TÓM LƯỢC
Chương 1 khóa luận nghiên cứu một cách chi tiết về khái niêm, đặc điểm của
Công ty cổ phần cũng như quản lý Công ty cổ phần. Bên cạnh đó, khóa luận cũng chỉ
ra cơ sở quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật, đồng thời phân tích và
làm rõ được mối quan hệ giữa Điều lệ công ty và pháp luật trong điều chỉnh quản lý
Công ty cổ phần. Trong phạm vi chương 1 cũng đã nghiên cứu sơ lược nội dung pháp
luật về quản lý Công ty cổ phần.
Đối với chương 2, khóa luận tập trung vào đánh giá thực trạng pháp luật điều
chỉnh về cơ cấu tổ chức, quản lý công ty cổ phần và thực trạng thực hiện pháp luật về
cơ cấu tổ chức, quản lý công ty cổ phần ở các doanh nghiệp. Đồng thời, trong chương
2 cũng đã có liên hệ thực trạng thực hiện pháp luật về cơ cấu tổ chức, quản lý Công ty
cổ phần ở Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội. Qua việc đánh giá về
thực trạng thực hiện pháp luật về cơ cấu tổ chức, quản lý Công ty cổ phần, khóa luận
đã rút ra bất cập của hệ thống pháp luật hiện tại và khó khăn trong việc áp dụng, thi
hành các quy định về cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ trong Công ty cổ phần ở các
doanh nghiệp hiện nay.
Sau khi phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về cơ cấu tổ chức quản lý
Công ty cổ phần, trong chương 3, khóa luận đã đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật
về cơ cấu tổ chức, quản lý Công ty cổ phần ở Việt Nam.
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và tạo điều kiện từ
phía Ban lãnh đạo và các anh chị em trong Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM
Hà Nội. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Quý công ty vì những giúp đỡ đó.
Trong quá trình hoàn thành bài khóa luận này, tôi có sử dụng rất nhiều kiến thức
đã được học trong suốt bốn năm vừa qua. Tôi xin kính gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy,
Cô giáo đã dạy và truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức bổ ích trong suốt bốn năm tôi
theo học tại trường Đại học Thương mại.
Tôi cũng xin kính gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Thầy giáo, ThS.
Nguyễn Phụng Dương đã tận tâm hướng dẫn và giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành khóa
luận một cách tốt nhất.
Tuy nhiên, do kiến thức và khả năng nghiên cứu còn có hạn, vì vậy, bài khóa luận
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.Tôi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp quý báu từ phía Quý thầy cô và tôi sẽ tiếp thu sửa đổi để kiến thức được
hoàn thiện hơn.
Sau cùng, tôi xin kính chúc thầy cô Khoa Kinh tế - Luật và Thầy giáo, ThS.
Nguyễn Phụng Dương luôn dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và đạt được nhiều thành công
trong sự nghiệp “trồng người” của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
Sinh viên
Trần Thị Hải Yến
2
MỤC LỤC
3
DANH MỤC VIẾT TẮT
Từ viết tắt
BKS
CTCP
CTTNHH
DNTN
ĐHĐCĐ
GCNĐKKD
GĐ/TGĐ
HĐQT
QPPL
Ý nghĩa của từ viết tắt
Ban kiểm soát
Công ty cổ phần
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Doanh nghiệp tư nhân
Đại hội đồng cổ đông
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Giám đốc/Tổng giám đốc
Hội đồng quản trị
Quy phạm pháp luật
4
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu
thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Để phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến
nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việc gia nhập WTO
là một trong những nỗ lực nhằm tiếp cận thị trường thương mại toàn cầu, nâng cao vị
thế của Việt Nam trên thị trường thương mại quốc tế, tạo tiền đề cho hội nhập và phát
triển nền kinh tế. Cũng giống như nhiều quốc gia khác, khi tham gia WTO, Việt Nam
cũng phải tiến hành hoàn thiện hóa một số văn bản pháp luật như: Bộ luật Dân sự,
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh… nhằm tạo ra
một sân chơi bình đẳng và hành lang pháp lý an toàn cho các doanh nghiệp. Việt Nam
đã tiến hành nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa
hơn, việc cải cách này thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng
như các cam kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ.
Thành lập doanh nghiệp để tiến hành hoạt động thương mại là một trong những
cách thức được tính đến nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Trong số các loại hình doanh nghiệp
hiện nay mà pháp luật Việt Nam cho phép thành lập và hoạt động, tuy mỗi loại đều có
những điểm mạnh nhất định, đòi hỏi các nhà kinh doanh cần nắm bắt để khai thác và
vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện và sở thích của mình; nhưng không
thể phủ nhận những lợi thế hơn hẳn của loại hình doanh nghiệp là Công ty cổ phần so
với các loại hình doanh nghiệp khác. Đặc biệt là trong những lĩnh vực xây dựng đòi hỏi
phải có quy mô vốn lớn và kỹ thuật nghiệp vụ kinh doanh phức tạp như: ngân hàng, bảo
hiểm, kinh doanh bất động sản, đầu tư…
So với Luật doanh nghiệp 2005 còn một số hạn chế đối với công ty cổ phần thì
Luật Doanh nghiệp 2014 đã có nhiều sự thay đổi tích cực trong tổ chức và quản lý bộ
máy của công ty cổ phần.
Tuy nhiên việc tổ chức và quản lý công ty cổ phần đối với nước ta tuy không mới
mẻ nhưng trong quá trình thực thi Luật mới vẫn còn một số vấn đề còn nhiều vướng
mắc cần giải quyết.
5
Với những lý do trên, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Pháp luật điều chỉnh về cơ
cấu tổ chức, quản lý Công ty cổ phần – Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần tư vấn
quản lý dự án VPM Hà Nội” làm đề tài khóa luận của mình. Em hi vọng với đề tài này
có thể nghiên cứu được thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về quản trị
Công ty cổ phần, đồng thời tìm ra hướng giải quyết cho những bất cập còn tồn tại đó.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.
Do luật Doanh nghiệp 2014 mới có hiệu lực một năm trở lại đây, nên các công
trình nghiên cứu còn ít, chủ yếu là các công trình nghiên cứu đối với luật Doanh
nghiệp 2005. Qua đây ta cũng thấy được những bất cập mà luật cũ còn vướng phải và
được điều chỉnh, bổ sung ở luật mới.
Trong đó có một số công trình nghiên cứu như:
Về Luận án, Luận văn: Luận án “Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong
Công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay” của Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Thu Hương,
Học viện Khoa học xã hội. Luận án đã nghiên cứu một cách có hệ thống quan niệm và
nhu cầu bảo vệ cổ đông thiểu số, góp phần làm rõ nhận thức về bảo vệ cổ đông thiểu
số trong CTCP ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị Công ty cổ phần” của tác
giả Hoàng Thị Mai, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong Luận văn, tác giả đã
nghiên cứu làm rõ một số vấn đề chung về quản trị CTCP, cơ sở lý luận và thực tiễn
hoàn thiện về vấn đề cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP ở Việt Nam; phân tích, đánh giá
quy định pháp luật về quản trị CTCP ở Việt Nam và thực tiễn thi hành các quy định
này trên thực tế.
Về các đề tài nghiên cứu khoa học, có thể kể đến một số đề tài như: “giải pháp
nâng cao năng lực giám sát hoạt động tài chính của doanh nghiệp nhà nước sau cổ
phần hóa” của TS. Nguyễn Tuấn Phương thực hiện từ 2010 – 2012. Công trình nghiên
cứu đã phân tích về tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hóa. Đồng thời, cũng đánh giá năng lực giám sát hoạt động tài chính của các doanh
nghiệp đó. Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng, tác giả cũng đã đề xuất giải
pháp để giải quyết thực trạng đó.
Về bài đăng trên tạp chí:Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so sánh về công
ty cổ phần theo Luật công ty Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp Việt Nam , Tạp chí khoa
học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25(2009), tr. 87-93. Bài báo đã tập trung làm
rõ một số vấn đề về quyền của cổ đông và tổ chức nội bộ CTCP từ góc độ so sánh, đối
chiếu Luật công ty Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp Việt Nam; từ đó tìm ra sự tương
6
đồng và khác biệt trong tổ chức nội bộ công ty cổ phần ở Nhật Bản và Việt Nam để có
định hướng khắc phục những bất cập còn tồn tai trong hoạt động của các tổ chức nội
bộ của CTCP ở Việt Nam.
Các công trình, bài báo trên đây đã đề cập đến một số khía cạnh và mức độ
khác nhau về tổ chức và quản lý trong công ty cổ phần. Tuy nhiên chưa có công trình
nào đề cập đến thực trạng tổ chức và quản lý trong công ty cổ phần, những hạn chế và
giải pháp để hoàn hiện pháp luật về tổ chức và quản lý trong công ty cổ phần. Đây
cũng là vấn đề được đặt ra cho bài nghiên cứu. Đề tài của em sẽ kế thừa có chọn lọc
những công trình, bài báo trên, đồng thời sẽ nghiên cứu đầy đủ về cơ cấu tổ chức, quản
lý CTCP và thực tiễn thực hiện tại CTCP tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
- Phân tích khái niệm, đặc điểm của CTCP, quản lý CTCP
- Trên cơ sở quy định pháp luật điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP
- Đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức, quản lý trong CTCP theo quy định của
pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại các doanh nghiệp. Liên hệ với công ty cổ
phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý CTCP.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu các quy định pháp luật về cơ cấu
tổ chức, quản lý của CTCP gồm số lượng thành viên; quyền, nghĩa vụ; thẩm quyền của
các cơ quan quyền lực trong công ty.. Bên cạnh đó, khóa luận cũng tập trung nghiên
cứu thực trạng thực hiện pháp luật về các vấn đề trên, phân tích những bất cập trong
quy định của luật và thực tiễn thực hiện.Từ đó đề xuất hướng giải quyết hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả của pháp luật về tổ chức, quản lý của CTCP.
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài: tiếp cận vấn đề từ lý luận đến thực tiễn về
tổ chức, quản lý CTCP, từ đó có căn cứ để xác định thực trạng tổ chức, quản lý CTCP
trong thực tiễn, tìm ra bất cập và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật trong lĩnh vực trên. Xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực tiễn đó, khóa luận
đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu và hệ thống cơ sở lý luận điều chỉnh về CTCP, cơ cấu tổ
chức, quản lý CTCP
7
Thứ hai, chỉ ra thực trạng pháp luật về cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP tại Việt
Nam, nghiên cứu điển hình ở CTCP tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội. Phân tích các
quy định của pháp luật về vấn đề cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP và đánh giá tác động
của chúng trong thực tiễn.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng, đề xuất một số giải pháp nhẳm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP.
Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Về thời gian: khóa luận sẽ nghiên cứu sơ qua về cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP
khi thực thi luật Doanh nghiệp 2005, sau đó sẽ phân tích rõ hơn khi luật Doanh nghiệp
2014 được ban hành và các văn bản hướng dẫn khác. Đồng thời có sự so sánh giữa luật
Doanh nghiệp 2005 với luật Doanh nghiệp 2014
Về không gian: khóa luận tập trung làm rõ các quy định của pháp luật về quản trị
CTCP ở Việt Nam, nghiên cứu điển hình tại Công ty cổ phần VPM Hà Nội
Về nguồn tư liệu: luật Doanh nghiệp 2005, luật Doanh nghiệp 2014, nghị định
96/2015/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật Doanh nghiệp 2014,
… và một số luật khác có liên quan
Có rất nhiều khái niệm cũng như cách tiếp cận về cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP.
Tuy nhiên, trong phạm vi bài khóa luận sẽ chỉ tìm hiểu về cơ cấu tổ chức, quản lý
CTCP theo quy định của pháp luật dưới góc độ là quản lý nội bộ của CTCP tức là cách
thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong công ty và mối quan hệ giữa các cơ quan đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài khóa luận sử dụng cả dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu sơ cấp được
thu thập từ các quy định trong các văn bản Luật và văn bản dưới Luật, được trích từ
trang web chính thức của Chính phủ và các sách Luật đã được xuất bản. Ngoài ra, các
dữ liệu thứ cấp còn được thu thập được từ các bài luận văn, bài báo cáo, bài viết, tạp
chí có uy tín.
Chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp các quy định của
pháp luật về cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP. Đồng thời cũng nghiên cứu các cơ sở ban
hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
Chương 2 không chỉ sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp các quy phạm
8
pháp luật điều chỉnh cơ cấu tổ chức, quản lý CTCP, mà còn sử dụng phương pháp phân
tích trên cơ sở các số liệu thu thập được liên quan đến vấn đề quản trị công ty cổ phần.
Từ việc phân tích, thống kê các dữ liệu, số liệu nhằm rút ra thực trạng thực hiện pháp
luật quản trị CTCP. Khóa luận đã sử dụng phương pháp thống kê thường để rút ra thực
trạng thi hành, áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này. Ngoài ra, trong chương 2 cũng sử
dụng cả phương pháp so sánh đối chiếu các quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005
với Luật Doanh nghiệp 2014, đồng thời cũng so sánh về quá trình thực hiện pháp luật
so với các quy định của Luật.
Chương 3 sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu định tính để đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quản trị công ty cổ phần.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận tốt
nghiệp bao gồm 3 chương:
Chương 1 - Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh công ty cổ phần và cơ cấu tổ
chức, quản lý trong công ty cổ phần.
Chương 2 - Thực trạng quy định pháp luật điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, quản lý
công ty cổ phần – Thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM
Hà Nội
Chương 3 - Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cơ cấu tổ chức, quản
lý công ty cổ phần.
9
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÔNG TY
CỔ PHẦN VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC, QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần và cơ cấu tổ chức, quản lý trong công ty
cổ phần
1.1.1. Công ty cổ phần
1.1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần
Vào đầu thế kỷ XVII và đến nửa sau thế kỷ XIX, nhiều phát minh mới xuất hiện
đã giúp các nước phương Tây chuyển từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng.
Thêm vào đó là sự phát triển của quan hệ tín dụng. Kết quả là sự ra đời của một hình
thức kinh tế mới, đó là công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một xí nghiệp mà vốn của
nó do nhiều người tham gia góp dưới hình thức mua cổ phiếu. Công ty cổ phần là sản
phẩm tất yếu của quá trình xã hội hoá về kinh tế xã hội và cũng là sản phẩm tất yếu
của quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất.
Cổ phiếu của công ty cổ phần là một loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho cổ
đông được quyền lĩnh một phần thu nhập từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty thông qua lợi tức cổ phiếu (thu nhập từ cổ phiếu). Người chủ sở hữu cổ phiếu
là cổ đông, các cổ đông là chủ của công ty và họ có quyền tham dự các đại hội cổ
đông, hưởng lợi tức cổ phiếu, chuyển nhượng cổ phần, đầu phiếu.
Như vậy, công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu khỏi quá
trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng. từ đó, nó tạo nên
một hình thái xã hội hoá sở hữu giữa một bên là đông đảo quần chúng với một bên là
tầng lớp các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho các kế
hoạch kinh doanh quy mô lớn. Những người đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phần
không trực tiếp đứng ra kinh doanh mà uỷ thác cho bộ máy quản lý của công ty. Trong
đó, Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị là hai tổ chức chính đại diện cho quyền sở
hữu của các cổ đông trong công ty, quyền sở hữu tối cao thuộc về Đại hội cổ đông[1].
Luật doanh nghiệp hiện hành có hiệu lực 01/7/2015 đưa ra khái niệm cho công ty
cổ phần ở Điều 110, theo đó:
1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
10
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không
hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật này.
2. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
3. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn.
Như vậy, khái niệm công ty cổ phần đưa ra trong Luật doanh nghiệp 2014 được
xem là đầy đủ và chi tiết nhất, khái quát được những đặc trưng cơ bản của CTCP.
1.1.1.2. Đặc điểm của Công ty cổ phần
Công ty cổ phần có những đặc điểm cơ bản, dựa vào đó ta có thể phân biệt với
các loại hình công ty khác.
a. Về cổ đông
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được
chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông
công ty cổ phần.
Luật Doanh nghiệp 2014 không giới hạn các cổ đông của công ty cổ phần mà chỉ
quy định số cổ đông tối thiểu ở điểm b, khoản 1, Điều 110: “… số lượng cổ đông tối
thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa”, Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2014
cũng quy định các cá nhân, tổ chức không được tham gia vào công ty cổ phần tại
khoản 2, khoản 3 Điều 18:
2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp
tại Việt Nam:…
3. Tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ
trường hợp sau đây:…
Quyền sở hữu cổ phần là căn cứ xác lập tư cách cổ đông của các thành viên. Cổ đông
của công ty cổ phần thường rất lớn về số lượng và không quen biết nhau. Là loại hình đặc
trưng cho công ty đối vốn nên công ty cổ phần có sự liên kết của nhiều thành viên.
11
b. Về vốn
Theo Luật Doanh nghiệp 2014 tại điều 111 khoản 1 đưa ra khái niệm về vốn của
công ty cổ phần: “Vốn điều lệ công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán
các loại. Vốn điều lệ của công ty cổ phần tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp
là tổng giá trị mệnh giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua và được ghi trong Điều
lệ công ty.”
Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu. Một cổ
phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc góp vốn vào công ty
được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần. Các cổ
đông của công ty có thể là các cá nhân hoặc các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội có tư
cách pháp nhân. Nhưng điều quan trọng là các cá nhân hay các tổ chức tham gia góp
vốn phải độc lập về vốn, nghĩa là họ phải có quyền tự quyết định đối với phần vốn của
mình, họ phải là người chủ sở hữu phần vốn đó. Nói cách khác họ phải là những người
sở hữu vốn độc lập.
Ngoài ra ở công ty cổ phần, các cổ đông được quyền tự do chuyển nhượng cổ
phàn của mình cho người khác, trừ cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần phổ thông
của các sáng lập viên trong ba năm đầu kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận
đăng kí kinh doanh theo khoản 3, khoản 4 Điều 119 Luật Doanh nghiệp 2014.
c. Về tư cách pháp lý
Tư cách pháp nhân là tư cách pháp lý được Nhà nước công nhận cho một tổ chức
(nhóm người) có khả tồn tại và hoạt động độc lập trước pháp luật. Tổ chức này được
gọi là pháp nhân (là con người trên phương diện pháp lý chứ không phải con người
thực thể). Khác với thể nhân, không phải tổ chức nào, tập thể nào cũng đều được Nhà
nước công nhận tư cách pháp nhân. Theo điều 84 Bộ Luật Dân Sự năm 2005, một tổ
chức muốn được công nhận tư cách pháp nhân phải hội dủ các điều kiện cơ bản sau:
1. Được thành lập hợp pháp
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ xã hội một cách độc lập.
12
Một pháp nhân luôn luôn đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực
hành vi.
Như vậy, CTCP có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam .
d. Về tổ chức và quản lý
Theo Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về cơ cấu tổ chức của công ty
cổ phần như sau:
1. Công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một
trong hai mô hình sau đây, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định
khác:
a) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ
chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban
kiểm soát;
b) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc
lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập
thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều
hành công ty.
2. Trường hợp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng
quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của
công ty; trường hợp Điều lệ không có quy định khác thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là
người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp có hơn một người đại diện theo
pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương
nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức, quản lý trong công ty cổ phần
1.1.2.1. Khái niệm cơ cấu tổ chức, quản lý trong công ty cổ phần
Dưới góc độ luật học, có thể đưa ra khái niệm: “Tổ chức và quản lý công ty là hệ
thống các thiết chế, theo đó việc tổ chức quản lý công ty được thực hiện trên cơ sở
phân định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các chủ sở hữu, người quản lý, những người
có lợi ích liên quan, và các phương pháp áp dụng theo một trình tự thủ tục nhằm đảm
bảo tổ chức và hoạt động công ty một cách hiệu quả nhất”. Tổ chức, quản lý trong
13
công ty cổ phần là một bộ phận của quản lý tổ chức của công ty. Từ đó, ta có thể đưa
ra định nghĩa: “Quản lý và tổ chức công ty cổ phần là một hệ thống các cơ chế mà các
chủ sở hữu đặt ra trên cơ sở các quy định vè chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng
bộ phận trong bộ máy quản lý, nguyên tắc hoạt động và thủ tục thông qua các quyết
định”. Trong đó bao gồm hai công việc là quản lý công ty cổ phần và tổ chức công ty
cổ phần. Việc quản lý và tổ chức công ty cổ phần bao gồm rất nhiều nội dung, trong đó
có thể kể đến các nội dung cơ bản sau:
-
Cơ cấu bộ máy quản lý nội bộ công ty cổ phần.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy quản lý nội bộ
-
công ty cổ phần.
Nguyên tắc hoạt động và thủ tục thông qua các quyết định.
1.1.2.2. Khái quát về cơ cấu tổ chức, quản lý trong công ty cổ phần theo quy định của
pháp luật Việt Nam
Theo Điều 95 Luật Doanh nghiệp 2005 về cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần:
“Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc; đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ
đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát.”
Ba thành phần chính của mô hình này bắt buộc phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội
đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc tức là Ban kiểm soát có thể có hoặc có
thể không trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo Luật này.
Về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, theo Luật Doanh nghiệp 2005,
tại điều 95 có quy định: “Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty.
Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp
vắng mặt trên ba mươi ngày ở Việt Nam thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người
khác theo quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người
đại diện theo pháp luật của công ty.”
Khác với Luật Doanh nghiệp 2005 chỉ có 1 mô hình, Luật Doanh nghiệp 2014 có
2 mô hình tổ chức và doanh nghiệp có thể lựa chọn tổ chức và quản lý theo một trong
hai mô hình được quy định tại Khoản 1 theo Điều 134 quy định về cơ cấu tổ chức quản
lý của công ty cổ phần.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, quản lý
14
công ty cổ phần
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, quản lý trong
công ty cổ phần
Bối cảnh kinh tế - xã hội: Việt Nam bắt đầu thực hiện đổi mới từ nửa cuối thập
niên 1980, với mong muốn xóa bỏ dần cơ cấu bao cấp, quan liêu của nền kinh tế kế
hoạch hóa, phát triển nền kinh tế năng động và hiện đại hơn. Một chủ trương lớn của
Chính phủ Việt Nam là hướng đến tự do hóa thương mại và thúc đẩy kinh tế tư nhân.
Đặc biệt là vào thời điểm Việt Nam đang tích cực đàm phán để gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO thì một trong những yêu cầu được đặt ra là phải tạo ra môi
trường pháp lý lành mạnh, đảm bảo cho các chủ thể được tự do kinh doanh. Trước yêu
cầu đó, Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời và hiện nay là Luật Doanh nghiệp 2014 đã tạo
ra một “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động, công ty không chỉ chịu sự điều chỉnh của văn bản
pháp luật có liên quan mà còn chịu sự điều chỉnh của Điều lệ công ty. Đối với việc tổ
chức, quản lý công ty cổ phần cũng vậy. Văn bản quy phạm pháp luật đưa ra các quy
định chung nhất về tổ chức, quản lý CTCP, còn Điều lệ công ty được coi là sự cụ thể
hóa quy định của Luật vào trong điều kiện thực tế của công ty, do người sáng lập công
ty và các cổ đông thống nhất soạn thảo, nội dung trong Điều lệ công ty không được
trái với quy định của Luật.
Các văn bản Luật và dưới Luật do Nhà nước CHXHCN Việt Nam ban hành:
Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2014: là nguồn luật chủ yếu điều chỉnh việc thành
lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của CTCP. Luật Doanh nghiệp 2014 có 213 điều
khoản, trong đó có 61 điều khoản quy định riêng về CTCP, giúp cho CTCP có định
hướng chính xác trong quá trình hoạt động
Các văn bản Luật chuyên ngành: Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Luật Chứng
khoán 2010, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010…điều chỉnh cụ thể tùy thuộc vào ngành
nghề kinh doanh của công ty. Các luật chuyên ngành này sẽ được áp dụng khi có sự khác
nhau giữa các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và luật này về việc quản lý CTCP.
Nghị định 96/2015/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
doanh nghiệp 2014
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về quản lý Công ty cổ phần
15
1.2.2.1. Quy định pháp luật về Đại hội đồng cổ đông
Theo khoản 1 Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2014: “Đại hội đồng cổ đông gồm
tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ
phần”
Quyền và nghĩa vụ của ĐHĐCĐ được quy định tại khoản 2 Điều 135 Luật Doanh
nghiệp 2014
Quy định về thẩm quyền triệu tập và điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ tại Điều
136 luật Doanh nghiệp 2014
1.2.2.2. Quy định pháp luật về Hội đồng quản trị
Theo khoản 1 Điều 149 Luật Doanh nghiệp 2014: “Hội đồng quản trị là cơ quan
quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông”.
Quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐQT: Được quy định cụ thể tại Điều 152,
Điều 160 Luật Doanh nghiệp 2014
•
Quyết định số phận của công ty: thông qua định hướng phát triển của công ty; quyết
định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; quyết định tổ chức lại, giải thể công ty.
•
Quyết định tài chính của công ty: quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng
loại được quyền chào bán, quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần, trừ
trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác; quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có
giá trị bằng hoặc lớn hơn 35%…; quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán
của mỗi loại.
•
Quyết định lãnh đạo công ty: bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên HĐQT, thành
viên BKS; xem xét và xử lý các vi phạm của HĐQT, BKS gây thiệt hại cho công ty và
cổ đông công ty.
Về tiêu chuẩn và số lượng thành viên của HĐQT được quy định tại Điều 151
Luật Doanh nghiệp 2014
1.2.2.3. Quy định pháp luật về Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2014 đã có quy định cụ thể về GĐ/TGĐ. Theo đó,
GĐ/TGĐ được HĐQT bổ nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức, họ có thể là thành viên
của HĐQT hoặc là người khác do HĐQT thuê. GĐ/TGĐ là người điều hành công việc
kinh doanh hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu
16
trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và
nhiệm vụ được giao.Nhiệm kỳ của GĐ/TGĐ không quá năm năm và có thể được bổ
nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế, GĐ/TGĐ không được đồng thời là
GĐ/TGĐ của doanh nghiệp khác.
Quyền và nhiệm vụ của GĐ/TGĐ: GĐ/TGĐ có hai nhóm quyền chủ yếu là
quyền kiến nghị lên HĐQT và quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc
kinh doanh hàng ngày của công ty mà không cần quyết định của HĐQT.
1.2.2.4. Ban kiểm soát
Theo khoản 1 Điều 163 Luật Doanh nghiệp 2014 thì BKS do ĐHĐCĐ bầu ra, có
từ ba đến năm thành viên, nhiệm kỳ không quá năm năm và có thể bầu lại với nhiệm
kỳ không hạn chế. BKS phải có hơn một nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam.
Quyền và nhiệm vụ của BKS: được quy định cụ thể tại Điều 165 Luật Doanh
nghiệp 2014
BKS có một số quyền và nhiệm vụ chính như: giám sát HĐQT, GĐ/TGĐ trong
việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ trong thực hiện các
nhiệm vụ được giao; kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn
trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán,
thống kê và lập báo cáo tài chính; thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài
chính hằng năm và sáu tháng của công ty, …
1.3. Một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật về cơ cấu tổ chức, quản lý công ty cổ
phần
Cũng giống như nguyên tắc đối với pháp luật nói chung, pháp luật về quản lý
CTCP cũng phải đảm bảo bốn nguyên tắc cơ bản: đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, khả
thi và minh bạch.
Tính hợp pháp thể hiện ở việc các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) điều
chỉnh quản lý CTCP phải phù hợp với Hiến pháp, Luật và các văn bản QPPL của cơ
quan nhà nước cấp trên. Đối với quản lý CTCP, Luật điều chỉnh trực tiếp là Luật
Doanh nghiệp phải đảm bảo các quy định phải tuân theo đúng Hiến pháp, các Nghị
định có liên quan phải đảm bảo tuân thủ theo quy định của Hiến pháp và Luật Doanh
nghiệp cũng như các văn bản chuyên ngành có liên quan.
Tính hợp lý thể hiện sự phù hợp của nội dung văn bản Luật với đường lối, chủ
17
trương, chính sách của Đảng; với điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội của địa phương
và với các công cụ điều chỉnh khác như: đạo đức, phong tục tập quán; nội dung văn
bản QPPL còn phải đảm bảo hài hòa lợi ích của toàn xã hội. Chính sự phù hợp của văn
bản QPPL với các yếu tố nói trên là điều kiện quan trọng để đảm bảo văn bản được
chấp nhậ trong thực tiễn. Một trong những yêu cầu quan trọng nhất của các văn bản
QPPL chính là tính khả thi.
Tính khả thi của các văn bản QPPL thể hiện ở việc Luật phải có khả năng thực
hiện được trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện tại, có khả năng đi vào cuộc sống. Để
đảm bảo được yêu cầu đó đòi hỏi các văn bản QPPL không chỉ điều chỉnh vấn đề hiện
tại mà còn phải đáp ứng được tính dự báo cho tương lai và đảm bảo tính ổn định. Do
vậy, làm thế nào để ban hành văn bản QPPL có tính khả thi là vấn đề đặt ra với các cơ
quan chức năng.
Tính minh bạch trước hết là nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của xã hội, thể hiện
quyền của cổ đông trong việc tham gia quản lý công ty. Minh bạch cũng là một giải
pháp rất quan trọng để khắc phục tệ quan liêu tham nhũng, làm trong sạch bộ máy
quản lý. Minh bạch trong quản lý cũng là điều kiện không thể thiếu để bộ máy công ty
tiếp thu trí tuệ của cổ đông đóng góp cho các hoạt động quản lý. Minh bạch cũng là
một yêu cầu cần thiết để thành công trong hội nhập quốc tế
18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ
QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN – THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN TƯ VẤN QUẢN LÝ DỰ ÁN VPM – HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội và các nhân
tố ảnh hưởng đến pháp luật về quản lý tại công tycổ phần tư vấn quản lý dự án
VPM Hà Nội
2.1.1. Tổng quan về công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội
Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội (VPM)Tiền thân là “ Trung
tâm tư vấn Quản lý chất lượng xây dựng” trực thuộc Công ty cổ phần Tư vấn thiết kế
Vinaconex Xuân Mai. Sau một thời gian xây dựng và phát triển, để phù hợp với tình
hình thực tế, Trung tâm tư vấn quản lý chất lượng xây dựng phát triển thành Công ty
cổ phần Tư vấn dự án Vinaconex (VPM); sau đó được đổi tên thành Công ty cổ phần
Tư vấn quản lý dự án VPM – Hà Nội. Được thành lập theo GCNĐKKD số:
0104138877 cấp giấy phép ngày 31/08/2009 tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà
Nội với số vốn điều lệ là 20.000.000.000 đồng (hai mươi tỷ đồng). Tập Đoàn có trụ sở
chính tại tầng 5, tòa nhà 25T1, Lô N05, KĐT Đông Nam Trần Duy Hưng, Phường
Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, TP Hà Nội.
Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM được thành lập với chức năng như Tư vấn
giám sát, tư vấn thiết kế và thi công xây lắp của các loại hình xây lắp như dân dụng,
công nghiệp và kết cấu hạ tầng,…
Nhiệm vụ:
-
Lập ra các kế hoặch tư vấn để quản lý các dự án, thi công công trình.
Lập và tổ chức thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ
thuật của công ty nhằm phát triển năng lực sản xuất, đáp ứng nhiệm vụ và mục
-
tiêu đã đề ra của công ty.
Thực hiện đúng chế độ quản lý, chế độ tiền lương, tiền thưởng theo quy định
của Nhà nước. Hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế và các khoản nộp khác. Có biện
-
pháp quản lý, sử dụng lao động, nguồn vốn, trang thiết bị một cách hợp lý.
Tổ chức, quản lý hợp lý về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân
viên sao cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quy mô của công ty trong từng
giai đoạn cụ thể.
19
VPM có tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả, đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt huyết, có
trình độ chuyên môn trong lĩnh vực hoạt động. Dù là một công ty chưa thực sự lớn,
quá trình hoạt động chưa lâu nhưng thông qua các dự án công ty đã và đang triển khai
thì công ty đều được khách hàng đánh giá cao, tin tưởng và tiếp tục giao thực hiện các
công tác tư vấn quản lý dự án, tư vấn giám sát và thi công xây dựng
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức, quản lý tại công ty cổ phần tư
vấn quản lý dự án VPM Hà Nội
- Chính trị, pháp luật: các yếu tố thuộc môi trường chính trị và luật pháp tác động
mạnh mẽ đến việc hình thành và khai thác cơ hội kinh doanh và thực hiện mục tiêu
của doanh nghiệp, ổn định chính trị là tiền đề quan trọng, cho hoạt động kinh doanh,
thay đổi về chính trị có thể gây ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp này hoặc
kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp, tránh tình trạng gian lận, buôn lậu… Mức độ
ổn định về chính trị và luật pháp của một quốc gia cho phép doanh nghiệp có thể đánh
giá được mức độ rủi ro và ảnh hưởng của nó đến doanh nghiệp như thế nào, doanh
nghiệp theo đó có thể điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức, quản lý của công ty cho phù hợp
với điều kiện chính trị, pháp luật.
- Điều lệ công ty: Trong quá trình hoạt động, công ty không chỉ chịu sự điều
chỉnh của văn bản pháp luật có liên quan mà còn chịu sự điều chỉnh của Điều lệ công
ty. Đối với việc quản trị công ty cổ phần cũng vậy. Văn bản quy phạm pháp luật đưa ra
các quy định chung nhất về quản trị CTCP, còn Điều lệ công ty được coi là sự cụ thể
hóa quy định của Luật vào trong điều kiện thực tế của công ty, do người sáng lập công
ty và các cổ đông thống nhất soạn thảo, nội dung trong Điều lệ công ty không được
trái với quy định của Luật.
Điều lệ có thể hiểu là bản thỏa thuận giữa những người sáng lập công ty với các
cổ đông và giữa các cổ đông với nhau cùng được soạn căn cứ trên những khuôn mẫu
chung của luật pháp để ấn định cách tạo lập, hoạt động và giải thể của doanh nghiệp.
Theo Điều 25 Luật doanh nghiệp 2014 quy định về nội dung Điều lệ công ty gồm:
“Tên, địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện… các nội dung khác do
thành viên, cổ đông thỏa thuận nhưng không được trái với quy định của pháp luật”
- Trình độ, năng lực, ý thức của các thành viên trong công ty: Về phía thành viên
Công ty cổ phần, đặc biệt là những người lãnh đạo công ty (chủ tịch HĐQT, TGĐ/GĐ).
20
Người lãnh đạo có trình độ cao không chỉ lãnh đạo công ty kinh doanh có hiệu quả mà
còn đảm bảo cho công ty luôn thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Các thành viên
trong công ty có ý thức, trách nhiệm trong công việc cũng là tiền đề để những người lãnh
đạo quản lý dễ dàng hơn, giúp công ty ổn định trong cơ cấu tổ chức.
2.2. Thực trạng quy định pháp luật điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, quản lý Công ty
cổ phần
2.1.1. Các quy định pháp luật về Đại hội đồng cổ đông:
Công ty cổ phần là một trong những loại hình doanh nghiệp rất phổ biến ở Việt
Nam. Với sự không giới hạn về số lượng người tham gia đã tạo nên những con số lớn
về thành viên cho công ty cổ phần. Để làm rõ hơn thì Luật Doanh nghiệp 2014 đã có
những quy định cụ thể về Đại hội đồng cổ đông cụ thể là từ Điều 135 đến điều 148.
Đại hội đồng cổ đông được quy định tại Điều 135 của Luật Doanh nghiệp 2014 như
sau:
1. Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan
quyết định cao nhất của công ty cổ phần.
2. Đại hội đồng cổ đông có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Thông qua định hướng phát triển của công ty;
b) Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào
bán; quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần;
c) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên;
d) Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng
giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công
ty không quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác;
đ) Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty;
e) Thông qua báo cáo tài chính hằng năm;
g) Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại;
h) Xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt
hại cho công ty và cổ đông công ty;
i) Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty;
k) Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
21
Theo điều này, Luật Doanh nghiệp 2014 đã khẳng định rõ được quyền của Đại
hội đồng cổ đông bao gồm quyền biểu quyết, là nơi đưa ra quyết định cao nhất, thông
qua các định hướng phát triển công ty, bầu và miễn nhiệm các thành viên trong Hội
đồng quản trị cũng như kiểm soát viên, ra các quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có
giá trị lớn hơn hoặc bằng 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính,
quyết định và bổ sung các điều lệ trong công ty, thông qua các báo cáo… đi kèm với
quyền cũng là nghĩa vụ đối với các Đại hội đồng cổ đông. Đại hội đồng cổ đông cần
đưa ra những quyết định sáng suốt cũng như tuân thủ đúng pháp luật đã đề ra.
2.1.1.1 Chuẩn bị và thẩm quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông:
Bởi vì đại hội đồng cổ đông là nơi đưa ra những quyết định quan trọng nhất của
công ty nên Đại hội đồng cổ đông ngoài những cuộc họp thường niên diễn ra một năm
một lần thì còn có những cuộc họp bất thường. điều này được quy định cụ thể tại
Khoản 1 Điều 136 của Luật Doanh nghiệp 2014: “Đại hội đồng cổ đông họp thường
niên mỗi năm một lần. Ngoài cuộc họp thường niên, Đại hội đồng cổ đông có thể họp
bất thường. Địa điểm họp Đại hội đồng cổ đông phải ở trên lãnh thổ Việt Nam.
Trường hợp cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tổ chức đồng thời ở nhiều địa điểm
khác nhau thì địa điểm họp Đại hội đồng cổ đông được xác định là nơi chủ tọa tham
dự họp.”
Việc tổ chức cuộc họp của công ty cổ phần, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bổ sung
quy định cuộc họp Đại hội đồng cổ đông có thể được tổ chức tại nhiều địa điểm khác
nhau( trên lãnh thổ Việt Nam) và nơi chủ tọa tham dự họp được xác định địa điểm họp
Đại hội đồng cổ đông. Các vấn đề được thông qua trong cuộc họp Đại hội đồng cổ
đông thường niên được thảo luận và thông qua các nội dung về việc Đại hội đồng cổ
đông sẽ thông qua kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; báo cáo tự đánh giá kết
quả hoạt động của Ban kiểm soát và của từng Kiểm soát viên…
Khi Hội đồng quản trị không triệu tập họp bất thường đại hội đồng cổ đông thì
Chủ tịch hội đồng quản trị sẽ phải chịu trách nhiệm và bồi thường thiệt hại phát sinh
của công ty theo khoản 4 điều này. Tuy nhiên với quy định Luật Doanh nghiệp 2014
có hiệu lực từ 01/07/2015 thì Chủ tịch hội đồng quản trị và các thành viên Hội đồng
quản trị đều phải chịu trách nhiệm khi không triệu tập cuộc họp bất thường theo đúng
quy định của pháp luật. Trường hợp Hội đồng quản trị không triệu tập họp (theo
22
Khoản 5 Điều 136 Luật Doanh nghiệp 2014) thì Ban kiểm soát sẽ thay thế Hội đồng
quản trị thực hiện việc triệu tập. Ban kiểm soát chịu trách nhiệm và bồi thường thiệt
hại phát sinh khi không thực hiện việc triệu tập, mà không phải là Trưởng Ban kiểm
soát phải chịu trách nhiệm như quy định Luật Doanh nghiệp 2005 trước đây. Công
việc của người triệu tập, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bổ sung thêm công việc dự thảo
nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông theo nội dung dự kiến của cuộc họp; danh sách
và thông tin chi tiết của các ứng cử viên trong trường hợp bầu thành viên Hội đồng
quản trị và Kiểm soát viên, xác định thời gian địa điểm cũng như gửi giấy mời đến
từng cổ đông có quyền dự họp. Mời họp Đại hội đồng cổ đông, Luật Doanh nghiệp
2014 quy định thời hạn gửi thông báo mời họp đến tất cả cổ đông trong danh sách, cổ
đông có quyền dự họp chậm nhất 10 ngày khai mạc nếu Điều lệ không quy định thời
hạn dài hơn, thay vì 7 ngày làm việc như quy định của Luật Doanh nghiệp 2005. Việc
thông báo này sẽ được gửi bằng các phương thức bảo đảm địa chỉ liên lạc của cổ đông,
trường hợp doanh nghiệp có trang thông tin điện tử thì việc gửi tài liệu họp theo thông
báo mời họp có thể thay thế bằng việc đăng tải lên trang thông tin điện tử của công ty.
Về quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông, Luật Doanh nghiệp 2014 đã thêm một số hình
thức khác được coi là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông như bỏ
phiếu điện tử, thông qua thư fax thay vì phải uỷ quyền cho người đại diện tham dự họp
Đại hội đồng cổ đông như Luật Doanh nghiệp 2005.
2.1.1.2 Tiến hành cuộc họp Đại hội đồng cổ đông:
Về điều kiện tiến hành cuộc họp, Luật Doanh Nghiệp 2014 quy định tại Điều 141
như sau:
Điều 141. Điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông
1. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại
diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định.
2. Trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành theo quy định
tại khoản 1 Điều này thì được triệu tập họp lần thứ hai trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày dự định họp lần thứ nhất, nếu Điều lệ công ty không quy định khác. Cuộc họp
của Đại hội đồng cổ đông triệu tập lần thứ hai được tiến hành khi có số cổ đông dự
họp đại diện ít nhất 33% tổng số phiếu biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy
định.
23
3. Trường hợp cuộc họp triệu tập lần thứ hai không đủ điều kiện tiến hành theo
quy định tại khoản 2 Điều này thì được triệu tập họp lần thứ ba trong thời hạn 20
ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ hai, nếu Điều lệ công ty không quy định
khác. Trường hợp này, cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông được tiến hành không phụ
thuộc vào tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp.
4. Chỉ có Đại hội đồng cổ đông mới có quyền quyết định thay đổi chương trình
họp đã được gửi kèm theo thông báo mời họp theo quy định tại Điều 139 của Luật
này.
Cuộc họp sẽ được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% thay
vì 65% tổng số phiếu biểu quyết của Luật Doanh nghiệp 2005. Ngoài ra, cuộc họp
triệu tập lần hai (khi lần thứ nhất không đủ điều kiện) được tiến hành khi có số cổ
đông dự họp đại diện ít nhất 33% thay vì 51% tổng số phiếu biểu quyết theo Luật
Doanh nghiệp 2005 trước đây. Cuộc triệu tập lần hai không thành sẽ được triệu tập họp
lần 3 trong thời hạn 20 ngày kể từ lần thứ hai, lần này cũng sẽ không phụ thuộc vào
tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp.
Thể thức tiến hành họp và biểu quyết (Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2014) khi
Chủ tịch Hội đồng quản trị vắng mặt hoặc tạm thời mất khả năng làm việc, các thành
viên Hội đồng quản trị còn lại được bầu một người trong số họ làm Chủ tọa cuộc họp
theo nguyên tắc đa số. Trường hợp không bầu được người làm Chủ tọa thì Trưởng Ban
kiểm soát sẽ điều khiển Đại hội cổ đông bầu chủ tọa thay vì thành viên Hội đồng quản
trị có chức vụ cao nhất điều khiển theo quy định Luật Doanh nghiệp 2005. Luật Doanh
nghiệp 2014 quy định theo đề nghị của chủ tọa cuộc họp, Đại hội đồng cổ đông bầu
một hoặc một số người vào ban kiểm phiếu chứ không giới hạn về số lượng như trước
đây. Ngoài ra, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 bổ sung thêm trường hợp
chủ tọa có quyền hoãn cuộc họp Đại hội đồng cổ đông khi các phương tiện thông tin
tại địa điểm họp không đảm bảo cho các cổ đông dự họp tham gia, thảo luận và biểu
quyết (Điều 141 Luật doanh nghiệp 2014).
24
2.1.1.3 Thông qua nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông:
Thông qua nghị quyết bằng hình thức biểu quyết hoặc lấy ý kiến bằng văn bản,
Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định, đối với các quyết định đầu tư hoặc bán số tài
sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài
chính gần nhất của công ty, hoặc một tỷ lệ, giá trị khác nhỏ hơn do Điều lệ công ty quy
định, sẽ được Đại hội đồng cổ đông thông qua bằng hình thức biểu quyết. Trong khi đó
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định việc thông qua nghị quyết bằng hình thức biểu
quyết được áp dụng khi quyết định đầu tư, tài sản bị bán có giá trị lớn hơn hoặc bằng
50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, hoặc
một tỷ lệ, giá trị khác do Điều lệ công ty quy định đối với các quyết định đầu tư hoặc
bán tài sản này.
Điều kiện để nghị quyết được thông qua được tách hẳn ra làm Điều 144 của Luật
Doanh nghiệp 2014 thay vì gộp hình thức với điều kiện của Điều 104 Luật Doanh
nghiệp 2005 nghị quyết ở một số nội dung cụ thể tại Khoản 1 Điều 144 Luật Doanh
nghiệp 2014 cần 65% số phiếu tán thành (thay vì 75% theo Luật Doanh nghiệp 2005)
còn các nghị quyết còn lại chỉ cần 51% để được thông qua số phiếu tán thành (thay vì
65%). Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2014 còn bổ sung quy định về cách thức xác định
người trúng cử thành viên Hội đồng quản trị hoặc Kiểm soát viên sau khi có kết quả
theo phương thức bầu dồn phiếu. Thời hạn lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản, Hội đồng
quản trị gửi đến tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết phiếu lấy ý kiến, dự thảo nghị
quyết và các tài liệu giải trình chậm nhất 10 ngày trước thời hạn phải gửi lại phiếu lấy
ý kiến. Luật Doanh nghiệp 2014 bổ sung thêm hình thức gửi fax hoặc thư điện tử để cổ
đông gửi phiếu lấy ý kiến đã trả lời đến công ty. Biên bản kiểm phiếu, nội dung biên
bản theo quy định mới của Luật Doanh nghiệp 2014 phải bao gồm thêm phương thức
gửi biểu quyết. Đồng thời, người kiểm phiếu cùng các thành viên Hội đồng quản trị và
người giám sát kiểm phiếu sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm về tính trung thực và
chính xác của biên bản kiểm phiếu. Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép đăng tải biên
bản kiểm phiếu lên trang thông tin điện tử của công ty thay cho việc gửi đến các cổ
đông. Biên bản kiểm phiếu có thể lập bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài đều có hiệu
lực pháp lý như nhau. Nếu có sự khác nhau về nội dung thì bản tiếng Việt có hiệu lực
áp dụng.
25