Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

luận văn thạc sĩ nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty cổ phần DIC số 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.72 KB, 96 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Sau khi hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, tôi cam đoan những
thông tin, dữ liệu được sử dụng trong đề tài nhằm phân tích thực trạng của vấn
đề nghiên cứu là đúng.

Hà Nội, ngày

tháng năm 2017

Tác giả luận văn

Lê Quỳnh Trang


2

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình theo học nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ quý báu của các cơ quan, tập thể và.các cá nhân. Trước
hết, tôi xin chân thành.cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, các giảng viên của Khoa
Sau đại học, Trường Đại học Thương mại, sự quan tâm và hướng dẫn nhiệt tình
của GS.TS Nguyễn Bách Khoa trong suốt thời gian triển khai đề tài luận văn.…
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của Ban lãnh đạo Công ty Cổ
phần DIC số 4, tập thể cán bộ và người lao động đang làm việc tại Công ty Cổ
phần DIC số 4… đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, bạn bè, gia đình và đồng
nghiệp đã động viên và tạo điều kiện cho tôi thực hiện đề tài này.
Hà Nội, ngày


tháng năm 2017

Tác giả luận văn

Lê Quỳnh Trang


3

MỤC LỤC


4

DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn mới của quá trình hội nhập và toàn
cầu hóa với việc gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới (WTO), khối Asean
hoặc việc ký kết các hiệp định tự do thương mại với các nước phát triển và các
nền kinh tế mạnh trên thế giới, điều này đồng nghĩa với việc tạo ra cho chúng ta
nhiều cơ hội và thách thức mới. Hơn lúc nào hết các doanh nghiệp Việt Nam
phải đổi mới để thích ứng với điều kiện mới. Không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình trong nước và quốc tế. Việc giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ
bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai dựa trên quan hệ cung

cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác thì các doanh nghiệp phải tự ra các
quyết định kinh doanh của mình.
Mặt khác, để có thể trụ lại trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải
nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín thương hiệu...
nhằm hướng tới mục tiêu tối đa lợi nhuận nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
Do vậy, đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề
được quan tâm của doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp
có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Hiện nay, ngành xây dựng đang phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng
ngành 2015 là 10,82%, mức cao nhất kể từ năm 2010 và ngày càng đóng góp lớn
vào GDP chung của cả nước nên đây là ngành mũi nhọn của quốc gia và luôn
thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực này. Công ty Cổ phần
DIC số 4 được thành lập từ năm 1994 với tên gọi ban đầu là Xí nghiệp Kinh
doanh vật tư Xây dựng trực thuộc Công ty Đầu tư Phát triển - Xây dựng nay là
Tổng Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Xây dựng (DIC Corp), đến năm 2000
đổi tên thành Xí nghiệp Xây dựng số 4 và đến tháng 12/2004 được Bộ xây dựng
quyết định chuyển đổi thành Công ty Cổ phần DIC Số 4 (DIC-No4). Công ty
hoạt động trong nhiều lĩnh vực và ngành nghề, trong đó chủ yếu là thi công xây


6

lắp các công trình nhà cao tầng; đầu tư phát triển các dự án về khu công nghiệp,
khu đô thị và sản xuất cửa nhựa lõi thép cao cấp, cửa thép chống cháy thương
hiệu Vinawindow...
Với phương châm lấy chất lượng, tiến độ và an toàn vệ sinh lao động làm
thước đo xây dựng thương hiệu, những năm qua, Công ty cổ phần DIC số 4 luôn
là nhà thầu uy tín, chuyên nghiệp, thường xuyên thắng thầu nhiều công trình xây
dựng lớn trong cả nước và là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực
này. Vì vậy, việc duy trì và phát huy thế mạnh của mình trong hiện tại và tương lai

là vấn đề rất cần thiết của Công ty. Hơn nữa trước sự cạnh tranh ngày càng mạnh
mẽ từ các tập đoàn nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực này cũng là một yếu
tố thúc đẩy cho Công ty Cổ phần DIC số 4 cần phải hoàn thiện và phát triển hơn
nữa. Để thực hiện được những điều trên, Công ty cần phải xác định các tiêu
chuẩn, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình một cách trung thực, khoa
học, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp tối ưu nhất để nâng cao hiệu quả kinh doanh
của Công ty trong giai đoạn tới.
Xuất phát từ đòi hỏi cấp thiết trên, tôi lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả
kinh doanh tại Công ty Cổ phần DIC số 4” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu nâng cao hiệu quả kinh doanh tại
Công ty Cổ phần DIC số 4, tôi đã tìm đọc một số công trình nghiên cứu khoa
học về nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp:
(1) Nguyễn Văn Tạo (2004), “Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam (Lấy ví dụ ở một số doanh nghiệp thuộc
Tổng công ty Dệt - May Việt Nam)”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học
Thương mại. Tác giả luận án đã hệ thống hóa chi tiết và làm sáng tỏ các lý luận
liên quan đến hoạt động nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phân
tích và làm rõ từ thực tiễn nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã chỉ ra những thành công, hạn


7

chế và nguyên nhân của những hạn chế. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất các
nhóm biện pháp hiệu quả nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
nâng cao được hiệu quả kinh doanh của ḿnh.
(2) Nguyễn Thúy Hiền (2005), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả
kinh doanh của Nhà máy vật liệu Bưu điện”, Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh
doanh, Trường Đại học Thương mại. Đề tài đã đi sâu nghiên cứu hiệu quả

kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các tiêu chí tài chính và lao động.
Phân tích thực trạng tại Nhà máy vật liệu Bưu điện, phân tích các chỉ tiêu về
tỷ suất lợi nhuận, hiệu quả vốn, hiệu quả sử dụng lao động… phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà máy
vật liệu Bưu điện. Từ đó, tác giả đã đề xuất 5 nhóm giải pháp nhằm giúp Nhà
máy vật liệu Bưu điện nói riêng và các doanh nghiệp nói chung nâng cao
được hiệu quả kinh doanh của mình.
(3) Nguyễn Thành Công (2008), “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh
dịch vụ Logistics của Công ty Cổ phần xếp dỡ Ninh Bình”, Luận văn Thạc sĩ
Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Thương mại. Luận văn đã trình bày một số
lý luận về logistics và hiệu quả kinh doanh dịch vụ logistics. Phân tích thực trạng
hiệu quả kinh doanh dịch vụ logistics tại Công ty Cổ phần xếp dỡ Ninh Bình, chỉ
ra được những thành công, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại. Qua đó, đề
xuất nhóm 05 giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ logistics
của Công ty trong thời gian tới.
(4) Nguyễn Quỳnh Giao (2011), “Hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp sách ấn phẩm trên địa bàn Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh
doanh, Trường Đại học Thương mại. Tác giả Nguyễn Quỳnh Giao đã đi sâu phân
tích hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sách ấn phẩm trên địa bàn Hà
Nội thông qua các chỉ tiêu doanh thu thuần và mạng lưới phân phối của các
doanh nghiệp. Đề tài cũng đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp sách ấn phẩm, từ đó tìm ra được những thành công,


8

hạn chế của hoạt động nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này.
(5) Nguyễn Thanh Hải (2011), “Nâng cao hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp thương mại bán lẻ hiện đại trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận
án Tiến sĩ, Trường Đại học Thương mại. Luận án đã hệ thống hóa chi tiết các lý

luận và kinh nghiệm nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương
mại. Luận án đã giới thiệu, phân tích những đặc điểm riêng biệt của các doanh
nghiệp thương mại bán lẻ trên địa bàn Hà Nội, phân tích thực trạng nâng cao
hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này trong thời gian qua. Đề tài đã
nghiên cứu thực trạng thông qua phân tích các dữ liệu sơ cấp thu thập được nên
kết quả nghiên cứu có sự đánh giá khách quan những thành công, hạn chế của
công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại bán lẻ
hiện đại trên địa bàn Hà Nội. Từ đó, luận án đã đề xuất các nhóm giải pháp và
kiến nghị nhằm giúp các doanh nghiệp này nâng cao được hiệu quả kinh doanh
trong thời gian tới.
(6) Đào Văn Anh (2008), “Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty
Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả luận văn đã hệ thống hoá cơ sở lý luận
về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường; Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Khoáng sản
và Thương mại Hà Tĩnh, đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của Tổng công
ty từ năm 2005 đến năm 2007. Nhận diện được những hạn chế, tồn tại trong thời
gian qua và những thách thức trong thời gian tới từ đó làm rõ tính cấp thiết phải
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty; Đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Khoáng sản
và Thương mại Hà Tĩnh trên cơ sở những phân tích, đánh giá về hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty trong thời gian qua và những dự báo
về sự tác động của môi trường kinh doanh trong điều kiện mới.


9

(7) Cao Thị Minh Phương (2014), “Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công
ty cổ phần đầu tư và thương mại TNG”, Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh,
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên. Trong

nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp bắt buộc phải tự thích nghi với khả năng
tự cạnh tranh cũng như nâng cao khả năng kinh doanh của doanh nghiệp mình để
tồn tại. Công ty cổ phần đầu tư và thương mại TNG là một trong mười doanh
nghiệp dệt may có uy tín tại Việt Nam với các thế mạnh là các sản phẩm gia
công xuất khẩu may mặc. Đây cũng là mục tiêu chiến lược của Công ty vì nó
tiếp tục mang sự ổn định và lợi nhuận cho TNG trong nhiều năm tới. Để đạt
được mục tiêu này, một trong những bài toán quan trọng mà Công ty phải tìm lời
giải đó là vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh
của công ty.
Ngoài ra, đề tài còn tham khảo các tài liệu:
(8) PGS.TS Nguyễn Văn Công (2015), “Giáo trình Phân tích kinh doanh”,
Nhà xuất bản Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
(9) PGS.TS. Nguyễn Hoàng Long (2015), “Giáo trình Quản trị chiến
lược”, Trường Đại học Thương mại, Nhà xuất bản Thống kê.
(10) Lê Thành Trung (2013), “Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thành phố Thái Nguyên”, Luận
văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học
Thái nguyên.
Tóm lại, những nghiên cứu trên đã tạo nền tảng về phương pháp nghiên cứu
cho đề tài “Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần DIC số 4”.
Những nội dung về nâng cao hiệu quả kinh doanh tiếp tục phải được triển khai
nghiên cứu. Chính vì thế, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đồng bộ để
nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần DIC số 4 là đòi hỏi cấp thiết,
thể hiện tính mới và không trùng với các công trình đã công bố trước đó.


10

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao hiệu quả

kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, phân tích đánh giá
thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần DIC số 4, luận văn
đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty
Cổ phần DIC số 4 trong thời gian tới.
Để thực hiện được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra bao gồm:
(i) Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao hiệu quả kinh
doanh trong doanh nghiệp.
(ii) Phân tích, đánh giá thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty
Cổ phần DIC số 4.
(iii) Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
của Công ty Cổ phần DIC số 4 trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh
tại Công ty Cổ phần DIC số 4.
Phạm vi nghiên cứu:
(i) Về không gian: nghiên cứu thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh tại
Công ty Cổ phần DIC số 4 trực thuộc Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Xây dựng
(DIC GROUP) tại Việt Nam.
(ii) Về thời gian: các nghiên cứu thực tế giới hạn chủ yếu trong thời gian
2013 - 2016.
(iii) Về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu nâng cao hiệu quả kinh doanh
tại Công ty Cổ phần DIC số 4 thông qua các chỉ tiêu: Hiệu quả kinh doanh thông
qua muc tiêu marketing; hiệu quả kinh doanh thông qua hiệu quả nguồn lực của
doanh nghiệp và hiệu quả thông qua các yếu tố tổng hợp


11

5. Phương pháp nghiên cứu
Với góc độ nghiên cứu của đề tài là nâng cao hiệu quả kinh doanh trong

doanh nghiệp dựa trên tiếp cận quản trị kinh doanh của các doanh nghiệp, đề tài
sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để nhìn nhận và phân tích các sự việc
hiện tượng trong quá trình vận động tất yếu của hoạt động kinh doanh trong
doanh nghiệp.
Trên cơ sở phương pháp luận trên, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể
như sau: Về phương pháp thu thập dữ liệu được sử dụng là phương pháp thu
thập dữ liệu thứ cấp (qua các kết quả điều tra, các báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh, các hợp đồng trúng thầu, các số liệu về tài chính, nguồn nhân lực,…
của Công ty.
Về phương pháp xử lý dữ liệu, đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh trong đó có sử dụng phần mềm thống kê để phân tích dữ liệu điều tra
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về nâng cao hiệu quả kinh doanh trong
doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần
DIC số 4
Chương 3: Những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công
ty Cổ phần DIC số 4


12

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Kinh doanh, doanh nghiệp, doanh nghiệp xây dựng và đặc điểm
kinh doanh của chúng

a) Kinh doanh
Khi tiến hành bất cứ hoạt động kinh doanh nào thì đều phải sử dụng tập hợp
các phương tiện, con người, nguồn vốn… và đưa các nguồn lực này vào hoạt
động để sinh lời cho doanh nghiệp. Nhưng chúng đều có đặc điểm chung là gắn
liền với sự vận động của nguồn vốn, một chủ thể kinh doanh không chỉ cần vốn
mà cần cả những cách thức làm cho đồng vốn của mình quay vòng không ngừng,
để đến cuối chu kỳ kinh doanh số vốn lại tăng thêm. Mặt khác chủ thể kinh
doanh phải có được doanh thu để bù đắp chi phí và có lợi nhuận.
Theo Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2015 thì “Kinh doanh là việc thực hiện
liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi”.
Theo Mai Văn Bưu, Phan Kim Chiến trong cuốn giáo trình “Lý thuyết quản
trị kinh doanh” thì: “Kinh doanh là một hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh
lời của chủ thể kinh doanh trên thị trường”.
b) Doanh nghiệp
Hiện nay, có nhiều khái niệm thế nào là một doanh nghiệp, mỗi khái niệm
đều mang trong nó có một nội dung nhất định với một giá trị nhất định.
Theo điều, Luật Doanh nghiệp 2015 thì “Doanh nghiệp là tổ chức có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.


13

Xét theo quan điểm chức năng: Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức sản
xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất khác nhau do các nhân viên
của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa hay
dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành
của sản phẩm làm ra.

Xét theo quan điểm phát triển: Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản
xuất ra những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành
công, có lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng
sản xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được .
Xét theo quan điểm hệ thống: doanh nghiệp bao gồm một tập hợp các bộ
phận được tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục tiêu. Các bộ
phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất, thương mại,
tổ chức, nhân sự.
Từ cách nhìn nhận như trên có thể phát biểu về khái niệm doanh nghiệp
như sau: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các
phương tiện tài chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản
xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của
người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu, đồng thời
kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội.
c) Doanh nghiệp xây dựng
(1) Doanh nghiệp xây dựng
Từ khái niệm doanh nghiệp, đề tài đưa ra khái niệm doanh nghiệp như sau:
Doanh nghiệp xây dựng là một tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân kinh doanh
các sản phẩm đặc biệt (sản phẩm có giá trị lớn, thời gian sản xuất dài) trên thị
trường xây dựng để đạt được mục đích tối đa hoá lợi nhuận.
(2) Vị trí của doanh nghiệp xây dựng trong nền kinh tế quốc dân.
Các doanh nghiệp xây dựng cũng phát triển để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Khi nền kinh tế chưa phát triển, các doanh nghiệp xây dựng với số lượng lao


14

động ít, trình độ thấp, trang thiết bị kỹ thuật thô sơ, chủ yếu xây dựng thủ công.
Ngày nay với số lượng lao động dồi dào, trình độ tay nghề cao, trang thiết bị
máy móc hiện đại, sử dụng các phương pháp thi công tiên tiến, áp dụng các

thành tựu khoa học vào xây dựng các công trình.
Xuất phát từ thực tế, do vậy hầu như các doanh nghiệp xây dựng hiện nay
đủ sức đảm nhận thi công những công trình có quy mô lớn và kỹ thuật phức tạp
trong và ngoài nước. Về mặt tổ chức quản lý sản xuất, các doanh nghiệp xây
dựng ngày càng thay đổi để phù hợp với nhu cầu của xã hội. Từ những doanh
nghiệp nhỏ, phân tán, hoạt động trong phạm vi hẹp, hiệu quả sản xuất kinh
doanh thấp, đến nay đã hình thành những Tổng công ty, các Tập đoàn xây dựng
có tính toàn quốc và xuyên quốc gia. Sự phát triển của các loại hình doanh
nghiệp xây dựng phụ thuộc vào từng quốc gia, ở các nước có nền kinh tế phát
triển như Mỹ, Anh, Pháp… chủ yếu là các doanh nghiệp xây dựng vừa và nhỏ
phát triển. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp này tương đối gay gắt dẫn tới có
sự chuyên môn hoá theo ngành xây dựng. Công nghệ xây dựng thế giới hiện nay
thường tập trung vào xây dựng nhà cao tầng, xây dựng đường hầm và ngoài biển
với các khoản chi phí đầu tư nghiên cứu tương đối lớn ở các nước đã và đang
phát triển. Ngành xây dựng ở bất kỳ một quốc gia nào cũng giữ một vai trò quan
trọng trong việc nộp thuế cho ngân sách Nhà nước, thúc đẩy sự tăng trưởng của
nền kinh tế. Đặc biệt ở các nước có nền kinh tế đang phát triển thì ngành xây
dựng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt nạn
thất nghiệp. Mặt khác vốn đầu tư cho ngành xây dựng thường chiếm tỷ trọng cao
trong tổng ngân sách của mỗi quốc gia, do đó việc tiết kiệm, quản lý tốt các khâu
trong xây dựng có ý nghĩa quan trọng đối với ngân sách Nhà nước.
Đối với Việt Nam, Nhà nước ta thường quan tâm tới ngành xây dựng, coi
đây là một ngành công nghiệp đặc biệt, khi ngành xây dựng phát triển là tiền đề để
các ngành công nghiệp khác phát triển theo. Chính vì thế vốn đầu tư của ngân
sách Nhà nước cấp cho ngành xây dựng ngày càng tăng để xây dựng cơ sở hạ tầng
kiến trúc.


15


Trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay, với xu thế hội nhập và
phát triển, nước ta đang thu hút một lượng vốn đầu tư rất lớn từ phía nước ngoài.
Các dự án đầu tư đó ở nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế: Dự án giao
thông, điện, nước, nông nghiệp, y tế, giáo dục… Tất cả các dự án này đều có sự
tham gia của các doanh nghiệp xây dựng. Điều đó càng khẳng định vị trí, vai trò
của doanh nghiệp xây dựng trong nền kinh tế quốc dân, nó là chỗ dựa vững chắc
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi quốc gia.
d) Đặc điểm của doanh nghiệp xây dựng
Thứ nhất, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng là
một loại sản xuất công nghiệp đặc biệt theo đơn đặt hàng. Sản phẩm xây dựng
mang tính chất đơn chiếc, riêng lẻ. Sản phẩm xây dựng mang tính chất đơn
chiếc, đối với sản phẩm xây dựng thường được sản xuất theo đơn đặt hàng thông
qua hợp đồng kinh tế giữa người mua và người bán đó là những công trình kiến
trúc. Trong khi sản phẩm của những ngành khác thường sản xuất hàng loạt, trong
điều kiện ổn định. Sản phẩm xây dựng được phân bố ở khắp mọi nơi tuỳ theo địa
điểm yêu cầu của người mua do vậy dẫn tới các chi phí cũng khác nhau cho cùng
một loại sản phẩm.
Thứ hai, đối tượng của xây dựng thường có khối lượng lớn, giá trị lớn, thời
gian thi công tương đối dài. Sản phẩm xây dựng thường có giá trị lớn, tốn nhiều
chi phí. Chi phí đầu tư cho một công trình thường dải ra trong một thời gian dài,
có thể do nhiều nguồn vốn hình thành. Sản phẩm tuy đơn chiếc nhưng do nhiều
hạng mục công trình hợp thành do vậy có thể do nhiều bộ phận tiến hành, do đó
công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cũng khác biệt
với các ngành khác.
Thứ ba, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng thường
diễn ra ngoài trời, chịu tác động trực tiếp của các yếu tố môi trường trực tiếp, do
vậy thi công xây dựng mang tính thời vụ. Sản phẩm xây dựng chịu ảnh hưởng
của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, môi trường… của nơi tiêu thụ. Sản



16

phẩm xây dựng bao giờ cũng gắn với địa điểm của một địa phương nhất định do
vậy phải lựa chọn công trình phù hợp với điều kiện địa lý, khí hậu, phong tục tập
quán, môi trường. Đặc điểm này chi phối tới các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp xây dựng như là khảo sát, thiết kế, thi công.
Thứ tư, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng được
thực hiện trên các địa điểm biến động. Sản phẩm xây dựng mang tính chất cố
định, gắn liền với địa điểm xây dựng, khi hoàn thành không nhập kho như các
ngành vật chất khác.
Thứ năm, sản phẩm xây dựng thường kéo dài thời gian sản xuất, yêu cầu kỹ
thuật và mỹ thuật cao. Thời gian sử dụng sản phẩm xây dựng thường kéo dài,
nhiều công tŕnh kiến trúc có thể tới hàng trăm năm hoặc lâu hơn nữa. Xuất phát
từ mục đích của công trình xây dựng không những chỉ phục vụ cho mục đích
hiện tại mà còn phục vụ cho tương lai. Do vậy khi tiến hành sản xuất sản phẩm
xây dựng chất lượng được coi là hàng đầu.
Mặt khác sản phẩm xây dựng cần phải có tính thẩm mỹ cao, bởi vì sản
phẩm xây dựng là những ngôi nhà, khách sạn, sân bay… càng cần vẻ đẹp bề
ngoài để gây sự chú ý, thu hút lòng người. Tính thẩm mỹ của các công trình còn
là cơ sở quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật,
phong tục tập quán của một quốc gia.
1.1.2. Chiến lược kinh doanh, mục tiêu của chiến lược kinh doanh
a) Chiến lược
Chiến lược xuất phát từ “strategos” - gốc Hy Lạp, là một thuật ngữ quân
sự được C. Clausewitz(1998) mô tả là “dùng để lập kế hoạch chiến tranh và
hoạch định các chiến dịch tác chiến” nhằm dàn trận và phân bố lực lượng với
mục tiêu đánh thắng kẻ thù. Chiến lược ngày nay được áp dụng trong kinh doanh
với ý nghĩa tương tự như trong quân đội khi K. Andrews (1987) cho rằng
“Chiến lược là những gì mà một tổ chức phải làm dựa trên những điểm mạnh và
yếu của mình trong bối cảnh có những cơ hội và cả những mối đe dọa”.



17

G. Hissh cho rằng “Chiến lược là nghệ thuật phối hợp các hành động và
điều khiển chúng nhằm đạt tới các mục tiêu dài hạn”.
Theo Alain Charlec Martinet thì “Chiến lược của doanh nghiệp là nhằm
phác hoạ những quĩ đạo tiến triển đủ vững chắc và lâu dài, chung quanh quĩ
đạo đó có thể sắp xếp những quyết định và những hành động chính xác của
doanh nghiệp”.
Với các cách tiếp cận như trên, có thể rút ra khái niệm “Chiến lược là tập
hợp những quyết định quản trị và hành động hướng tới việc hoàn thành mục tiêu
dài hạn thông qua việc đảm bảo thích nghi với môi trường thường xuyên thay
đổi của tổ chức, và được thể hiện thông qua 3 giai đoạn là hoạch định, thực thi
và kiểm tra, đánh giá”.
b) Chiến lược kinh doanh
Có nhiều cách nhìn nhận và định nghĩa khác nhau về chiến lược kinh doanh
tùy theo giai đoạn phát triển, bối cảnh và tình thế ngành kinh doanh cụ thể. Tuy
nhiên có thể khái quát về chiến lược kinh doanh như Nguyễn Bách Khoa: “Chiến
lược kinh doanh còn được gọi là chiến lược cạnh tranh hay đơn giản là chiến
lược định vị, được hiểu là một cấu trúc các công cụ, giải pháp, nguồn lực để xác
lập định vị chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu dài hạn của một công ty”.
Nguyên lý của quản trị chiến lược đã chỉ ra, chiến lược kinh doanh là loại
hình chiến lược ở cấp độ các đơn vị kinh doanh để triển khai chiến lược cấp
doanh nghiệp (tập đoàn, tổng công ty, công ty) và tạo khuôn khổ cho các chiến
lược cấp chức năng hoặc tác nghiệp. Vì vậy, chiến lược kinh doanh có vị thế là
hạt nhân và động lực của quản trị chiến lược doanh nghiệp. Về nội hàm, chiến
lược kinh doanh có liên quan một cách căn bản đến cách thức, con đường mà
một đơn vị kinh doanh chiến lược (SBU) cạnh tranh được trong ngành kinh
doanh của nó. Điểm nhấn mạnh chính của chiến lược kinh doanh là phát triển

các chiến lược có quan hệ với định vị thị trường và thiết lập các lợi thế cạnh
tranh bền vững cho SBU đó.


18

Chiến lược kinh doanh bao gồm cấu trúc các quyết định về không gian thị
trường mục tiêu, lựa chọn cường độ đầu tư và quy hoạch nguồn lực cho các
SBU; các định hướng chiến lược chức năng (sản xuất, thương mại, hạ tầng công
nghệ, tài chính, hệ thống thông tin, R&D, tổ chức và nhân lực, hội nhập quốc tế),
các tài sản, khả năng và năng lực cộng sinh được huy động để tạo lập lợi thế
cạnh tranh bền vững. Trong tập đoàn kinh doanh, mỗi doanh nghiệp thành viên
thuộc tập đoàn chính là các SBU. Do đó, chiến lược kinh doanh của tập đoàn
chính là chiến lược của các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn, bao gồm
các quyết định về không gian thị trường mục tiêu, lựa chọn cường độ đầu tư và
quy hoạch nguồn lực cho từng doanh nghiệp thành viên; các định hướng chiến
lược chức năng… để tạo lập lợi thế cạnh tranh bền vững cho từng doanh nghiệp
thành viên của tập đoàn.
Về mục tiêu, chiến lược kinh doanh của tập đoàn là bậc quản trị chiến lược
tiếp theo để triển khai chiến lược tập đoàn và có tiêu điểm ở tăng cường vị thế
cạnh tranh bền vững trong dài hạn của các sản phẩm/dịch vụ chủ chốt của doanh
nghiệp thành viên trên một thị trường mục tiêu xác định của doanh nghiệp đó. Vì
vậy, chiến lược kinh doanh của tập đoàn có tính cạnh tranh (đua tranh với các đối
thủ cạnh tranh về một lợi thế nào đó trong cung ứng các giá trị, chi phí thấp hay
khác biệt hóa) hoặc có tính hợp tác (liên kết, liên minh với một hoặc một vài đối
tác để dành được một lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh khác) hoặc đồng thời cả
hai (cạnh tranh và hợp tác). Chiến lược kinh doanh của tập đoàn luôn luôn đặt vấn
đề công ty hoặc các SBU của nó (các doanh nghiệp thành viên của tập đoàn) phải
cạnh tranh hoặc hợp tác ra sao trong một ngành kinh doanh cụ thể.
Về loại hình, chiến lược kinh doanh trong tập đoàn kinh doanh có thể bao

gồm các chiến lược tích hợp về phía trước và phía sau, đa dạng hóa, thu hoạch
nhanh, phát triển sản phẩm, thâm nhập thị trường, cắt giảm sản lượng, tiết chế
đầu tư, rút khỏi thị trường, cổ phần hóa (CPH), M&A,... các doanh nghiệp thành
viên thuộc tập đoàn.


19

Từ các quan niệm khác nhau về chiến lược, chúng ta có thể rút ra được một
khái niệm chung nhất về chiến lược như sau:
c) Đặc điểm của chiến lược kinh doanh
Thứ nhất, chiến lược kinh doanh là các chiến lược tổng thể của doanh
nghiệp xác định các mục tiêu và phương hướng kinh doanh trong thời kỳ tương
đối dài (5;10 năm...) và được quán triệt một cách đầy đủ trong tất cả các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp
phát triển bền vững.
Thứ hai, chiến lược kinh doanh chỉ phác thảo các phương hướng dài hạn,
có tính định hướng, còn trong thực hành kinh doanh phải thực hiện việc kết hợp
giữa mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế, kết hợp giữa chiến lược và chiến
thuật, giữa ngắn hạn và dài hạn. Từ đó mới đảm bảo được hiệu quả kinh doanh
và khắc phục được các sai lệch do chiến lược gây ra.
Thứ ba, mọi quyết định quan trọng trong quá trình xây dựng, quyết định, tổ
chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chiến lược đều phải tập trung
vào người lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp. Điều này đảm bảo cho tính
chuẩn xác của các quyết định dài hạn, cho sự bí mật về thông tin.
Thứ tư, chiến lược kinh doanh luôn được xây dựng dựa trên cơ sở các
lợi thế so sánh. Điều này đòi hỏi trong quá trình xây dựng chiến lược, doanh
nghiệp phải đánh giá đúng thực trạng sản xuất kinh doanh của mình để tìm
ra các điểm mạnh, điểm yếu và thường xuyên rà soát lại các yếu tố nội tại
khi thực thi chiến lược.

Thứ năm, chiến lược kinh doanh trước hết và chủ yếu được xây dựng cho
các ngành nghề kinh doanh, các lĩnh vực kinh doanh chuyên môn hoá, truyền
thống thế mạnh của doanh nghiệp. Điều này đặt doanh nghiệp vào thế phải xây
dựng, phải lựa chọn và thực thi chiến lược cũng như tham gia kinh doanh trên
những thương trường đã có chuẩn bị và có thế mạnh.


20

d) Mục tiêu của chiến lược kinh doanh
Mục tiêu của chiến lược kinh doanh thường gắn liền với mục tiêu chiến
lược của doanh nghiệp. Mục tiêu của chiến lược kinh doanh là kết quả cụ thể của
doanh nghiệp cần đạt được khi thực hiện chiến lược kinh doanh. Thông thường
các doanh nghiệp chia mục tiêu này thành hai loại: mục tiêu dài hạn và mục tiêu
ngắn hạn.
1.1.3. Hiệu quả, hiệu năng, hiệu suất
a) Hiệu quả
Hiệu quả được xác định như là một khái niệm đo lường về sự thích hợp của
các mục tiêu được chọn (đó có phải là những mục tiêu đúng không?) và mức độ
chúng được thực hiện. Hiệu quả quản trị trước hết cần hiểu chính là làm đúng việc.
Đây là vấn đề rất quan trọng, bởi vì làm đúng việc (xác định và thực hiện việc
đúng) sẽ đưa tổ chức đi đúng hướng. Hay nói cách khác, các tổ chức sẽ đạt được
hiệu quả hơn khi các nhà quản trị chọn được mục tiêu đúng và hoàn thành chúng.
b) Hiệu năng
Hiệu năng được xác định như là một khái niệm định hướng đến cái cuối
cùng đánh giá mức độ thực hiện các mục tiêu, mục đích đã được định trước cho
một hoạt động, một chương trình đã được thực hiện (đạt được kết quả thỏa đáng
từ việc sử dụng các nguồn lực, các hoạt động của tổ chức).
c) Hiệu suất
Hiệu suất được xác định như là một khái niệm đo lường các nguồn lực

được sử dụng tốt như thế nào để đạt đến một mục tiêu. Có thể hiểu đó chính là
sự so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra trong quá trình thực hiện một
mục tiêu nào đó. Hiệu suất càng cao khi tỷ lệ giữa kết quả đạt được trên chi phí
bỏ ra càng lớn. Hiệu suất chỉ có được khi ta làm việc đúng cách, đúng phương
pháp. Vì vậy, cần chọn đúng cách thức tiến hành công việc. Khi đứng trước
nhiều phương án, nhà quản trị phải so sánh lợi ích và chi phí của từng phương
án, cân nhắc kỹ để chọn được cách giải quyết đạt được kết quả cao mà phí tổn là
thấp nhất.


21

1.1.4. Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội của doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước hiện nay để thực hiện
tốt chế độ hoạch toán kinh tế, bảo đảm lấy thu bù chi và có lãi trong hoạt động
sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, là cơ sở để thị trường tồn tại và phát
triển của mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh
gay gắt. Điều này đòi hỏi các thành phần kinh tế các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh phải có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các
yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo một mục đích
nhất định.
Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith cho rằng “Hiệu quả kinh tế là kết
quả trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”. Nhà kinh tế học
người Pháp Ogiephri cũng có quan điểm như vậy. Ở đây hiệu quả được đồng
nhất với chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó giải
thích kết quả sản xuất kinh doanh có thể dùng cho chi phí mở rộng sử dụng các
nguồn sản xuất, nếu cùng một mức kết quả với hai mức chi phí khác nhau thì
theo quan điểm này chúng đều có hiệu quả.
“Hiệu quả kinh doanh là tỷ lệ so sánh giữa phần tăng thêm của chi phí”.
Quan điểm này biểu hiện quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả và chi phí để

đạt được kết quả đó. Quan điểm này có ưu điểm là bám sát được mục tiêu của
nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh
thần cho người dân. Nhưng khó khăn ở đây là phương tiện để đo lường thể hiện
tư tưởng định hướng đó [16].
Hiệu quả kinh tế được đo bằng kết quả hiệu số giữa kết quả đạt được và chi
phí bỏ ra để có được kết quả đó.
Qua nghiên cứu các quan điểm về hiệu quả kinh doanh, tác giả để tài thống
nhất và cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ
sử dụng các yếu tố sản xuất và các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được các
mục tiêu với kết quả cao nhất trong điều kiện chi phí thấp nhất [16].


22

1.2. Khái niệm, thực chất, yếu tố cấu thành và chỉ tiêu nâng cao hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp và áp dụng cho doanh nghiệp xây dựng
1.2.1. Bản chất nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp theo
tiếp cận quản trị chiến lược kinh doanh
a) Bản chất nâng cao hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu quan trọng nhất của mọi sự lựa chọn cho
các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước. Bất kỳ
hoạt động nào của mọi tổ chức đều mong muốn đạt được hiệu quả cao nhất trên
các phương diện kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Hoạt động kinh doanh
trong cơ chế thị trường yêu cầu đạt hiệu quả càng đòi hỏi cấp bách. Vì nó là
động lực thúc đẩy doanh nghiệp cạnh tranh và phát triển. Hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp chủ yếu xét trên phương diện kinh tế có quan hệ với hiệu quả
xã hội và môi trường.
Theo giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh của Đại học kinh tế Quốc
dân cho rằng tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà doanh nghiệp hướng
đến, dó đó khi nghiên cứu hiệu quả kinh doanh chúng ta cũng thấy vai trò quan

trọng của trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Việc hình thành và thực
hiện hiệu quả của hoạt động quản lý thường diễn ra trong một thời gian dài. Hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp phải thể hiện cả về mặt định tính và định
lượng. Để hiểu rõ bản chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cần phân biệt
ranh giới phạm trù kết quả và hiệu quả.
Hiệu quả kinh doanh của việc thực hiện mỗi quyết định thường gắn với các
yếu tố xã hội được biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí
bỏ ra. Nếu xét về định lượng, người ta chỉ thu được hiệu quả kinh tế khi nào kết
quả lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao. Song khi
đánh giá về mặt định tính cần phải xem xét nó với các yếu tố chính trị, xã hội
như; nạn thất nghiệp, bảo vệ môi trường, ổn định chính trị, an ninh, an toàn...
Vậy hiệu quả kinh doanh cũng thực sự đòi hỏi cần sự nỗ lực của các cấp quản trị
trong quá trình giải quyết những yêu cầu thực tiễn.


23

Hai mặt định tính và định lượng của phạm trù hiệu quả kinh doanh có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trong những biểu hiện về mặt định lượng phải nhằm đạt
được những mục tiêu kinh tế nhất định. Trong những biểu hiện về mặt định tính
phải đạt được những mục tiêu xã hội, chính trị, an ninh. Do vậy xem xét hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp theo các nhân tố định lượng và định tính theo
quan điểm này tương đối toàn diện.
Từ khái niệm chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ta thấy khi
thiết lập mối quan hệ giữa “đầu vào (lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu, tiền vốn…)” và “đầu ra (sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho xã hội doanh
nghiệp phải tiêu thụ được và thu tiền về.)” sẽ có một dãy các hệ thống giá trị
khác nhau phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Việc phân tích, đánh
giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xem xét một cách tổng thể cả
về mặt không gian, thời gian, trong mối quan hệ chung của toàn bộ nền kinh tế

quốc dân, hiệu quả xã hội trách nhiệm bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên
của đất nước.
Bản chất của nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nâng cao hiệu quả của
lao động xã hội, nó phản ánh mặt chất của hoạt động kinh doanh đó là trình độ
sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh để đạt được mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Song nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm các yếu tố
đầu vào, nguồn nhân lực xã hội. Tiêu chuẩn hóa hiệu quả đặt ra là tối đa hóa kết
quả hoặc tối thiểu hóa chi phí dựa trên nguồn lực sẵn có.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là việc doanh nghiệp thực hiện các biện
pháp hữu hiệu giúp quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra
thông suốt phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất và các nguồn lực của
doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu với kết quả cao nhất trong điều kiện chi
phí thấp nhất.
Trong phạm vi luận văn, đề tài nghiên cứu nâng cao hiệu quả kinh doanh
thông qua hiệu quả các mục tiêu marketing nhằm đánh giá thị trường, thị phần


24

và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; thông qua hiệu quả sử dụng nguồn lực
để đánh giá hiệu quả đầu vào và đầu ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
b) Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng
Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng
là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm nguồn lực lao động xã hội.
Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc
khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thỏa mãn
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt
để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh
nghiệp xây dựng buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực,

hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết quả
tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt kết quả tối đa với chi phí
nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở
đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí để tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng
nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của
việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua hay là giá trị của sự hy sinh công việc kinh
doanh khác để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ
sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy rõ lợi ích kinh
tế thật sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn
phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả cao hơn.
c) Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
xây dựng
Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết
việc sản xuất đạt ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích, tìm
ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết
quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả. Với tư cách là một


25

công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử
dụng ở giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng tổng hợp đầu vào
trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn sử dụng ðể ðánh giá trình độ sử dụng
từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là sự biểu hiện của việc
lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự lựa chọn phương
án sản xuất kinh doanh của mình cho phù hợp với trình độ của doanh nghiệp. Để
đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải sử dụng tối ưu

nguồn lực sẵn có. Nhưng việc sử dụng nguồn lực đó bằng cách nào để có hiệu
quả nhất lại là một bài toán mà nhà quản trị phải lựa chọn cách giải. Chính vì
vậy, ta có thể nói rằng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh không chỉ là công cụ
hữu hiệu để các nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị của mình mà còn
là thước đo trình độ của nhà quản trị.
Ngoài những chức năng trên của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nó
còn là vai trò quan trọng trong cơ chế thị trường.
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định
bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là
nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại đó, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là
luôn tồn tại và phát triển một cách vững chắc. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp
hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát
triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của doanh nghiệp phải không
ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng
như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất
định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là hết sức quan trọng trong việc đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.


×