Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Chủ đề 1: Hãy luận giải các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô. Mối quan hệ của các mục tiêu đó. Liên hệ với thực tế Việt Nam hiện nay, em có nhận xét và kiến nghị gì?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.16 KB, 4 trang )

Chủ đề 1: Hãy luận giải các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ
mô. Mối quan hệ của các mục tiêu đó. Liên hệ với thực tế Việt
Nam hiện nay, em có nhận xét và kiến nghị gì.
Ôn định, tăng trưởng kinh tế và phân phối cân bằng là những mục
tiêu cơ bản được đặt ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế của
một đất nước. Nền kinh tế đang ở đk lạm phát hay suy thoái đều gây
ra tác động không tốt, làm ảnh hưởng đén cuộc sống người dân.Vì
vậy chính phủ phải dùng công cụ là các chính sách kinh tế vĩ mô để
tác động vào nền kinh tế hướng nền kinh tế đến trạng thái ổn
định.Bước sang thế kỉ 21, toàn cầu hóa phát triển sâu rộng và tác
động đến tất cả các nước.Nền kinh tế VN cũng đang bước vào giai
đoạn hội nhập được hưởng những cơ hội to lớn và cũng phải đối mặt
với những thách thức không nhỏ.Vì vậy trong điề kiện hiện nay
những mục tiêu đó càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế nước
ta.Một nền kinh tế ổn định bền vững thì mới có thể phát triển, tăng
trưởng và mới có thể chống lại được nguy cơ đe dọa khi chúng ta gia
nhập kt quốc tế. Kinh tế học vĩ mô là một bộ phận của khoa học kinh
tế nghiên cứu sự vận động và những mối liên hệ kinh tế chủ yếu của
1 đất nc trong phạm vi toàn bộ nèn kinh tế quốc dân của 1 đất nc,
nghĩa là KTHVM nghiên cứu sự lựa trọn của mỗi quốc gia trước các
vấn đề kinh tế cơ bản bao gồm: thất nghiệp, lạm phát, tăng
trưởng,xuất nhập khẩu, sự phân phối nguồn lực và thu nhập giữa
các thành viên trong nền kinh tế. Mục tiêu của KTVM cơ bản là đạt
được sự ổn định trong ngắn hạn, tăng trưởng nhanh trong dài
hạn.phân phối của cải một cách công bằng. Sự ổn định là kết quả
của việc giải quyết những vấn đề kinh tế cấp bách như lạm phát, thất
nghiệp . Tăng trưởng KTđòi hỏi giải quyết các vấn đề dài hạn hơn
lien quan đến sự phát triển KT. Phân phối công bằng là vấn đề nền
KT phải giải quyết thường xuyên để đảm bảo sự ổn định và tăng
trưởng. Chính sách kinh tế vĩ mô là các chính sách kinh tế của chính
phủ nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô và đạt trạng thái toàn dụng


lao động. Hai chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng là chính sách tài
chính và chính sách tiền tệ. Có thể có một số chính sách kinh tế khác
cũng có tác động tới kinh tế vĩ mô, như chính sách thương mại
(quota, thuế quan) song mục đích chính của chúng không phải là ổn
định kinh tế vĩ mô, nên không được coi là chính sách kinh tế vĩ mô.
Chính sách kinh tế vĩ mô còn được gọi là chính sách quản lý tổng
cầu vì nó tác động đến phía cầu của nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa ở
nước ta, có nhiều yêu cầu phải mở giải quyết cùng một lúc: Vừa ổn


định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở rộng giao lưu quan
hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài... Nhu cầu mở rộng lượng
tiền cung ứng (cầu về tiền) ngày càng lớn, dẫn đến xác lập quan hệ
về cung-cầu mới về tiền trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định kinh tế
vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát
triển chung. Ngày nay không ai còn có thể phủ nhận bằng việc điều
chỉnh tiền tệ cho phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế là một trong
những vấn đề thiết yếu mà mà tổ chức của các hệ thống tiền tệ phải
tuân thủ và chính sách tiền tệ phải theo đuổi. CSTT chính là việc
chính phủ và NHTW thay đổi mức cung tiền để tác động vào nền kinh
tế thông qua Nghiệp vụ thị trường mở (mua, bán trái phiếu), lãi xuất
triết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc... để hướng tới lãi suất mong muốn
và đạt được mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế
lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được tăng trưởng kinh
tế. Mục tiêu của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ nhắm vào 2
mục tiêu là là lãi suất và lượng cung tiền. Thông thường, không thể
thực hiện đồng thời 2 mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kì kinh tế ở
tình trạng bình thường, thì mục lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh
tế quá nóng hay quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhắm vào mục tiêu

trực tiếp hơn, đó là lượng cung tiền. Chính sách tài khóa là
gì? CSTK là những nỗ lực của chính phủ nhằm cải thiện thành tựu
kinh tế vĩ mô thông qua việc thay đổi chi tiêu chính phủ và thuê. Đầu
tiên là chi tiêu của chính phủ, khi CP tăng hoặc giảm 1 lượng chi tiêu
một lượng ▲G thì tổng cầu tăng hay giảm một lượng lớn hơn ▲G.
VD như quốc hội quyết định giảm mua sắm các hệ thống vũ khí mới.
Do lượng cầu về hàng hóa và dv thấp hơn tại mọi mức giá, nên
đường tổng cầu dịch chuyển sang bên trái, tức là giảm về lượng cầu.
ngược lại, nếu chính quyền liên bang khởi công xây dựng nhiều
đường cao tốc hơn, kết quả là hàng hóa và dịch vụ cao hơn mọi mức
giá và đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải, tức là tăng về
lượng cầu. Thứ 2 là thuế, khi CP cắt giảm thuế, thì điều đó đã
khuyến khích mọi người tiêu dùng nhiều hơn, do đó đường tổng cầu
dịch chuyển sang phải. Ngược lại, khi CP tăng thuế, mọi người tiêu
dùng ít hơn, và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái (tức đường
tổng cầu giảm). VD khi CP giảm thuế đầu tư, làm tăng lượng cầu về
hàng đầu tư của các doanh nghiệp tại bất kì mức giá nào, ngược lại
nếu cp hủy bỏ chính sách giảm thuế đầu tư sẽ làm giảm đầu tư và
đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang trái, tức lượng cầu sẽ giảm.
CSTK còn ảnh hưởng trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn sẽ
làm tổng cầu về hàng hóa và dv tăng, còn trong dài hạn chính sách tt


sẽ tiết kiệm, đầu tư và tăng cường kt bền vững. Mục tiêu của chính
sách tài khóa là giảm thâm hụt ngân sách nhà nước và tiến tới cân
bằng cán cân thu chi ngân sách, hiệu quả kinh tế và phát triển bền
vững. Mối quan hệ của những mục tiêu đó Chính sách tiền tệ
(CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) là hai công cụ quản lý kinh tế
vĩ mô quan trọng, mỗi chính sách có mục tiêu riêng, nhưng đều cùng
theo đuổi mục tiêu chung là tăng trưởng kinh tế bền vững và có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau. CSTK tác động đến CSTT trước hết qua
kênh tài trợ thâm hụt ngân sách: Nếu thâm hụt ngân sách được tài
trợ từ vay nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán, nếu tài
trợ bằng cách vay từ NHTW thì sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng và
mặt bằng giá cả, nếu thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách
vay từ các NHTM thì nguồn vốn cho vay các khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh sẽ giảm, hạn chế năng lực đầu tư của các khu vực kinh
tế này và ảnh hưởng xấu đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra,
CSTK còn ảnh hưởng đến dòng vốn quốc tế và khả năng của NHTW
trong việc kiểm soát luồng ngoại tệ, nếu chính sách thu chi ngân
sách không hợp lý thì sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả phân bổ
nguồn lực và làm tăng rủi ro liên quan đến dòng vốn quốc tế. CSTT
tác động đến CSTK tùy theo mức độ điều chỉnh các công cụ CSTT,
một CSTT thắt chặt sẽ làm giảm đầu tư, khả năng thu thuế và nguồn
thu ngân sách, một sự giảm giá nội tệ sẽ làm gia tăng khoản nợ
Chính phủ bằng ngoại tệ qui đổi, nếu NHTW điều chỉnh tăng lãi suất
thì giá trái phiếu Chính phủ sẽ giảm và ảnh hưởng đến khả năng cân
đối ngân sách. Để hạn chế những tác động bất lợi giữa CSTK và
CSTT, cả hai chính sách này phải nhất quán về mặt mục tiêu, phải
tạo ra sự đồng bộ và bổ sung cho nhau trong quá trình thực thi. Khi
bù đắp thâm hụt ngân sách, Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu
Chính phủ và NHTW mua vào, tạo thêm công cụ để điều tiết thị
trường tiền tệ. Trong quá trình thực thi CSTK, việc tài trợ thâm hụt và
các khoản thu chi lớn của Chính phủ phải có kế hoạch và được
thông báo trước cho NHTW, giúp NHTW dự báo được diễn biến
cung tiền để kịp thời điều chỉnh theo mục tiêu đề ra và đảm bảo hiệu
quả của CSTT. Thực trạng phối hợp CSTT và CSTK tại Việt
Nam Tại Việt Nam, việc phối hợp CSTT và CSTK đã có những
chuyển biến tích cực, nhất là trong việc chỉ đạo điều hành giữa Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và Bộ Tài chính, có sự phối hợp

trong việc phát hành tín phiếu kho bạc, xác định lãi suất phát hành
trái phiếu Chính phủ, Luật NHNN cũng đã qui định là không phát
hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, tiền gửi kho bạc phải gửi tại


NHNN. Hàng năm, Quốc hội thông qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ
yếu và khống chế mức thâm hụt ngân sách trong tỉ lệ nhất định, việc
chỉ đạo điều hành của Chính phủ cũng đảm bảo sự nhất quán giữa
mục tiêu CSTT và CSTK. Tuy nhiên, trong chừng mực nào đó, còn
thiếu sự phối hợp trong quá trình điều hành hai chính sách này, chưa
có sự nhất quán giữa việc xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ với
chính sách lãi suất của NHNN. Bên cạnh đó, NHNN cũng không nắm
được các khoản thu chi lớn của ngân sách nhà nước, nên bị động
trong việc kiểm soát cung tiền trước tác động của các dòng tiền trong
khu vực Chính phủ. Từ cuối năm 2007, kinh tế thế giới biến động
mạnh và bước vào thời kỳ suy thoái, gây ra những bất ổn khó lường
đối với nền kinh tế Việt Nam, thị trường tài chính trong nước chao
đảo mạnh, đe dọa tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng, lãi suất
và tỉ giá biến động mạnh, lạm phát liên tục leo thang. Để ổn định thị
trường, NHNN, Bộ Tài chính và các bộ, ngành đã có nhiều biện pháp
can thiệp quyết liệt, kịp thời và có hiệu quả, từng bước giải quyết các
vấn đề phát sinh. Một số giải pháp và kiến nghị CSTT và CSTK là
hai bộ phận trọng yếu trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô, hai
chính sách này có mối quan hệ chặt chẽ đan xen và ảnh hưởng lẫn
nhau trong quá trình hoạch định và thực thi. Để đảm bảo hiệu quả
phối hợp giữa CSTT và CSTK, cần có sự thống nhất trong các chính
sách nhằm đảm bảo mục tiêu chung, đồng thời cân nhắc tác động
trái chiều của các chính sách, tăng cường trao đổi thông tin giữa Bộ
Tài chính và NHNN để làm cơ sở xây dựng và thực thi các biện pháp
chính sách một cách có hiệu quả và kịp thời. Đối với các gói kích

cầu, cần tăng cường kiểm soát chất lượng các khoản tín dụng hỗ trợ
lãi suất, kiểm soát tín dụng cho các mục tiêu kinh doanh chứng
khoán và bất động sản. Cải cách cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm
soát chặt chẽ các khoản chi tiêu, có biện pháp giảm thất thoát trong
chi tiêu đối với các dự án và công trình lớn nhưng không hiệu quả,
đảm bảo yêu cầu kiểm soát chi tiêu hiệu quả hơn là chỉ nhằm mục
tiêu kiểm soát việc chấp hành chế độ. Có biện pháp quyết liệt về cải
cách doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN),
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn ngân sách
nhà nước. Rà soát lại hệ thống DNNN, xử lý kiên quyết các doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ. Cần tính đến ảnh hưởng tiêu cực của chính
sách vay nợ nước ngoài liên quan đến tỉ giá, hoạt động xuất khẩu và
cán cân thương mại, không để ảnh hưởng xấu đến cán cân vãng lai
và cán cân thanh toán



×