Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

luận văn thạc sĩ quản lý nhà nước với đầu tư công tại quận hà đông, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.66 KB, 101 trang )

1
1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

NGUYỄN TRƯỜNG GIANG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI ĐẦU TƯ CÔNG
TẠI QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Hà Nội, 2017


2
2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

NGUYỄN TRƯỜNG GIANG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI ĐẦU TƯ CÔNG TẠI
QUẬN HÀ ĐÔNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60340410


Luận văn thạc sĩ kinh tế

Người hướng dẫn khoa học:
TS. CHU THỊ THỦY

Hà Nội, 2017


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn này là do tôi thu thập và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây, các nguồn trích dẫn trong luận
văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của tôi!
Hà Nội, Ngày…….tháng….. năm 2017
Tác giả

Nguyễn Trường Giang

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn tới giáo viên hướng dẫn luận văn của tôi,
Tiến sĩ Chu Thị Thủy, người đã tạo mọi điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi hoàn
thành tốt luận văn này. Trong suốt quá trình nghiên cứu, cô đã nhiệt tình hướng dẫn,
trợ giúp và động viên tôi rất nhiều. Sự hiểu biết sâu sắc về khoa học, cũng như kinh


4


nghiệm của cô chính là tiền đề giúp tôi đạt được những thành tựu và kinh nghiệm
quý báu.
Xin cảm ơn các Thầy cô Trường Đại học Thương mại đã truyền đạt đầy đủ
những kiến thức cơ bản về môn học, những kiến thức nền tảng và chuyên sâu để tôi
có cơ sở tốt hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị cán bộ làm công tác quản lý đầu tư
công trên địa bàn quận Hà Đông, cụ thể là 40 khách thể nghiên cứu làm việc tại văn
phòng UBND quận và các Phòng, Ban trực thuộc UBND quận Hà Đông bao gồm:
Phòng Tài chính - Kế hoạch, Phòng Quản lý đô thị, Phòng Tài nguyên và môi
trường đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn bè và gia đình đã luôn bên tôi, cổ vũ và động viên tôi
những lúc khó khăn để có thể vượt qua và hoàn thành tốt luận văn này.
Đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý,
hỗ trợ từ phía quý thầy cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Ngày…….tháng….. năm 2017
Tác giả

Nguyễn Trường Giang
MỤC LỤC


5

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG

HÌNH



6

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CN – TTCN

Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp

CNH – HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

DNNN

Doanh nghiệp Nhà nước

GPMB

Giải phóng mặt bằng

HĐND

Hội đồng nhân dân

KT – XH
NSNN

Kinh tế xã hội
Ngân sách Nhà nước

UBND


Ủy ban nhân dân

VĐT

Vốn đầu tư

XDCB

Xây dựng cơ bản


7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư công là một hoạt động đầu tư vô cùng quan trọng, tạo ra hệ thống cơ sở
hạ tầng phục vụ cho sự phát triển KT - XH, là tiền đề cơ bản để thực hiện CNH HĐH đất nước. Nguồn vốn Nhà nước dành cho đầu công đóng vai trò rất quan trọng
và có tính chủ đạo, đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH HĐH, phát triển KT - XH, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, tạo
thêm việc làm mới, cải thiện và nâng cao trình độ văn hóa dân trí cũng như đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân... Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát
triển đi lên của đất nước, vai trò của đầu tư công ngày càng được đề cao. Các công
trình xây dựng đã đáp ứng được các yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân.
Hà Đông là một trong mười quận nội thành của thành phố Hà Nội - trung tâm
văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và
chính quyền các cấp, trong những năm qua, công tác đầu tư công đã có những bước
tiến đáng kể, mang lại những lợi ích to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển KT XH thành phố Hà Nội nói chung và quận Hà Đông nói riêng.
Tuy nhiên, trong vài năm gần đây do ảnh hưởng của biến động kinh tế, khối
lượng VĐT được huy động hạn hẹp so với nhu cầu vốn. Mặt khác, tình trạng dàn trải,
thất thoát, tham ô, lãng phí trong hoạt động đầu tư công còn diễn ra khá phổ biến trên

phạm vi cả nước, làm cho VĐT sử dụng đạt hiệu quả thấp. Đây là một vấn đề ngày
càng trở nên bức xúc và là điều đáng lo ngại cần được sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước nói chung và các cấp, các ngành trên địa bàn quận Hà Đông nói riêng.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của quản lý nhà nước với đầu tư
công và nhìn nhận thực tế khách quan trên địa bàn quận Hà Đông trong những năm
qua, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước với đầu tư công
tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội”
- Sự phù hợp của tên đề tài với chuyên ngành đào tạo
Là học viên cao học chuyên ngành Quản lý kinh tế, với các kiến thức đã được


8

đào tạo, dựa trên cơ sở những kiến thức nền tảng và nâng cao về kinh tế học, tác giả
nhận thấy việc lựa chọn đề tài như vậy là hoàn toàn phù hợp với chuyên ngành được
đào tạo. Tác giả sử dụng những kiến thức được đào tạo thuộc chuyên ngành quản lý
kinh tế để tổng hợp, phân tích, luận giải các chính sách và các hoạt động quản lý
kinh tế có liên quan đến quản lý nhà nước với đầu tư công tại quận Hà Đông trong
thời gian qua, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân để đề xuất các giải pháp và
khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước với đầu tư công cho quận
Hà Đông trong giai đoạn tiếp theo.
Với các kiến thức chuyên ngành, học viên có khả năng áp dụng các kiến thức
về quản lý kinh tế trong triển khai, tổng kết, đánh giá và phản biện các chính sách
kinh tế của nhà nước và của địa phương có liên quan đến quản lý nhà nước với đầu
tư công; sử dụng các kiến thức chuyên sâu về quản lý kinh tế trong quản lý, lãnh
đạo, xây dựng và thẩm định chiến lược, kế hoạch phát triển các tổ chức KT - XH
vào hoạt động triển khai, đánh giá hoạt động quản lý nhà nước với đầu tư công của
các cấp tại địa phương trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu ngày càng
phức tạp.
Về cơ bản, bước đầu, hoạt động quản lý nhà nước với đầu tư công trên địa bàn

quận Hà Đông đã đạt được những kết quả đáng mừng, giúp hoạt động, dự án đầu tư
công trên địa bàn diễn ra hiệu quả hơn, giúp quận đạt được những mục tiêu tăng
trưởng và phát triển một cách nhanh hơn. Mặc dù vậy, bên cạnh đó, hoạt động quản
lý nhà nước với đầu tư công trên địa bàn quận Hà Đông vẫn còn tồn tại những hạn
chế xoay quanh các vấn đề về định hướng quản lý, hiệu quả các hoạt động thẩm
định, lựa chọn ngân sách, thực thi triển khai quản lý và đánh giá kết quả thực hiện
của các hoạt động quản lý các dự án đầu tư công trên địa bàn quận. Nhận thức được
tầm quan trọng của hoạt động đầu tư công, quản lý nhà nước với đầu tư công, cũng
như nhìn nhận thực tiễn khách quan tại địa bàn quận Hà Đông, mong muốn đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước với đầu tư công trên địa bàn,
tác giả lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước với đầu tư công tại quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ.


9

- Câu hỏi nghiên cứu của học viên với vấn đề nghiên cứu
Luận văn này tập trung trả lời cho câu hỏi: Cần có những giải pháp gì để hoàn
thiện quản lý nhà nước với đầu tư công tại quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội trong
giai đoạn tới ?
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến tên đề tài
- Các nghiên cứu trước đây
Liên quan đến vấn đề đầu tư công và vai trò quản lý của Nhà nước với đầu tư
công, đã có khá nhiều cấp, ngành và các đơn vị nghiên cứu cũng như các phương
tiện thông tin đại chúng quan tâm, phân tích đánh giá. Cụ thể, đó là:
Sách “Quản lý Nhà nước về kinh tế” của GS.TS Phan Huy Đường, nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Cuốn sách được biên soạn trên cơ sở đúc
kết lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường
hiện đại và trong quá trình đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Giáo trình đã khái quát hóa các khái niệm, phạm trù, các yếu tố,

bộ phận cấu thành, các chức năng, nguyên tắc, phương pháp, tổ chức bộ máy thông
tin và quyết định quản lý, cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế;
Giáo trình “Quản lý tài chính công” của TS.Bùi Tiến Hanh và TS.Phạm Thị
Hoàng Phương đồng chủ biên, nhà xuất bản tài chính năm 2016. Cập nhật, tổng hợp
và hệ thống hóa những luận cứ khoa học về lý luận và thực tiễn quản lý tài chính
công phù hợp với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam;
Ngoài ra cũng có thể kể đến một số nghiên cứu khác như:
Luận văn thạc sỹ “Hiệu quả quản lý đầu tư công tại thành phố Hồ Chí Minh: Vấn
đề và giải đáp” của tác giả Nguyễn Hoàng Anh (2008) - Đại học Kinh tế thành phố Hồ
Chí Minh. Luận văn tập trung phân tích việc quản lý nhà nước với đầu tư công tại
thành phố Hồ Chí Minh - những điểm được và chưa được trong thời gian qua;
Bài báo “Vai trò của Nhà nước trong điều kiện xã hội hóa dịch vụ công” của
ThS. Nguyễn Quang Sáng (12/04/2016), Học viện Tài chính. Trả lời câu hỏi Dịch
vụ công là gì? Vì sao phải xã hội hóa dịch vụ công? Vai trò của nhà nước;
Bài báo “Chống lạm phát, nâng cao hiệu quả đầu tư công” của ThS. Nguyễn
Thị Mỹ Dung đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 13 tháng 7 năm 2008, Đại học Ngân


10

hàng thành phố Hồ Chí Minh - chủ yếu phân tích đầu tư công tại các Doanh nghiệp
nhà nước trên khía cạnh chống lạm phát. Phân tích chưa sâu và chưa nêu lên được
những cái được của công tác đầu tư công;
Bài báo “Tái cơ cấu đầu tư công: Thành tựu và những vấn đề đang đặt ra” của
ThS. Nguyễn Văn Tuấn đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 1/2015 - chủ yếu
nêu lên những chuyển biến về chính sách dẫn tới thay đổi trong thực tế và chỉ ra
những hạn chế, yếu kém, từ đó đưa ra những giải pháp về đầu tư công.
Một số tài liệu nghiên cứu ở nước ngoài:
- World Bank, 2013. “Đánh giá Khung Tài trợ cho Cơ sở Hạ tầng Địa phương
ở Việt Nam”, tháng 10 năm 2013. Báo cáo nêu một trong những nguyên nhân chính

được nhắc đến là sự quan tâm của các cơ quan nhà nước và đơn vị chủ quản mới chỉ
tập trung vào số lượng dự án đầu tư mà chưa quản lý hiệu quả của các dự án này.
Các quyết định đầu tư được thúc đẩy chủ yếu bởi các cân nhắc hành chính và mong
muốn xây dựng các dự án có khả năng tạo ra doanh thu, với những liên kết yếu ớt
tới các ưu tiên chiến lược của quốc gia và cơ chế thị trường cho việc phân bổ các
nguồn lực khan hiếm. Tuy nhiên, thách thức này cũng lại là một cơ hội cho Việt
Nam, bởi vì một phần đáng kể của nhu cầu đầu tư có khả năng sẽ được đáp ứng
bằng cách sử dụng nguồn lực sẵn có một cách hiệu quả hơn nữa.
- Mizell, L. and D. Allain-Dupré (2013). “Creating Conditions for Effective
Public Investment: Sub-national Capacities in a Multi-level Governance Context”.
OECD Regional Development Working Papers, 4/2013, OECD Publishing. Bài viết
cung cấp kinh nghiệm quản lý đầu tư công hiệu quả ở các nước OECD. Bài viết này
tập trung vào tìm cách xác định khả năng cho phép để chính quyền địa phương thiết
kế và thực hiện chiến lược đầu tư công đối với phát triển khu vực, và cung cấp
hướng dẫn thực tế để đánh giá và tăng cường các năng lực trong bối cảnh quản trị
đa cấp.


11

- Anand Rajaram, Lê Minh Tuấn, Nataliya Biletska and Jim Brumby, (2010).
“A Diagnostic Framework for Assessing Public Investment Management”. The
World Bank Africa Region, Public Sector Reform and Capacity Building Unit &
Poverty Reduction and Economic Management Network, Public Sector Unit,
August 2010. Bài viết cung cấp một khung chẩn đoán thực dụng và khách quan để
đánh giá hệ thống quản lý đầu tư công của các chính phủ. Việc phân bổ ngân sách
cho đầu tư công có thể nâng cao triển vọng kinh tế trong tương lai, khẳng định các
quy trình phối hợp lựa chọn và quản lý đầu tư công là rất quan trọng. Ngoài ra,
khung được thiết kế để thúc đẩy chính phủ để thực hiện định kỳ tự đánh giá hệ
thống đầu tư công và cải cách cơ chế quản lý để nâng cao hiệu quả của đầu tư công.

- OECD, 2013. “Draft OECD principles on Effective Public investment: a
shared responsibility across levels of government”. For external consultation,
November 2013. Tài liệu này trình bày một dự thảo về đầu tư công hiệu quả: một
trách nhiệm được chia sẻ qua các cấp chính quyền được phát triển bởi các lãnh thổ
Ủy ban Chính sách Phát triển (TDPC) của OECD.
- Era Dabla-Norris, Jim Brumby, Annette Kyobe, Zac Mills, and Chris
Papageorgiou (2011). “Investing in Public Investment: An Index of Public
Investment Efficiency”. IMF Working Paper, Authorized for distribution by
Catherine Pattillo, February 2011. Bài viết này giới thiệu một chỉ số mới để xác
định môi trường thể chế làm cơ sở quản lý đầu tư công qua bốn giai đoạn khác
nhau: thẩm định dự án, lựa chọn, thực hiện và đánh giá. Chỉ số cho điểm chuẩn giữa
các vùng và các nhóm quốc gia; phân tích chính sách có liên quan.
- Nhận xét chung về các nghiên cứu trước đây
Có thể thấy, hầu hết các nghiên cứu đã có đều chỉ nghiên cứu đầu tư công như
một bộ phận trong tổng thể các hoạt động của Chính phủ hoặc chỉ đề cập đến vấn đề
đầu tư công tại một địa phương hoặc là chỉ phân tích ở một khía cạnh của công tác
quản lý đầu tư như vấn đề chống lạm phát hoặc một đối tượng của quản lý đầu tư
công. Nhìn chung, chưa có một nghiên cứu nào mang tính bao quát, nêu được cơ sở
lý luận, tình hình đầu tư công nói chung và công tác quản lý đầu tư công nói riêng ở


12

Việt Nam đã được ở điểm nào, chưa được ở điểm nào, nguyên nhân, bản chất của
công tác này, chưa có những tiếp cận theo hướng kinh tế chính trị.
Đã có một số công trình nghiên cứu về đầu tư công tại Việt Nam hoặc tại một
số địa phương, nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về đầu tư
công và quản lý nhà nước với đầu tư công tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Đề
tài tác giả lựa chọn không trùng lặp với các nghiên cứu trước đó.
3. Mục tiêu nghiên cứu

Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước với đầu tư công
tại quận Hà Đông trong giai đoạn tới. Hệ thống hóa lý luận quản lý nhà nước với
đầu tư công cũng như làm sáng tỏ bức tranh đầu tư công của quận Hà Đông trong
tiến trình CNH – HĐH.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý nhà nước với đầu tư công tại quận Hà
Đông trong thời gian qua, luận văn đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm giúp
lãnh đạo quận có chính sách quản lý đầu tư công hợp lý nhằm thúc đẩy tốc độ tăng
trưởng kinh tế của quận và ổn định trong dài hạn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý nhà nước với đầu tư
công tại quận Hà Đông.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
+ Về thời gian: Hoạt động quản lý nhà nước với đầu tư công tại quận Hà Đông
giai đoạn 2014-2016 và đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước với đầu
tư công tại quận Hà Đông trong giai đoạn tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Hệ thống các nguyên lý, quan điểm (trước hết là những nguyên lý, quan điểm
liên quan đến thế giới quan) làm cơ sở, có tác dụng chỉ đạo, xây dựng các phương
pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định hướng cho việc


13

nghiên cứu cũng như việc lựa chọn, vận dụng phương pháp. Các quan điểm phương
pháp luận nghiên cứu có tính lý luận cho nên thường mang màu sắc triết học, tuy
nhiên nó không đồng nhất với triết học (như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức
thế giới.

5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
5.2.1 Phương pháp kế thừa
- Thu thập các tài liệu khoa học, các tạp chí khoa học, đề tài nghiên cứu và số
liệu về các vấn đề cần nghiên cứu.
- Tham khảo, kế thừa các tài liệu, các đề tài đã được tiến hành trước đó có liên
quan đến khu vực tiến hành nghiên cứu.
5.2.2 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp là các dữ liệu có sẵn và đã được điều tra trước đó. Độ tin cậy
của các dữ liệu này cao hơn dữ liệu sơ cấp. Cụ thể, trong đề tài này, tác giả sử dụng
các nguồn tài liệu như sau để thu thập dữ liệu thứ cấp:
- Sử dụng các tài liệu về điều kiện tự nhiên, KT - XH, dân số, lao động…
trong thống kê hàng năm của quận Hà Đông.
- Tìm và thu thập các số liệu ở các văn bản, bài báo, thư viện, trang web... của
quận Hà Đông.
5.2.3 Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp là các dữ liệu được thu thập trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Đây là các dữ liệu không có sẵn và đòi hỏi phải sử dụng các phương pháp khác
nhau nhằm giúp thu thập các dữ liệu sơ cấp có độ tin cậy cao.
Các dữ liệu sơ cấp trong đề tài này được tác giả thu thập thông qua các
phương pháp sau:
- Phương pháp liên lạc (thông qua email, điện thoại và liên hệ trực tiếp với
các khách thể nghiên cứu).
- Phương pháp quan sát các khách thể nghiên cứu đã được tác giả lựa chọn.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, bao gồm phỏng vấn trắc nghiệm bằng bảng
hỏi, phiếu điều tra và phương pháp phỏng vấn sâu các khách thể nghiên cứu đã


14

tham gia phỏng vấn trắc nghiệm và nội dung liên quan đến quản lý nhà nước với

đầu tư công tại quận Hà Đông giai đoạn vừa qua.
5.2.4 Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát cung cấp thông tin về hành vi, hình ảnh thực tế cho
phép hiểu rõ hơn vấn đề được nghiên cứu. Bằng phương pháp này, tác giả có thể
quan sát quá trình quản lý các công trình đầu tư công đã được thực hiện, từ đó có
thể đánh giá một cách khái quát tình hình sử dụng, hiệu quả, tiến độ, chất lượng của
các công trình đầu tư công, từ đó có những nhận định mang tính thực tế.
5.2.5 Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phân tích là nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân tích
chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng. Tổng hợp là liên kết
từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo ra một hệ thống lý thuyết
mới đầy đủ và sâu sắc về đối tượng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; phần nội dung của
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước với đầu tư công.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước với đầu tư công tại quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước với đầu tư
công tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội giai đoạn tới.


15

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ CÔNG
1.1 Một số khái niệm cơ bản về quản lý nhà nước đối với đầu tư công
1.1.1 Đầu tư
Đầu tư là một khái niệm rộng, ở mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta
lại có những cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về hoạt động đầu tư.

Theo kinh tế học thì đầu tư được hiểu là tăng vốn tư bản nhằm tăng cường sức
sản xuất trong tương lai. Có nghĩa là đầu tư là việc bỏ vốn vào tư bản, bỏ vốn vào
hoạt động nào đó để đạt được mục đích kinh tế, là hoạt động mang lại lợi nhuận cho
chủ đầu tư. Đầu tư còn được gọi là hình thành tư bản hoặc tích lũy tư bản. Chỉ có
tăng tư bản làm tăng năng lực sản xuất vật chất mới được tính là đầu tư, còn tăng tư
bản trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và kinh doanh bất động sản không được coi là
đầu tư.
Theo cách hiểu thông thường nhất trong xã hội, đầu tư là việc bỏ vốn ra bằng
các tài sản hữu hình (tiền, nhà xưởng, máy móc,...) hoặc vô hình (phát minh, sáng
chế, thương hiệu,...) để kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm đạt được
lợi nhuận hoặc lợi ích KT - XH nào đó.
Luật Đầu tư năm 2005, với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm mục
đích kinh doanh, đã định nghĩa: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài
sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư’’.
Đặc biệt Luật Đầu tư còn đưa ra định nghĩa về hoạt động đầu tư làm cơ sở để phân
biệt giữa đầu tư và hoạt động đầu tư, theo đó hoạt động đầu tư được hiểu là hoạt
động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực
hiện và quản lí dự án đầu tư.
Như vậy, đầu tư dù là đầu tư tài chính, bất động sản hay hoạt động đầu tư vì
lợi ích chung của xã hội thì bao giờ nó cũng được xuất phát bằng việc bỏ vốn vào
một hoạt động nào đó nhằm thu được những lợi ích nhiều hơn những thứ đã bỏ ra.
Hay nói cách khác, khi tiến hành hoạt động đầu tư, các chủ thể của nó luôn luôn kỳ
vọng vào một kết quả hay lợi ích mà hoạt động này mang lại.


16

1.1.2 Đầu tư công
Việc gia tăng tư bản tư nhân được gọi là đầu tư tư nhân, còn gia tăng tư bản xã
hội được gọi là đầu tư công. Việc làm gia tăng tư bản xã hội thuộc chức năng của

Chính phủ, vì vậy đầu tư công thường được đồng nhất với đầu tư do Chính phủ thực
hiện. Ở Việt Nam, thuật ngữ “đầu tư công” được sử dụng từ sau khi Nhà nước
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Theo thống kê hiện nay, đầu tư công ở nước ta
bao gồm:
- Đầu tư từ ngân sách (phân cho các Bộ ngành trung ương và các địa phương)
- Đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu (thường là các chương trình
mục tiêu trung và ngắn hạn) được thông qua trong kế hoạch ngân sách hằng năm
- Tín dụng đầu tư (vốn cho vay) của nhà nước có mức độ ưu đãi nhất định
- Đầu tư của các DNNN mà phần vốn quan trọng của doanh nghiệp có nguồn
gốc từ NSNN.
Theo Luật Đầu tư công, Luật số 49/2014/QH13, “Đầu tư công là hoạt động
đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”.
Theo cách hiểu này thì lĩnh vực đầu tư công sẽ bao gồm:
- Một là: Đầu tư chương trình, dự án kết cấu hạ tầng KT - XH.
- Hai là: Đầu tư phục vụ hoạt động của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
- Ba là: Đầu tư và hỗ trợ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích.
- Bốn là: Đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo hình thức đối tác
công tư.
Vốn đầu tư công quy định tại Luật Đầu tư công gồm: vốn ngân sách nhà nước,
vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa
phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài
trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ nguồn thu để
lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay
khác của ngân sách địa phương để đầu tư.


17

Cách hiểu này là phổ biến, được luật hóa và đã phản ánh được đúng bản chất

của đầu tư công và thể hiện được đầu tư công là đối tượng của chính sách đầu tư
của nhà nước hiện nay.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, khái niệm đầu tư công được được hiểu
theo Luật Đầu tư công: “Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các
chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các
chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”.
1.1.3 Quản lý
Quản lý là một hiện tượng khách quan trong mọi hình thái KT - XH. Nó xuất
hiện là tất yếu do lao động mang tính tập thể và các hoạt động mang tính cộng
đồng, xã hội quyết định. Các Mác đã chỉ rõ: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay
lao động chung nào đó mà được tiến hành trên quy mô tương đối lớn, ở mức độ
nhiều hay ít đều cần có sự quản lý nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực
hiện những chức năng chung”. Các Mác đã hình dung quản lý giống như công việc
của người nhạc trưởng trong một dàn hợp xướng. “Một nhạc công tự điều khiển
mình, nhưng một dàn nhạc cần phải có nhạc trưởng”.
Có nhiều cách trình bày, diễn đạt khác nhau về khái niệm quản lý, nhưng phổ
biến có 2 cách tiếp cận sau:
Tiếp cận thứ nhất: Quản lý là một quá trình, trong đó chủ thể quản lý tổ chức,
điều hành, tác động có tính định hướng, có chủ đích một cách khoa học và nghệ
thuật vào đối tượng quản lý nhằm đạt kết quả tốt nhất theo mục tiêu đã đề ra thông
qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý thích hợp.
Tiếp cận thứ hai: Quản lý được hiểu là một hệ thống, bao gồm các thành tố:
đầu vào, đầu ra, quá trình biến đổi đầu vào thành đầu ra, môi trường và mục tiêu
quản lý. Các yếu tố trên luôn tác động qua lại lẫn nhau. Một mặt, chúng ta đặt ra các
yêu cầu, những vấn đề quản lý phải giải quyết. Mặt khác, chúng ảnh hưởng tới hiệu
lực và hiệu quả quản lý.
Hai cách tiếp cận trên được nghiên cứu và vận dụng không chỉ trong lĩnh vực
quản lý kinh tế, mà cả trong các lĩnh vực khác nhau như văn hóa và xã hội, an ninh



18

và quốc phòng, không chỉ giới hạn nghiên cứu trên tầm vĩ mô, mà cả phạm vi các
đơn vị vi mô là tổ chức, doanh nghiệp.(Giáo trình “Quản lý nhà nước về Thương
mại”, TS. Thân Danh Phúc chủ biên, Nhà xuất bản Thống kê)
1.1.4 Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước: là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và
phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước và các mục tiêu đã xác định trong từng giai đoạn phát triển
đất nước.
Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng được thực hiện thông qua hoạt động của cả
3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước được
giới hạn ở hoạt động quản lý có tính chất nhà nước được thực hiện bởi cơ quan hành
pháp (Chính phủ) nhằm đạt tới mục tiêu KT - XH đặt ra.
1.1.5 Quản lý nhà nước với đầu tư công
Quản lý nhà nước với đầu tư công là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình đầu tư của các cơ quan trong bộ máy
nhà nước nhằm hỗ trợ các chủ đầu tư thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của người đại diện sở hữu Nhà nước trong thực hiện đầu tư các dự án công; ngăn
ngừa các ảnh hưởng tiêu cực của các dự án; kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa các hiện
tượng tiêu cực trong việc sử dụng vốn Nhà nước nhằm tránh thất thoát, lãng phí
NSNN; đảm bảo hoạt động đầu tư công đạt được tốt nhất mục tiêu phát triển KT XH với chi phí thấp nhất.
Quá trình khảo sát, thu thập thông tin liên quan đến đề tài, tác giả nhận thấy
khái niệm quản lý nhà nước với đầu tư công được nêu trên phù hợp với nội dung,
hướng nghiên cứu của đề tài.
1.2 Đặc điểm và vai trò đầu tư công
1.2.1 Đặc điểm của đầu tư công
Từ khái niệm về đầu tư công, có thể thấy đầu tư công có các đặc điểm sau:
Đầu tư công của NSNN là khoản chi tích lũy; Quy mô và cơ cấu chi đầu tư công



19

của NSNN không cố định và phụ thuộc vào chiến lược phát triển KT - XH của Nhà
nước; Chi đầu tư công phải gắn chặt với chi thường xuyên; Đầu tư công thường đòi
hỏi lượng vốn lớn; Hoạt động đầu tư công mang tính chất lâu dài; Quá trình đầu tư,
cũng như kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất
định theo thời gian và của điều kiện không gian tự nhiên, KT - XH.
Đầu tư công mang tính chất xã hội, mục đích chính là phục vụ lợi ích chung,
không vì mục đích kinh doanh, không phân biệt tầng lớp, giai cấp trong xã hội, đảm
bảo công bằng, ổn định xã hội.
Đầu tư công cung cấp hàng hóa dịch vụ công, loại hàng hóa dịch vụ đặc biệt
do Nhà nước cung ứng hoặc ủy nhiệm cho tổ chức cá nhân thực hiện, đáp ứng yêu
cầu xã hội, sản phẩm của đầu tư công không mang tính loại trừ và tính cạnh tranh.
Mọi đối tượng đều có quyền ngang nhau trong việc tiếp cận hàng hóa công. Việc
trao đổi sử dụng hàng hóa công không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông
thường, người sử dụng hàng hóa công không trực tiếp trả tiền, đúng hơn là họ đã trả
tiền dưới hình thức nộp thuế vào NSNN. Cũng có những hàng hóa dịch vụ công mà
người sử dụng vẫn phải trả một phần chi phí, song Nhà nước vẫn có trách nhiệm
đảm bảo cung ứng các hàng hóa công này không vì mục tiêu lợi nhuận.
Đối tượng sử dụng nguồn đầu tư công gồm: các chương trình mục tiêu, dự án
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH, các công trình công cộng, quốc phòng,
an ninh; các dự án đầu tư phục vụ hoạt động của các cơ quan, đơn vị sự nghiệp kinh
tế, quản lý nhà nước, nghiên cứu khoa học và công nghệ, các tổ chức chính trị - xã
hội; dự án văn hoá- xã hội, cơ sở công cộng không có điều kiện xã hội hoá; hỗ trợ
đầu tư dự án đầu tư của các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, dự án đầu tư công khác theo quy định của Chính phủ.
Nguồn vốn của đầu tư công chủ yếu từ nguồn NSNN, bên cạnh đó, đầu tư
công còn huy động nguồn vốn từ sự đóng góp của cộng đồng, từ các tổ chức, cá

nhân trong nước và ngoài nước. Đầu tư công chủ yếu do Nhà nước thực hiện, cấp
vốn. Mục đích sâu xa của đầu tư công là sự phát triển đồng đều cho các vùng miền,
cho các ngành kinh tế, tăng cường năng lực tự quản lý và tự phát triển của cộng


20

đồng, thực hiện công bằng trong phân phối như Hiến pháp đã đề ra. Hiện nay, các
vùng kinh tế khó khăn như vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo...là những vùng
đang cần nhà nước ưu tiên đầu tư. Các địa phương này có điều kiện tự nhiên, địa
hình khó khăn, các đơn vị tư nhân không mặn mà gì với việc đầu tư cho kinh tế ở
các địa phương này, điều đó dẫn theo nền kinh tế gặp nhiều bất thuận trong quá
trình phát triển. Đặc biệt, ở các vùng này, cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí đa phần
thấp kém, nếu Nhà nước không quan tâm đầu tư công thì sự tụt hậu sẽ ngày một xa,
các vùng này đã khó khăn thì ngày càng khó khăn hơn, ảnh hưởng không nhỏ tới
mục tiêu phát triển nền kinh tế đất nước, đồng thời trình độ dân trí, chất lượng cuộc
sống thấp sẽ dẫn tới nhận thức trong mọi vấn đề thấp. Bài học từ một số cuộc biểu
tình như ở các dân tộc Tây Nguyên năm xưa cho thấy tầm quan trọng của đầu tư
cho phát triển, nâng cao nhận thức, điều kiện sống của đồng bào vùng sâu vùng xa,
dân tộc thiểu số...trong việc ổn định an ninh chính trị của đất nước.
1.2.2 Vai trò của đầu tư công
Trong thực tiễn đời sống KT - XH, có nhiều lĩnh vực, nhiều dự án mà tư nhân
không đủ khả năng hoặc đủ khả năng mà không muốn thực hiện đầu tư như các dự án
xây dựng công trình cầu, đường, các công trình công cộng; đầu tư phát triển cho vùng
miền núi, dân tộc thiểu số,... Bởi đó đều là những dự án phải bỏ nhiều VĐT từ ban đầu,
thời gian thu hồi vốn lâu, hoặc khả năng thu hồi được vốn là không cao. Do đó, việc
đầu tư của Nhà nước để đảm bảo các nhu cầu tối thiểu của cộng đồng được đáp ứng,
giữ vững ổn định xã hội, tránh tình trạng bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Vai trò
của đầu tư công được thể hiện trên ba khía cạnh quan trọng sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên việc đầu tư cho các công trình hạ tầng,

cơ sở vật chất – kỹ thuật tối thiểu chung cho xã hội. Đây cũng đồng thời tạo những
điều kiện thiết yếu cho các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước đầu tư và phát triển.
Ngoài ra, đầu tư công giúp Nhà nước có cơ hội được tập trung nguồn lực cao, hoặc
Trung ương có thể điều tiết được một cách hợp lý các nguồn đầu tư, tránh tình trạng
cục bộ, địa phương, nơi thừa nơi thiếu.


21

- Góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đẳng, bất công
trong xã hội bằng các chương trình, dự án kinh tế hỗ trợ các vùng khó khăn, vùng
sâu vùng xa, các dân tộc thiểu số (chương trình 134, 135 của Chính phủ, các
chương trình xóa đói giảm nghèo,...), nâng cao và ổn định đời sống người dân.
- Đảm bảo ổn định và không ngừng tăng cường quốc phòng, an ninh. Các công trình,
dự án về an ninh quốc phòng đều không mang lại hiệu quả kinh tế trước mắt nên khu vực
tư nhân không thể và cũng không muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhưng đó lại là cơ sở
quan trọng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
Trong đầu tư công, đầu tư cho cơ sở hạ tầng là đối tượng chính, là một bộ phận
đặc thù của cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân có chức năng, nhiệm vụ
cơ bản là đảm bảo những điều kiện chung cần thiết cho quá trình sản xuất và tái sản
xuất mở rộng được diễn ra bình thường, liên tục. Có cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại,
nền kinh tế mới có điều kiện để tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững. Trình độ phát
triển của cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng đến trình độ phát triển của đất nước, có tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế và công tác xoá đói giảm nghèo.
Việc phát triển kết cấu hạ tầng gồm có sáu tác động quan trọng sau đây:
- Cơ sở hạ tầng phát triển mở ra khả năng thu hút các luồng vốn đầu tư đa
dạng cho phát triển KT - XH.
- Cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại là điều kiện để phát triển các vùng
kinh tế động lực, các vùng trọng điểm và từ đó tạo ra các tác động lan toả lôi kéo
các vùng liền kề phát triển.

- Cơ sở hạ tầng phát triển trực tiếp tác động đến các vùng nghèo, hộ nghèo
thông qua việc cải thiện hạ tầng mà nâng cao diều kiện sống của họ.
- Cơ sở hạ tầng thực sự có ích với người nghèo và góp phần vào việc giữ gìn
môi trường.
- Đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông nông thôn, đem đến tác
động cao nhất đối với giảm nghèo.
- Phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện nâng cao trình độ kiến thức và cải thiện
tình trạng sức khoẻ cho người dân, góp phần giảm thiểu bất bình đẳng về mặt xã hội
cho người nghèo.


22

1.3 Nội dung quản lý nhà nước đối với đầu tư công
1.3.1 Xây dựng, ban hành văn bản về quản lý nhà nước đối với đầu tư công
Trong nền kinh tế mở, nhiều hoạt động kinh tế có sự tham gia của tư nhân,
chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Do đó, phạm vi của khu vực công
cộng cũng được mở rộng. Theo quyết định 136/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về cải cách hành chính nhà nước thì: “Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân, nhưng không phải vì thế mà mọi công việc
về dịch vụ công đều do cơ quan nhà nước trực tiếp đảm nhận. Trong từng lĩnh vực
định rõ những công việc mà Nhà nước phải đầu tư và trực tiếp thực hiện, những
công việc cần phải chuyên để các tổ chức xã hội đảm nhiệm. Nhà nước có các chính
sách, cơ chế tạo điều kiện để doanh nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân trực tiếp làm
các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ và kiểm tra,
kiểm soát của cơ quan hành chính nhà nước”.
Ngày nay, sự phát triển đa dạng của thị trường tài chính và các hình thức đầu
tư, sở hữu hỗn hợp, hợp tác đa phương, liên doanh, liên kết, BOT… gắn kết khu
vực công cộng và khu vực tư nhân, làm cho ranh giới giữa hai khu vực này ngày
càng mờ nhạt. Trên thực tế, dù lớn hay nhỏ, khu vực công cộng luôn tồn tại gắn liền

với khu vực tư nhân.
Thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải
tuân theo. Thể chế xã hội quy định mục đích và đạo lý mà Nhà nước muốn đạt tới. Thể
chế xã hội nước ta theo Hiến Pháp 1992 là xây dựng và thực hiện thành công Xã hội
chủ nghĩa, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vì thế,
trong chính sách phát triển đất nước, nhà nước ta quan tâm rất lớn tới đối tượng người
nghèo, địa phương nghèo và tập trung đầu tư phát triển kinh tế các vùng khó khăn, đảm
bảo yếu tố công bằng trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Trong thể chế nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, các cơ quan
hoạt động phối hợp chặt chẽ nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra trong phát triển KTXH. Đối với hoạt động đầu tư công, khi có sự thống nhất cao giữa Bộ kế hoạch đầu
tư và Bộ tài chính với các cơ quan ban ngành Trung ương và địa phương thì nguồn


23

đầu tư công sẽ được đầu tư đúng mục đích, đúng đối tượng với quy mô phù hợp,
không chồng chéo, dàn trải, vì thế chất lượng đầu tư công cũng được nâng cao.
Tương tự như thế, ở quy mô cấp quận, để đầu tư công có hiệu quả thì cần có sự
thống nhất phối hợp chặt chẽ giữa Sở kế hoạch đầu tư với Sở Tài chính, với phòng
Tài chính - Kế hoạch và với các địa phương, đơn vị cá nhân tiếp nhận nguồn đầu tư.
Bên cạnh sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền
thì việc phân cấp trong quản lý của nhà nước cũng là một yếu tố quan trọng tác
động tới đầu tư công. Việc phân cấp thẩm quyền về tài chính cho chính quyền địa
phương mang lại những cơ hội lớn sau: Việc địa phương quản lý ngân sách có thể
giúp huy động và phân bổ nguồn lực đầu tư có hiệu quả hơn (Nếu phân cấp tốt,
nguồn vốn huy động cho đầu tư công sẽ sớm đi vào thực tiễn hơn do không phải
qua khâu trung gian và thời gian chờ đợi cấp phép, chuyển kinh phí từ cấp trên về
địa phương,...); làm cho việc cung cấp hàng hóa dịch vụ phù hợp hơn, đáp ứng tốt
hơn, sát thực hơn nhu cầu và mong muốn của địa phương, phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của địa phương.

Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của
nền KT - XH do Chính phủ thực hiện. Nó bao gồm mục tiêu mà Chính phủ muốn
đạt được và cách làm để đạt được các mục tiêu đó. Các chính sách của Chính phủ,
Nhà nước và địa phương đặc biệt là các chính sách về đầu tư có ảnh hưởng lớn tới
mức đầu tư và hiệu quả của đầu tư công cho phát triển kinh tế. Chính sách kinh tế là
bộ não chỉ huy, hướng dẫn và điều tiết sản xuất, tạo điều kiện để khai thác những
tiềm tàng, thế mạnh về nguồn lực. Cơ chế chính sách đúng đắn, hợp lòng dân sẽ tạo
thêm động lực cho người lao động, các doanh nghiệp, thành phần kinh tế tham gia
tích cực đầu tư phát triển sản xuất, tạo điều kiện sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư
cho phát triển kinh tế. Ngược lại, sẽ triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, cũng như
làm suy giảm hiệu quả hoạt động đầu tư.
Hiện tại, các chính sách chung ưu đãi đầu tư thể hiện qua các văn bản luật của
các cơ quan nhà nước đã được ban hành, một số văn bản cụ thể như luật số 35L/CTN ngày 22/6/1994 về khuyến khích đầu tư trong nước, luật này quy định các


24

lĩnh vực ưu đãi đầu tư bao gồm đầu tư phát triển rừng, nông lâm ngư nghiệp; các
công tình công cộng như giao thông, y tế, giáo dục... các vùng hải đảo, dân tộc miền
núi, điều kiện kinh tế khó khăn. Theo đó, luật cũng ban hành các chính sách ưu đãi
kèm theo đối với các đối tượng đầu tư vào các lĩnh vực đó. Ngoài ra, còn rất nhiều
các thông tư, văn bản, nghị định của Chính phủ, các bộ ban ngành như Bộ tài chính,
Bộ Nông nghiệp, Bộ LĐTBXH...quy định các chính sách ưu đãi đầu tư. Việc các
chính sách này được triển khai đưa vào thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho các địa
phương nhất là các vùng khó khăn, và các ngành kinh tế có điều kiện tiếp cận với
nguồn vốn đầu tư, tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của các vùng, các ngành.
HĐND, UBND tỉnh, thành phố và HĐND, UBND quận, huyện trực thuộc là
chủ thể thiết lập, ban hành các văn bản, quy định, quyết định liên quan đến đầu tư
công trên địa bàn.
1.3.2 Tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với đầu tư công

1.3.2.1 Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, quy
hoạch, giải pháp, chính sách đầu tư công
UBND tỉnh, thành phố và UBND các đơn vị hành chính trực thuộc là đầu mối
hướng dẫn, cung cấp thông tin và giải quyết các thủ tục liên quan về quy hoạch xây
dựng, giải quyết các thủ tục giới thiệu địa điểm, cấp Chứng chỉ quy hoạch, cấp Giấy
phép quy hoạch theo quy định về phân cấp Nhà nước và UBND địa phương.
Đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố được Sở Kế hoạch và Đầu tư
tham mưu, đưa ra quyết định chủ trương đầu tư dự án thuộc cấp mình quản lý (với
đơn vị hành chính cấp quận, huyện là Phòng Tài chính - Kế hoạch), phù hợp các
điều kiện sau: Phù hợp chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển KT - XH đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Không trùng lặp với các chương trình, dự án đã
có quyết định chủ trương đầu tư hoặc đã có quyết định đầu tư; Phù hợp với khả
năng cân đối nguồn vốn đầu tư và khả năng huy động các nguồn vốn khác đối với
các chương trình, dự án sử dụng nhiều nguồn vốn; Phù hợp với khả năng vay, trả nợ
công, nợ Chính phủ và nợ chính quyền địa phương; Bảo đảm hiệu quả KT - XH,
quốc phòng, an ninh và phát triển bền vững; Ưu tiên thực hiện đầu tư theo hình thức
đối tác công tư đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn.


25

Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố, quận, huyện thành lập Hội đồng thẩm định để
thẩm định Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án. Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố, quận,
huyện quyết định đầu tư dự án theo quy định tại Điều 39 của Luật Đầu tư công
quyết định trình tự lập, thẩm định, quyết định đầu tư dự án khẩn cấp do Bộ, ngành
trung ương và địa phương quản lý.
Quyết định đầu tư dự án bao gồm các nội dung chủ yếu: tên dự án; chủ đầu tư;
tổ chức tư vấn lập dự án (nếu có); mục tiêu, quy mô đầu tư, tiến độ thực hiện dự án;
địa điểm; thiết kế công nghệ (nếu có); quy chuẩn kỹ thuật; tổng mức đầu tư;...
Các Sở, Phòng, Ban chức năng có nhiệm vụ chủ trì thẩm định thiết kế, dự toán

đầu tư của dự án. Trong quá trình thẩm định, các Sở, Phòng, Ban được mời tổ chức,
cá nhân có chuyên môn, kinh nghiệm, phù hợp tham gia thẩm định từng phần thiết
kế, dự toán đầu tư của dự án để phục vụ công tác thẩm định của mình. Sau đó trình
Chủ tịch UBND cùng cấp phê duyệt.
Các Sở, Phòng, Ban chức năng có nhiệm vụ thẩm định kế hoạch lựa chọn nhà
thầu (kiểm tra, đánh giá và đưa ra nhận xét) căn cứ quy định pháp luật về đấu thầu
và pháp luật có liên quan. Tổ chức thẩm định đưa ra nhận xét chung về kế hoạch lựa
chọn nhà thầu và lấy ý kiến thống nhất, đề nghị người có thẩm quyền (chủ tịch
UBND) phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu.
Ban lãnh đạo quận, huyện, Phòng Tài chính - Kế hoạch quận, huyện tham mưu
với lãnh đạo tỉnh, thành phố về định hướng đầu tư công trung hạn, sau đó địa
phương chủ động trong khâu xây dựng dự án đầu tư.
1.3.2.2 Theo dõi, cung cấp thông tin về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
Các Sở, Phòng, Ban chức năng là cơ quan tham mưu, theo dõi, cung cấp thông
tin về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; chủ trì thẩm định nguồn vốn và khả năng
cân đối vốn theo cấp mình quản lý sau đó trình UBND cùng cấp phê duyệt, quyết
định phân bổ nguồn vốn đầu tư công.


×