở một số văn bản nhƣ: Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm
2013 Quy định chi tiết thi hành Luật Thƣơng mại năm 2005 về hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế và hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với
nƣớc ngoài thay cho Nghị định số 12/2006/NĐ-CP có cùng tên văn bản và Thông tƣ

49

Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005. Khoản 1,2,3, Điều 6.
Nghi định 187/2013/NĐ-CP (20/11/2013), quy định chi tiết thi hành Luật Thƣơng mại về hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nƣớc ngoài, Điều 3.
50

64


số: 04/2014/TT-BCT ngày 27 tháng 1 năm 2014 của Bộ Công Thƣơng hƣớng dẫn một
số nội dung quy định tại Nghị định số 187/2013/NĐ-CP.

+ Các điều kiện về ngành nghề
Các chủ thể hoạt động TMQT ở các ngành nghề khác nhau còn phải tuân thủ
theo các quy định của Chính phủ, Bộ Ngành, chính quyền địa phƣơng có liên quan. Ví
dụ: đối với các chủ thể kinh doanh xuất khẩu gạo, Chính phủ ban hành Nghị định
109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011.
Theo đó, thƣơng nhân kinh doanh xuất khẩu gạo phải đáp ứng đủ 3 điều kiện gồm: 1Đƣợc thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. 2- Có ít nhất 1 kho
chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 tấn thóc, phù hợp với quy chuẩn chung do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành. 3- Có ít nhất 1 cơ sở xay, xát thóc,
gạo với công suất tối thiểu 10 tấn thóc/giờ, phù hợp quy chuẩn chung do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.
Đối với các chủ thể kinh doanh xăng dầu, Bộ Công Thƣơng ban hành Thông tƣ
số 26/2010/TT-BCT ngày 14/6/2010 quy định việc đăng ký kế hoạch sản xuất, nhập
khẩu nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm xăng dầu của các thƣơng nhân sản xuất và đăng
ký kế hoạch nhập khẩu nguyên liệu để pha chế xăng dầu...
3. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thƣơng
3.1. Luật quốc gia
3.1.1. Điều kiện áp dụng
Luật quốc gia có thể là luật nƣớc sở tại hay luật của một nƣớc khác. Luật quốc
gia nƣớc sở tại hay luật nƣớc khác sẽ đƣợc áp dụng khi HĐMBHHNT có quy định hay
trong điều ƣớc quốc tế có liên quan đã quy định hoặc có thể có quy phạm xung đột
pháp luật dẫn chiếu đến điều đó.
3.1.2. Cách thức áp dụng
Về nguyên tắc, luật nƣớc ngoài đƣợc áp dụng một cách trung thực đúng nhƣ thực
tiễn xét xử của chính nƣớc ngoài đó vẫn thƣờng làm và khi đàm phán các bên chủ thể
của HĐMBHHNT phải thỏa thuận đƣa nó thành một điều khoản của hợp đồng, thông
thƣờng nó là điều khoản tranh chấp, khiếu nại. Ví dụ: Việt Nam và Pháp ký kết
HĐMBHHNT, phía Việt Nam là ngƣời bán, trong điều khoản tranh chấp thỏa thuận,
nếu có tranh chấp xảy ra áp dụng luật của nƣớc ngƣời bán. Nhƣ vậy, vấn đề cần phải
tính đến là các bên sẽ thỏa thuận chọn luật của nƣớc ngƣời bán hay luật của nƣớc
ngƣời mua. Việc này còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố nhƣ thế mạnh trong buôn bán

đang nghiêng về phía ai, mức độ quan hệ, kỹ thuật và tài nghệ đàm phán…
Muốn áp dụng luật nƣớc ngoài các thƣơng nhân Việt Nam cần phải am hiểu luật
pháp của nƣớc đó. Riêng áp dụng luật Việt Nam phải chú ý:
Áp dụng quy định chung của dân luật có phạm vi điều chỉnh rộng rãi hơn, sau đó
dẫn chiếu đến các luật ngành có liên quan trực tiếp nhƣ Luật Thƣơng mại sau đó là các
luật chuyên ngành và các luật liên quan.
Nếu luật Việt Nam chƣa quy định thì các thƣơng nhân áp dụng luật nƣớc ngoài
hoặc luật quốc tế khi và chỉ khi hiểu hiểu rõ các nguồn luật đó. Trong trƣờng hợp luật
quốc gia nƣớc ngoài chƣa có những quy định về tính pháp lý của HĐMBHHNT hoặc

65


quy định chƣa đầy đủ, khó hiểu thì nên áp dụng tập quán quốc tế hoặc luật của nƣớc
thứ ba.
3.2. Điều ước quốc tế
3.2.1. Điều kiện áp dụng
Một số điều ƣớc quốc tế liên quan đến tính pháp lý của hợp đồng nói chung
HĐMBHHNT nói riêng nhƣ đã đề cập có tính bắt buộc, nhƣng cũng có những điều
ƣớc thể hiện tính tùy ý ở một số điều của nó, ngay Công ƣớc Viên năm 1980 cũng để
lại một phạm vi rất rộng cho việc lựa chọn hình thức của HĐMBHHNT.
Hiện nay việc áp dụng công ƣớc quốc tế cho HĐMBHHNT còn tồn tại hai quan
điểm áp dụng là:
Thứ nhất, điều ƣớc quốc tế không có giá trị bằng luật quốc gia hoặc trong trƣờng
hợp điều ƣớc quốc tế có những mâu thuẩn với luật quốc gia thì chủ trƣơng áp dụng
luật quốc gia. Quan điểm này đƣợc rất nhiều nƣớc thuộc hệ thống tƣ bản chủ nghĩa áp
dụng.
Thứ hai, điều ƣớc quốc tế có giá trị cao hơn hoặc bằng luật quốc gia và trong
trƣờng hợp điều ƣớc quốc tế có những mâu thuẫn với luật quốc gia thì chủ trƣơng áp
dụng điều ƣớc quốc tế. Quan điểm này đƣợc Việt Nam áp dụng.

3.2.2. Cách thức áp dụng
Khi áp dụng điều ƣớc quốc tế, thƣơng nhân Việt Nam phải hiểu rõ về điều ƣớc
đó trên các phƣơng diện, điều kiện áp dụng, hiệu lực, Việt Nam là thành viên hay chƣa
là thành viên.
Việc áp dụng công ƣớc nào phải đƣa thành luật dẫn chiếu trong HĐMBHHNT.
Ví dụ: trong HĐMBHHNT nói rõ các nội dung của hợp đồng này dẫn chiếu theo Công
ƣớc Viên năm 1980 – Công ƣớc quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thƣơng
3.3. Tập quán quốc tế
3.3.1. Điều kiện áp dụng
Các thƣơng nhân Việt Nam muốn áp dụng tập quán quốc tế phải hiểu rõ các loại
tập quán, đó là tập quán thƣơng mại có tính chất toàn cầu hay tập quán thƣơng mại có
tính chất địa phƣơng, không áp dụng những tập quán quá đặc thù, riêng biệt.
Hiện nay đa số các nƣớc có thói quen sử dụng tập quán quốc tế, chẳng hạn nhƣ
các thƣơng nhân ở các nƣớc khi tham gia vào TMQT đều đƣợc đào tạo Incoterms để
sử dụng trong HĐMBHHNT, đây là tập quán giao hàng phổ biến trong TMQT.
3.3.2. Cách thức áp dụng
Do tập quán có tính chất áp dụng tùy ý nên:
- Chỉ áp dụng tập quán khi HĐMBHHNT có quy định; Ví dụ: các bên quy định
điều khoản giá cả trong HĐMBHHNT là áp dụng Incoterms 2010 hoặc Incoterms
2000 là theo thỏa thuận. Tuy nhiên, trong hợp đồng các bên thỏa thuận thống nhất nhƣ
thế nào thì phải tuân thủ đúng nhƣ vậy, mặc dầu quy định này có thể khác với tập quán
thông thƣờng. Ví dụ: các bên thỏa thuận mua bán theo điều kiện FOB nhƣng ghi rõ là
ngƣời bán thuê tàu chứ không phải ngƣời mua thuê tàu nhƣ quy định trong Incoterms.

66


Nếu trong HĐMBHHNT quy định tập quán một cách chung chung khiến cho các
bên không hiểu tập quán chung hay riêng thì trên thực tế, các bên hiểu là tập quán
riêng. Vì đa số cho rằng, cái riêng bổ nghĩa cho cái chung. Ví dụ: hợp đồng đƣợc ký

kết bán hàng cho các thƣơng nhân Hoa Kỳ mà trong hợp đồng quy định là bao bì theo
thông lệ, thì các thƣơng nhân Hoa Kỳ hiểu rằng, bao bì phải theo tập quán cảng đến
(cảng Hoa Kỳ). Nhƣng một số thƣơng nhân ở quốc gia khác cho rằng, nếu trong hợp
đồng không quy định rõ thì ngƣời bán đƣợc quyền bán hàng hóa theo những điều kiện
ngƣời bán thƣờng bán. Tốt nhất trong hợp đồng nên tránh những trƣờng hợp này, các
thƣơng nhân nên quy định một cách cụ thể các điều khoản có áp dụng tập quán và giải
thích rõ nội dung tập quán đó.
3.4. Án lệ
3.4.1. Điều kiện áp dụng
Qua các đặc điểm của án lệ đã nêu ở phần II.4, việc áp dụng án lệ án phải chú ý
đến các điều kiện:
Án lệ hình thành hầu hết là do các quy phạm pháp luật chƣa đƣợc đầy đủ và trên
thực tế quy phạm cũng không bao giờ đầy đủ do hành vi trong xã hội luôn hình thành
phát triển liên tục theo hoàn cảnh xã hội. Vì vậy, án lệ tồn tại tất yếu và cũng biến đổi
theo quy phạm pháp luật. Chắc chắn rằng khi hành vi đã đƣợc luật hóa (có quy phạm
pháp luật quy định) thì án lệ có hành vi tƣơng tự sẽ bị loại bỏ. Do vậy, án lệ chỉ áp
dụng đối với hành vi khi chƣa có luật hóa hành vi đó.
Một vấn đề nữa là án lệ hình thành tại các cơ quan xét xử, phần lớn do các thẩm
phán đƣa ra do các lỗ hổng trong văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, luật pháp
có cơ sở lập pháp đầy đủ với sự tập trung trí tuệ của quốc hội, nghị viện đại diện cho
một giai cấp quyền lực đang thống trị xã hội. Do vậy, án lệ tại một quốc gia không thể
đại diện đầy đủ nhƣ một quy phạm pháp luật kể cả lực lƣợng tán thành nên không thể
áp dụng nhƣ một quy phạm pháp luật.
Hơn nữa, khi thẩm phán giải quyết vụ việc, các thẩm phán phải đứng trên một lập
trƣờng chính trị nhất định do Nhà nƣớc định đoạt, chẳng hạn khi thẩm phán Việt Nam
giải quyết vụ việc phải đứng trên lập trƣờng quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh. Các thẩm phán ở các nƣớc tƣ bản đứng trên quan điểm lập trƣờng
khác. Vì thế, các án lệ ở các nƣớc khác nhau là khác nhau.
Nhiều nƣớc thừa nhận án lệ, nhƣng ở Việt Nam chƣa thừa nhận án lệ vì chỉ có
một cơ quan có thẩm quyền cao nhất ban hành pháp luật chứa đựng ý chí của mọi tầng

lớp nhân dân trong xã hội là quốc hội, nên những gì luật pháp chƣa quy định đầy đủ thì
cho phép áp dụng những quy phạm tƣơng tự ở các hành vi tƣơng tự trong luật hoặc sử
dụng nghị quyết, hệ thống văn bản dƣới luật để kịp thời bổ sung, điều chỉnh. Còn nếu
luật pháp và các văn bản bổ sung, giải thích cũng không quy định (chẳng hạn Bộ Luật
Hình sự chƣa quy định) thì xem nhƣ miễn trách. Đặc biệt trong quan hệ pháp luật hành
chính, hình sự ở Việt Nam, phƣơng pháp quyền uy Nhà nƣớc là phƣơng pháp quan
trọng nhất nên không thể tồn tại án lệ trong các lĩnh vực này.
3.4.2. Cách thức áp dụng
Từ những đặc thù của án lệ, trong giao dịch HĐMBHHNT, các thƣơng nhân cần
chú ý án lệ không phải là một nguồn luật chính trong luật pháp quốc tế nói chung,
nguồn luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ HĐMBHHNT nói riêng. Các thƣơng nhân
cần tìm hiểu rõ hệ thống tòa án nào thƣờng hay sử dụng án lệ trong tranh chấp hợp
67


đồng, các trƣờng hợp phổ biến của án lệ đã thực thi và lƣờng trƣớc các trƣờng hợp
tranh chấp xảy ra có thể viện dẫn đến án lệ. Ví dụ: Việt Nam chƣa phải là thành viên
của Công ƣớc Viên về HĐMBHHNT năm 1980 (CISG), nhƣng đã có trƣờng hợp tòa
án Việt Nam tham chiếu một số điều của công ƣớc này để tuyên án nhƣ vụ án về tranh
chấp giữa Công ty thƣơng mại Tây Ninh - Tanico (Việt Nam) và doanh nghiệp Nam
Bee (Singapore), đƣợc xét xử tại Toà phúc thẩm – Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh, bản án tuyên ngày 04.5.1996. Khi xét xử vụ việc này, toà án đã tham chiếu Điều
29 và Điều 53, Điều 64 CISG. Đây là một án lệ về CISG đầu tiên đối với Việt
Nam51.
4. Các hình thức trách nhiệm và căn cứ miễn trách trong quan hệ hợp đồng
mua bán hàng hóa ngoại thƣơng
4.1. Khái niệm trách nhiệm
Trách nhiệm là quan hệ xã hội - pháp luật đặc biệt giữa các chủ thể trong xã hội,
Nhà nƣớc về vi phạm đạo đức, pháp lý, các mối quan hệ đã cam kết gắn với hậu quả
mà bên vi phạm phải gánh chịu do vi phạm các mối quan hệ đã xác lập.

Riêng trong quan hệ hợp đồng các chủ thể cần phân biệt sự khác nhau giữa
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong quá trình thực hiện hợp đồng.
4.2. Các loại trách nhiệm
Trong đời sống xã hội, thƣờng có các loại trách nhiệm:
- Trách nhiệm đạo đức: là trách nhiệm do vi phạm đạo đức xã hội, đây là trách
nhiệm thuộc về văn hóa, các chuẩn mực đạo đức của một xã hội nhất định, dƣ luận xã
hội mà các quy phạm pháp luật chƣa đề cập đến. Ví dụ: việc không giúp đỡ những
ngƣời già yếu, không đƣợc quy định thành chế tài trong luật pháp Việt Nam là bị xử lý
ở hình thức nào.
- Trách nhiệm pháp lý: là một loại quan hệ đặc biệt giữa Nhà nƣớc (thông qua
các cơ quan có thẩm quyền) và chủ thể vi phạm trong đó Nhà nƣớc có quyền áp dụng
các biện pháp cƣỡng chế có tính trừng phạt đã quy định ở các chế tài quy phạm pháp
luật đối với các chủ thể vi phạm pháp luật và chủ thể đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi
về vật chất, tinh thần do hành vi của mình gây ra. Nói cách khác, đó là loại trách
nhiệm do vi phạm pháp luật. Hầu hết các nƣớc quy định các loại trách nhiệm pháp lý
nhƣ sau:
+ Trách nhiệm kỷ luật: là loại trách nhiệm do vi phạm kỷ luật, nội quy, quy
chế, quy định của cơ quan, đơn vị nơi công tác, làm việc;
+ Trách nhiệm hành chính: là loại trách nhiệm do vi phạm pháp luật hành
chính, đó là những vi phạm về mọi mặt quản lý Nhà nƣớc trên các lĩnh vực của xã hội
nhƣng chƣa tới mức độ hình sự;
+ Trách nhiệm dân sự: là loại trách nhiệm do vi phạm pháp luật dân sự, là
những vi phạm về tài sản, nhân thân phi tài sản nhƣng chƣa tới mức độ hình sự;
+ Trách nhiệm hình sự: là trách nhiệm do vi phạm pháp luật hình sự, là vi
phạm mọi mặt đời sống xã hội có tính chất, mức độ nghiêm trọng.

51

Theo Website của Công ty luật số 5-quốc gia, Đoàn luật sƣ Thành phố Hà Nội, ngày 9.11.2007


68


Các bên chủ thể trong hợp đồng chỉ chịu trách nhiệm pháp lý khi hợp đồng vô
hiệu do vi phạm pháp luật của các quốc gia có liên quan hoặc vi phạm luật pháp quốc
tế. Tùy theo mức độ vi phạm sẽ bị truy cứu theo các trách nhiệm nêu trên.
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng: là trách nhiệm không thuộc trách nhiệm đạo
đức hoặc trách nhiệm pháp lý nhƣng là trách nhiệm do vi phạm vào những cam kết
trong hợp đồng và hợp đồng đó phải có hiệu lực pháp lý để thực hiện.
4.3. Căn cứ cấu thành trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
4.3.1. Có hành vi vi phạm pháp luật
Hành vi vi phạm pháp luật là hành vi vi phạm đến luật quốc gia của các bên chủ
thể hợp đồng, vi phạm luật quốc tế hoặc các cam kết quốc tế. Hành vi vi phạm pháp
luật sẽ dẫn đến vô hiệu hợp đồng và bị xử lý theo pháp luật. Ví dụ: các bên chủ thể
trong HĐMBHHNT mua bán hàng Nhà nƣớc cấm.
Hành vi vi phạm pháp luật thể hiện bằng những cam kết sai trái với pháp luật
hoặc hành vi diễn ra thực tế sai với những quy định của pháp luật.
4.3.2. Có hành vi vi phạm hợp đồng
Hành vi vi phạm ở đây là hành vi của chủ thể hợp đồng vi phạm HĐMBHHNT
đã ký kết, đó là lỗi của bên vi phạm, hay còn gọi là lỗi của thụ trái. Thực chất là hành
vi phạm các cam kết trong HĐMBHHNT trong trƣờng hợp hợp đồng chƣa bị vô hiệu.
Đối với trƣờng hợp này gọi là có lỗi vi phạm. Ví dụ: một bên trong HĐMBHHNT giao
hàng sai chất lƣợng đã cam kết trong HĐMBHHNT.
4.3.3. Có thiệt hại về tài sản
Thiệt hại về tài sản là những tổn thất về khối tài sản trong hợp đồng (tiền hoặc
hàng hóa), bao gồm:
- Thiệt hại thực tế, là những thiệt hại cân đong đo đếm bằng kiểm tra, giám định
đƣợc ghi nhận bằng các loại biên bản lập kịp thời và đầy đủ chứng cứ pháp lý. Ví dụ:
xi măng bị ƣớt; kính gƣơng bị vỡ; thực phẩm bị hƣ hại…
- Thiệt hại về chi phí, là những chi phí phát sinh thêm do thiệt hại sinh ra . Ví dụ:

lô hàng xi măng nhập khẩu bị ƣớt một phần, phải tốn chi phí để tách khối hàng ƣớt ra
khỏi khối hàng chƣa bị ƣớt… Các thiệt hại này phải đƣợc chứng minh bằng chứng cứ
làm phát sinh chi phí và các chứng từ thanh toán chi phí đúng theo các quy định của cơ
quan tài chính.
- Thiệt hại về những khoản thu nhập bị đánh mất, là những thiệt hại về tiền lời bị
mất do thiệt hại hàng hóa gây ra. Ví dụ: do xi măng bị ƣớt mà không bán đƣợc hàng
đúng theo dự định làm mất cơ hội kiếm đƣợc lợi nhuận.
Riêng khoản thiệt hại này rất khó xác định, bên bị thiệt hại phải đƣa ra những dự
trù tài chính hoặc những kết quả tài chính cho những lô hàng tƣơng tự có số liệu về
tiền lời mang về.
- Thiệt hại về uy tín, thƣơng hiệu, quyền sở hữu trí tuệ, kiểu dáng sản phẩm, là
những thiệt hại làm tổn hại đến uy tín kinh doanh; làm hàng giả, vi phạm bản quyền
đăng ký sản phẩm… Các thiệt hại này phải đƣợc chứng minh bằng số liệu tổn hại do bị
mất uy tín gây ra hoặc do không bán đƣợc hàng do hàng giả gây ra.

69


4.3.4. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế xảy
ra
Thiệt hại là tổn thất hay là hậu quả, còn nhân là những nguyên nhân dẫn đến thiệt
hại. Ví dụ: do ngƣời bán không bảo quản hàng hóa tốt, để hàng hóa bị hƣ hại. Việc
không bảo quản tốt là nguyên nhân dẫn đến hậu quả thiệt hại.
Để chứng minh mối quan hệ nhân quả phải tổ chức giám định, kiểm tra làm rõ
mối quan hệ này.
4.4. Căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại
thương
4.4.1. Trường hợp bất khả kháng
Trong đời sống hàng ngày cũng nhƣ trong kinh doanh, có những trƣờng hợp hay
sự cố xảy ra ngoài ý muốn của các bên làm cản trở công việc, thậm chí gây ra tổn thất

mà không thể gắn trách nhiệm này cho các bên trong thực thi công việc, những trƣờng
hợp đó gọi là bất khả kháng. Bất khả kháng phải đƣợc quy định trong hợp đồng để loại
trừ những khó khăn ngẫu nhiên gây ra cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- “Sự kiện bất khả kháng” là một thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Pháp “force
majeure” có nghĩa là “sức mạnh tối cao” hoặc “sức người không thể kháng cự nổi”. Sự
kiện này xảy ra sau khi ký hợp đồng, không phải do lỗi của bất kỳ bên tham gia hợp
đồng nào, mà xảy ra ngoài ý muốn và các bên không thể dự đoán trƣớc, cũng nhƣ
không thể tránh và khắc phục đƣợc, dẫn đến không thể thực hiện đúng hoặc đầy đủ
nghĩa vụ, bên chịu sự cố này có thể đƣợc miễn trừ trách nhiệm của hợp đồng hoặc kéo
dài thời gian thực hiện hợp đồng.
- Sự kiện bất khả kháng có thể là những hiện tƣợng do thiên nhiên gây ra (thiên
tai) nhƣ lũ, lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần… Việc coi các hiện tƣợng thiên tai
có thể là sự kiện bất khả kháng đƣợc áp dụng khá thống nhất trong luật pháp và thực
tiễn của các nƣớc trên thế giới.
Sự kiện bất khả kháng cũng có thể là những hiện tƣợng xã hội nhƣ chiến tranh,
bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách của chính phủ… Tuy
nhiên, cách hiểu và thừa nhận các hiện tƣợng xã hội là sự kiện bất khả kháng là rất đa
dạng trên toàn thế giới và nhiều điểm chƣa có sự thống nhất gây ra xung đột pháp luật
trong vấn đề này.
Theo Bộ Luật Dân sự Việt Nam, sự kiện bất khả kháng là:
“Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi
kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường
trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết
và khả năng cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm
cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự
của mình;”52.


52

Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005, Khoản 1, Điều 161.

70


Theo Luật Thƣơng mại Việt Nam, các trƣờng hợp miễn trách nhiệm đối với hành
vi vi phạm bao gồm:
“Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng”53.
- Hai dấu hiệu đặc trƣng của sự kiện bất khả kháng:
+ Vào thời điểm ký hợp đồng hai bên không thể dự liệu trƣớc rằng sự kiện đó
sẽ xảy ra trong tƣơng lai;
+ Hậu quả mà nó gây ra là không thể tránh đƣợc.
- Cách thức quy định bất khả kháng trong HĐMBHHNT
+ Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa. Theo phƣơng pháp này, các bên sẽ đƣa ra một
định nghĩa khái quát về sự kiện bất khả kháng. Ví dụ: trong HĐMBHHNT có ghi câu:
“Một bên không thể thực hiện đƣợc nghĩa vụ trong hợp đồng này do sự kiện bất khả
kháng là sự kiện xảy ra sau thời điểm ký kết hợp đồng, mà các bên không có khả năng
dự đoán, kiểm soát và ngăn chặn, sẽ đƣợc miễn trách nhiệm do không thực hiện nghĩa
vụ…”
Cách quy định này rất chung chung, mơ hồ và gây khó khăn cho việc diễn giải
nếu tranh chấp xảy ra.
+ Phƣơng pháp liệt kê: phƣơng pháp này đƣợc nhiều thƣơng nhân có kinh

nghiệm áp dụng. Theo phƣơng pháp này, các bên sẽ liệt kê trong điều khoản bất khả
kháng một loạt các sự kiện cho phép bên gặp sự kiện bất khả kháng sẽ đƣợc miễn trách
nhiệm hoặc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng. Ví dụ: trong một HĐMBHHNT có
ghi: “Một bên bị ảnh hƣởng bởi một trong những sự kiện đƣợc liệt kê dƣới đây mà
không thể thực hiện đƣợc nghĩa vụ hợp đồng thì sẽ đƣợc miễn trách nhiệm: Hỏa hoạn,
lũ lụt, động đất, sóng thần, chiến tranh, bạo loạn, cấm vận, bao vây hoặc các hạn chế
khác của chính phủ về xuất khẩu hay nhập khẩu…"
Ƣu điểm của cách quy định này là rõ ràng, cụ thể, các bên sẽ không phải mất thời
gian tranh cãi, giải thích, nếu đúng trƣờng hợp đƣợc liệt kê trong điều khoản này là
bên bị ảnh hƣởng sẽ đƣợc miễn trách nhiệm.
Tuy nhiên, nhƣợc điểm của cách quy định này là dù có kinh nghiệm phong phú
đến đâu, các bên cũng không thể lƣờng trƣớc đƣợc các tình huống xảy ra trong thực tế,
nên dẫn đến bỏ sót sự kiện bất khả kháng mà đáng ra phải đƣợc miễn trách.
+ Phƣơng pháp tổng hợp: là phƣơng pháp kết hợp cả hai phƣơng pháp trên.
Phƣơng pháp này phần nào khắc phục đƣợc nhƣợc điểm của hai phƣơng pháp trên và
đƣợc sử dụng rộng rãi trong thực tiễn ký kết HĐMBHHNT. Ví dụ: trong một
HĐMBHHNT có ghi: “Trong trƣờng hợp xảy ra các sự kiện nhƣ hỏa hoạn, lũ lụt, động
53

Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005, Khoản 1, Điều 294.

71


đất, sóng thần, chiến tranh, bạo loạn, cấm vận, bao vây hoặc các hạn chế khác của
chính phủ về xuất khẩu hay nhập khẩu và các sự kiện bất khả kháng khác, là những sự
kiện xảy ra sau thời điểm ký kết hợp đồng này, mà các bên không có khả năng dự
đoán, kiểm soát và ngăn chặn, làm cho bên bán không thể bốc xếp toàn bộ hoặc một
phần hoặc trì hoãn việc bốc xếp hàng hóa thì bên bán sẽ không phải chịu trách nhiệm
về việc này…”

Cách quy định nhƣ trên sẽ giúp các bên có đƣợc những tình huống cụ thể đƣợc
coi là sự kiện bất khả kháng, đồng thời dự tính đƣợc những sự kiện khác có thể xảy ra
làm ảnh hƣởng đến việc thực hiện hợp đồng54.
Trong pháp luật quốc tế hiện nay đã có những điều khoản kiểu mẫu về sự kiện
bất khả kháng, chẳng hạn: Phòng thƣơng mại quốc tế (ICC) đã soạn thảo hai dạng điều
khoản nhằm trợ giúp các bên khi soạn thảo hợp đồng. Dạng thứ nhất bao gồm các điều
kiện miễn trách nhiệm khi hoàn toàn hoặc hoặc trên thực tế hầu nhƣ không thể thực
hiện hợp đồng (bất khả kháng). Dạng thứ hai xác định tình huống khi các điều kiện
thay đổi đã khiến cho việc thực hiện hợp đồng khó khăn quá mức (khó khăn trở ngại).
Cả hai dạng điều khoản này đều không lệ thuộc một hệ thống pháp luật riêng biệt nào.
Vì vậy, nên thận trọng xem xét để bảo đảm hai bộ điều khoản trên không xung đột với
các quy định pháp luật bắt buộc mà có thể áp dụng.
Các bên có thể đƣa vào hợp đồng nguyên văn điều khoản bất khả kháng của ICC
trong ấn phẩm số 421, hoặc dẫn chiếu nhƣ sau:
“Điều khoản “bất khả kháng” (miễn trách nhiệm) của Phòng thương mại quốc tế
(ấn phẩm số 421 ICC) là một phần của hợp đồng này”.
- Nghĩa vụ các bên khi gặp sự kiện bất khả kháng
+ Khi sự kiện bất khả kháng xảy ra, bên gặp bất khả kháng có nghĩa vụ chứng
minh sự kiện bất khả kháng, chẳng hạn phải có giấy chứng nhận của cơ quan có thẩm
quyền...
+ Bên gặp bất khả kháng đã thực hiện mọi biện pháp để ngăn ngừa, khắc phục
thiệt hại;
+ Thông báo cho bên kia trong một thời hạn nhanh chóng và kịp thời.
Theo Luật Thƣơng mại Việt Nam: “Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng
minh các trường hợp miễn trách nhiệm”55.
+ Thông báo và xác nhận trƣờng hợp miễn trách nhiệm: “Bên vi phạm hợp
đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách
nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra.
Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông
báo ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không

kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.
Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn
trách nhiệm của mình”56.

54

Trung tâm Trọng tài Thƣơng mại & Trung tâm Trọng tài quốc tế tại Việt Nam.
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005, Khoản 2. Điều 294.
56
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005, Điều 295.
55

72


+ Kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện hợp đồng trong trƣờng hợp bất khả
kháng:
“Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thoả thuận hoặc không thỏa thuận
được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời
gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả,
nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:
Năm tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch
vụ được thoả thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;
Tám tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ
được thoả thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.
Trường hợp kéo dài quá các thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, các bên có
quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi
thường thiệt hại.
Trường hợp từ chối thực hiện hợp đồng thì trong thời hạn không quá mười ngày,

kể từ ngày kết thúc thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này bên từ chối phải thông báo
cho bên kia biết trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng.
Việc kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng quy định tại khoản 1 Điều này
không áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố
định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ”57.
4.4.2. Lỗi của trái chủ
Trong luật pháp thƣờng xuất hiện các thuật ngữ: trái chủ, thụ trái. Từ “trái” ở đây
là vụ việc, trái chủ là ngƣời bị hại còn thụ trái là ngƣời gây ra sai trái. Thƣờng lỗi là do
thụ trái gây ra, nhƣng trƣờng hợp này, lỗi lại do trái chủ gây ra, là lỗi của ngƣời bị hại.
Ví dụ: ngƣời bán không giao hàng là có lỗi (thụ trái), nhƣng hợp đồng quy định trƣớc
khi giao hàng ngƣời mua phải mở L/C (Letter of credit: Thƣ tín dụng) trong vòng 15
ngày, ngƣời mua đã không mở L/C, tức là lỗi của ngƣời bán không giao hàng là do
ngƣời mua gây ra. Trƣờng hợp này, ngƣời bán gây ra lỗi không giao hàng nhƣng đƣợc
miễn trách.
4.4.3. Lỗi của người thứ ba
Lỗi của ngƣời thứ ba là lỗi của ngƣời ngoài ngƣời bán và ngƣời mua trong hợp
đồng, nhƣng có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng mà ngƣời này đƣợc miễn trách
khi có căn cứ miễn trách cụ thể. Ví dụ: ngƣời bán ký hợp đồng bán hàng áo quần cho
ngƣời mua, nhƣng ngƣời bán không có bao bì, phải ký hợp đồng mua bao bì của một
công ty bao bì. Đến ngày giao bao bì, công ty bao bì gặp bất khả kháng không giao
hàng cho ngƣời bán, dẫn đến ngƣời bán không có bao bì chứa đựng hàng, nên không
giao hàng đƣợc cho ngƣời mua. Trong trƣờng hợp này công ty bao bì là bên thứ ba có
lỗi, nhƣng họ đƣợc miễn trách nên ngƣời bán cũng sẽ đƣợc miễn trách với các chứng
cứ của bên thứ ba đƣa ra.
4.4.4. Các trường hợp miễn trách được thỏa thuận trong hợp đồng

57

Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005, Điều 296.


73


Các trƣờng hợp miễn trách đƣợc thỏa thuận trong hợp đồng là những trƣờng hợp
miễn trách do các bên trong hợp đồng tự thỏa thuận thêm không trái với pháp luật, tập
quán hoặc làm cho hợp đồng bị vô hiệu.
4.5. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại
thương
4.5.1. Phạt hợp đồng
Phạt là chế tài nhằm ngăn ngừa, răn đe, phạt không tính đến bên thiệt hại (trái
chủ) đã bị thiệt hại hay chƣa, nhƣng thụ trái vi phạm vào cam kết phạt sẽ bị phạt;
Phạt áp dụng bằng tiền, không áp dụng bằng hiện vật. Đồng tiền phạt là đồng tiền
các bên thỏa thuận tính toán trong hợp đồng.
Phạt có thể đƣợc tính trên tổng trị giá hợp đồng hoặc tính trên giá trị thiệt hại
(phần nghĩa vụ bị vi phạm). Mức phạt có thể do các bên thỏa thuận trong hợp đồng
nhƣng không trái với tập quán, đạo đức và thƣờng không thể vƣợt quá trị giá hợp
đồng.
Mức phạt có thể do các bên thỏa thuận áp dụng theo luật đƣợc chọn (luật thực
chất). Có thể là mức % trên tổng trị giá hợp đồng hoặc mức % trên phần giá trị thiệt
hại. Có thể là số tiền (số tuyệt đối) do hai bên thỏa thuận.
Theo Bộ Luật Dân sự Việt Nam, mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận58;
Theo Luật Thƣơng mại Việt Nam, quy định mức phạt vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng, nhƣng không quá tám phần trăm giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm59.
Cần lƣu ý rằng, theo luật Việt Nam, HĐMBHHNT là một loại hợp đồng thƣơng
mại và nếu các bên không thỏa thuận chọn luật Việt Nam thì phải lƣu ý các mức phạt
và loại phạt theo luật các nƣớc khác nhau là khác nhau.
Theo hệ thống luật Anh - Mỹ hay theo những chuẩn mực hợp đồng thƣơng mại
chung của thế giới (Công ƣớc Viên năm 1980) thì chế tài phạt vi phạm không đƣợc áp
dụng. Những điều khoản mang tính chất trừng phạt không có hiệu lực. Tuy nhiên,

những thỏa thuận về một khoản tiền ấn định lại hoàn toàn có hiệu lực thi hành đối với
các bên và tòa án sẽ ra phán quyết buộc bồi thƣờng theo khoản tiền mà các bên thỏa
thuận. Tòa án cân nhắc tới sự hợp lý với thiệt hại thực tế mà bên bị thiệt hại phải gánh
chịu.
Phạt có các loại:
- Phạt bội ƣớc: Là phạt do sai lời cam kết trong hợp đồng, mức phạt bội ƣớc
thƣờng lớn do bội ƣớc thƣờng gây ra thiệt hại đáng kể cho bên bị hại. Sau khi phạt bội
ƣớc có thể dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng.
- Phạt vạ: Là phạt do trì hoãn, do thực hiện chậm cam kết trong hợp đồng. Ví dụ:
hai bên thỏa thuận trong hợp đồng ở điều khoản tranh chấp rằng, nếu ngƣời bán chậm
giao hàng sẽ bị phạt trên tổng giá trị hợp đồng nhƣ sau: trong 10 ngày giao hàng chậm
đầu tiên phạt 0,05%; trong 10 ngày giao hàng chậm tiếp theo phạt 0,08%; trong 10
ngày giao hàng chậm tiếp theo lần phạt thứ 2, phạt 0,12%;
58
59

Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005, Điều 422.
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005, Điều 301.

74


Cần chú ý, phạt vạ khác với phạt bội ƣớc là sau khi thanh toán tiền phạt quan hệ
hợp đồng vẫn còn, ngƣời bán vẫn giao hàng và ngƣời mua vẫn thực hiện nghĩa vụ trả
tiền.
Luật Thƣơng mại Việt Nam chỉ quy định phạt vi phạm:“Phạt vi phạm là việc bên
bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu
trong hợp đồng có thoả thuận”60.
“Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện , thực hiện không đầy đủ
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định

của Luật này”61.
Với đặc thù nhƣ vậy, chế tài phạt phải đƣợc hai bên quy định rõ trong hợp đồng
về loại phạt, mức phạt sao cho đúng với luật đƣợc chọn.
4.5.2. Bồi thường thiệt hại
Bồi thƣờng thiệt hại, là chế tài nhằm bù đắp thiệt hại về khối tài sản bị hại trong
hợp đồng.
Nguyên tắc, có thiệt hại, có bồi thƣờng. Thiệt hại bao nhiêu, bồi thƣờng bấy
nhiêu và thiệt hại phải thực tế;
Bồi thƣờng có thể áp dụng bằng tiền hoặc hiện vật hoặc các biện pháp bồi thƣờng
uy tín. Các khoản bồi thƣờng là các khoản thiệt hại đƣợc chứng minh một cách cụ thể.
Không áp dụng các khoản bồi thƣờng nằm ngoài các quy định trong hợp đồng.
Theo Công ƣớc Viên năm 1980: “Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi
phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia
đã phải chịu do hậu qủa của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này
không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ
phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu qủa có thể xảy ra do vi phạm
hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”62.
Theo quy định của Luật Thƣơng mại Việt Nam thì : “Bồi thường thiệt hại là việc
bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên
bị vi phạm”63.
Để có thể đƣợc bồi thƣờng thiệt hại thì chủ thể đòi bồi thƣờng phải chƣ́ng minh
đƣợc rằng có thiệt hại thƣ̣c thƣ̣c tế xảy ra , có hành vi vi phạm hợp đồng , hành vi vi
phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại . Đồng thời, bên yêu cầu bồi
thƣờng thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất64.
Giá trị bồi thƣờng thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi
phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng
lẽ đƣợc hƣởng nếu không có hành vi vi phạm 65.
Cũng theo Luật Thƣơng mại Việt Nam, bản chất của phạt vi phạm là phải có thỏa
thuận trong hợp đồng, nên khi có vi phạm xảy ra mà các bên không có thỏa thuận phạt


60

Luật Thƣơng mại năm 2005, Điều 300.
Luật Thƣơng mại năm 2005, Khoản 12, Điều 3.
62
Công ƣớc Viên năm1980, Điều 74.
63
Luật Thƣơng mại Việt Nam, Điều 302.
64
Luật Thƣơng mại Việt Nam, Điều 303,305.
65
Luật Thƣơng mại Việt Nam, Điều 302, Khoản 2.
61

75


vi phạm thì các bên chỉ có thể yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại mà thôi . Trong trƣờng hợp
các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài
phạt vi phạm và buộc bồi thƣờng thiệt hại.
4.5.3. Thực hiện thực sự
Thực hiện thực sự là chế tài yêu cầu bên gây hại thực hiện cho đúng hợp đồng,
nhƣ giao hàng lại cho đúng, sửa chữa khuyết tật hàng hóa v.v…chế tài này phải đƣợc
các bên thỏa thuận một cách cụ thể trong hợp đồng.
4.5.4. Hủy hợp đồng
Hủy hợp đồng là chế tài dẫn đến chấm dứt hoàn toàn nghĩa vụ thực hiện hợp
đồng.
Các nƣớc ở lục địa Châu Âu cho rằng, chế tài hủy hợp đồng đƣợc áp dụng khi
thụ trái có những vi phạm cơ bản, còn vi phạm nào là cơ bản lại tùy thuôc vào phán
quyết của tài phán.

Công ƣớc Viên năm 1980 cho rằng:
“1. Nếu trước ngày quy định cho việc thi hành hợp đồng, mà thấy hiển nhiên
rằng một bên sẽ gây ra một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, bên kia có thể tuyên bố
hợp đồng bị hủy. 2. Nếu có đủ thời giờ, bên nào có ý định tuyên bố hợp đồng bị hủy thì
phải gửi một thông báo hợp lý cho bên kia để cho phép họ cung cấp những bảo đảm
đầy đủ rằng họ sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình. 3. Các quy định của khoản trên không
áp dụng nếu bên kia đã tuyên bố rằng họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình”66.
“1. Khi hợp đồng bị hủy và hàng có một giá hiện hành, bên đòi bồi thường thiệt
hại có thể, nếu họ đã không mua hàng thay thế hay bán lại hàng chiếu theo Điều 75,
đòi nhận phần chênh lệch giữa giá ấn định trong hợp đồng và giá hiện hành lúc hủy
hợp đồng, cùng mọi khoản tiền bồi thường thiệt hại khác có thể đòi được chiếu theo
Điều 74. Mặc dầu vậy, nếu bên đòi bồi thường thiệt hại đã tuyên bố hủy hợp đồng sau
khi đã tiếp nhận hủy hàng hóa, thì giá hiện hành vào lúc tiếp nhận hàng hóa được áp
dụng và không phải là giá hiện hành vào lúc hủy hợp đồng. 2. Theo mục đích của điều
khoản trên đây, giá hiện hành là giá ở nơi mà việc giao hàng đáng lẽ phải được thực
hiện nếu không có giá hiện hành tại nơi đó, là giá hiện hành tại một nơi nào mà người
ta có thể tham chiếu một cách hợp lý, có tính đến sự chênh lệch trong chi phí chuyên
chở hàng hóa”67.
Khối các nƣớc theo hệ thống Luật Anh cho rằng, vi phạm cơ bản là vi phạm vào
những điều khoản cơ bản của hợp đồng.
Theo thông lệ, các vi phạm sau gọi là vi phạm cơ bản: ngƣời bán vi phạm hợp
đồng mẫu. Ngƣời mua đã cho biết rõ mục đích giao hàng nhƣng ngƣời bán đã không
giao đúng. Ngƣời bán giao hàng nhƣng giao hàng sai khác so với hàng quy định trong
hợp đồng. Ngƣời bán giao hàng kém tới mức không còn áp dụng đúng công dụng thực
tiễn của hàng hóa nữa. Ngƣời bán giao hàng chậm đến mức làm mất đi quyền lợi của
ngƣời mua.

66
67


Công ƣớc Viên năm1980, Điều 72.
Công ƣớc Viên năm1980, Điều 76.

76


×