Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Sự hình thành và phát triển của chế định chủ thể hợp tác đầu tư của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.14 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 19, 2003

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 
CỦA CHẾ ĐỊNH CHỦ THỂ HỢP TÁC ĐẦU TƯ 
CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Thị Hà
 Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

Đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng là vấn  
đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Trong điều kiện chuyển đổi từ nền kinh tế 
tập trung với hai thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước và kinh tế  tập thể  sang nền  
kinh tế thị trường, Nhà nước đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tồn tại và 
phát triển. Trên cơ sở đó, văn bản có tính pháp quy đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước  
ngoài đã được ban hành, đó là "Điều lệ  Đầu tư  nước ngoài  ở  nước CHXHCNVN"  
được ban hành kèm theo Nghị định số 115/HĐCP ngày 18/4/1977 của Hội đồng Chính 
phủ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên quy định về  vấn đề  Đầu tư  trực tiếp nước  
ngoài trong pháp luật Việt Nam, nó ghi nhận những điều kiện, những khái niệm đầu 
tiên về vấn đề Đầu tư trực tiếp nước ngoài và là căn cứ  tạo tiền đề  cho những quy  
định tiếp sau này.
Vấn đề hình thức đầu tư được quy định trong NĐ 115/CP dưới ba dạng:
­ Hợp tác sản xuất chia sản phẩm;
­ Xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp;
­ Xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu.
Trên cơ sở 3 hình thức đầu tư này, Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã hoàn  
thiện thêm một bước theo hướng cụ thể hơn, có tính khoa học hơn. Chẳng hạn như 
hình thức hợp tác sản xuất chia sản phẩm được qui định trong Điều lệ Đầu tư nước  
ngoài năm 1977, Luật Đầu tư  nước ngoài năm 1987 đã hoàn thiện thành hình thức 
Hợp đồng hợp tác kinh doanh và qui định rất rõ đặc trưng cơ  bản của nó là các bên 
cùng góp vốn kinh doanh, sau đó phân chia kết quả  kinh doanh mà không thành lập 
một pháp nhân mới như  hình thức liên doanh. Mỗi bên hợp doanh vẫn giữ  tư  cách  
pháp nhân của mình, tự quản lý, thực hiện nghĩa vụ tài chính theo pháp luật của nước  


19


mình. Đây là hình thức đầu tư được nhiều nhà đầu tư hoan nghênh vì nó rất đa dạng,  
linh hoạt.
Về hình thức xí nghiệp liên doanh, điều 2 Luật đầu tư  nước ngoài năm 1987  
đã đưa ra khái niệm doanh nghiệp liên doanh như  sau: "Xí nghiệp liên doanh là xí  
nghiệp do Bên nước ngoài và Bên Việt Nam hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ 
sở  hợp đồng hợp tác liên doanh hoặc Hiệp định ký giữa Chính phủ  nước Cộng hoà 
XHCN Việt Nam và Chính phủ nước ngoài". Từ định nghĩa này cho thấy, Nhà nước  
ta cho phép xí nghiệp liên doanh chỉ có hai bên là Bên nước ngoài và Bên Việt Nam; 
trường hợp có nhiều tổ  chức, cá nhân muốn hợp tác đầu tư  dưới hình thức này thì  
phải thỏa thuận lại thành một Bên nước ngoài và một Bên Việt Nam để  liên doanh 
với nhau. Mặt khác, trong thực tế còn tồn tại một liên doanh được thành lập trên cơ 
sở  Hiệp định được ký kết giữa Chính phủ  Liên Xô trước đây và Chính phủ  Việt  
Nam, đó là liên doanh dầu khí Việt ­ Xô. Do đó trong nội hàm của khái niệm trên còn  
mở  rộng diện áp dụng cho cả  đối tượng liên doanh được thành lập trên cơ  sở  hợp 
đồng ký kết giữa các chính phủ. Ngoài liên doanh dầu khí Việt ­ Xô, từ  đó đến nay 
không có liên doanh nào được thành lập theo phương thức tương tự.
 
Mặc dù vậy, Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 chưa quy định hình thức liên  
doanh giữa một xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài có tư cách pháp nhân  
theo pháp luật Việt Nam với một tổ chức kinh tế khác  ở  nước ngoài. Thực tiễn thi  
hành Luật Đầu tư  nước ngoài năm 1987 đã đặt ra vấn đề  phải bổ sung quy định về 
việc một doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư  nước ngoài được liên doanh tiếp  
với một tổ  chức nước ngoài để  thành lập một pháp nhân liên doanh mới. Quy định 
mới này có lợi cho việc mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp liên doanh khi 
có yêu cầu và điều kiện, đó cũng là hình thức thu hút thêm vốn đầu tư  nước ngoài. 
Khái niệm Hai bên trong doanh nghiệp liên doanh mới sẽ khác với khái niệm Hai bên 
trong Luật Đầu tư  nước ngoài 1987. Bên Việt Nam không phải làm "một bên gồm  

một hoặc nhiều tổ  chức kinh tế  Việt Nam có tư  cách pháp nhân" như  quy định tại  
Điều 2 Luật Đầu tư  nước ngoài 1987, mà là "một tổ  chức kinh tế  có vốn đầu tư 
nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam". Chính vì vậy, khái niệm  
"xí nghiệp liên doanh" tại khoản 10 Điều 2 Luật Đầu tư  nước ngoài 1987 đã được  
sửa đổi, bổ sung như sau: "Xí nghiệp liên doanh là xí nghiệp do hai bên hoặc nhiều  
bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ  sở hợp động liên doanh hoặc Hiệp định  
ký giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam với Chính phủ nước ngoài hoặc là xí nghiệp  
mới do xí nghiệp liên doanh hợp tác với tổ  chức, cá nhân nước ngoài thành lập tại 
Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh" ; đồng thời Điều 6 Luật này cũng đã được 
20


bổ  sung như  sau: "Xí nghiệp liên doanh được hợp tác với tổ  chức và cá nhân nước  
ngoài để thành lập xí nghiệp liên doanh mới tại Việt Nam".
 
Hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được quy định trong Điều lệ 
đầu tư nước ngoài năm 1977 với điều kiện chặt chẽ, bắt buộc phải xuất khẩu 100%  
sản phẩm làm ra. Lúc đó hình thức này được gọi là: "Xí nghiệp tư doanh chuyên sản 
xuất hàng xuất khẩu". Để  có sức hấp dẫn các nhà đầu tư  nước ngoài, Luật Đầu tư 
nước ngoài năm 1987 đã đổi lại tên thành hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài  
và quy định tại Điều 14 như  sau: "Các tổ  chức, cá nhân nước ngoài được thành lập 
tại Việt Nam xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, tự  mình quản lý xí nghiệp, chịu sự 
kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài được hưởng quyền  
lợi và thực hiện các nghĩa vụ ghi trong Giấy phép đầu tư. Xí nghiệp 100% vốn nước  
ngoài có tư  cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam". Theo quy định này, xí nghiệp  
100% vốn nước ngoài không bắt buộc phải xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra. Đây là  
một bước tiến quan trọng về kỹ thuật lập pháp trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài so 
với Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977.
 
Thực tiễn nhiều nước đã cho thấy rằng, thành lập Khu chế xuất là một hình 

thức đầu tư  có sức hấp dẫn thu hút được nhiều vốn đầu tư, tạo được nhiều việc 
làm, tăng nhanh khả năng xuất khẩu và tác động tích cực tới kinh tế nội địa.
 
Để  chỉ  đạo việc xây dựng Khu chế  xuất mang tính thí điểm, Hội đồng Bộ 
trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành nghị định số 322/HĐBT ngày 18/10/1991 kèm  
theo Quy chế Khu chế xuất. Mô hình Khu chế xuất mà Nhà nước ta chủ trương xây  
dựng chỉ  là khu sản xuất trong đó không có dân cư  thường trú, không có cấp chính  
quyền riêng. Khu chế  xuất có một số  đặc thù về  cơ  chế  quản lý, nhưng vẫn nằm 
trong tổng thể của chính sách đầu tư  nước ngoài, chịu sự  điều chỉnh của Luật Đầu  
tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn Nhà nước ta quy định về Khu  
chế xuất trong Luật Đầu tư nước ngoài để họ yên tâm đầu tư vào đó.
 
Trên tinh thần như  vậy, Luật Đầu tư  nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã bổ 
sung Điều 19a như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư  vào các Khu 
chế  xuất tại Việt Nam dưới các hình thức quy định tại Điều 4 Luật này... quan hệ 
trao đổi hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong thị trường Việt Nam với các xí nghiệp 
chế xuất được coi là quan hệ xuất ­ nhập khẩu và theo các quy định của pháp luật về 
xuất ­ nhập khẩu".
 
Bên cạnh đó, việc xây dựng các công trình kết cấu hạ  tầng như: cầu cống,  
đường sá, bến cảng, nhà máy cung cấp nước... là ưu tiên hàng đầu của Nhà nước ta. 
Việc xây dựng kết cấu hạ  tầng đòi hỏi số  vốn đầu tư  lớn nhưng việc thu hồi vốn  
lại gặp nhiều khó khăn. Phương thức  đầu tư   đặc thù  "xây dựng ­ kinh doanh ­  
21


chuyển giao" (BOT) là một sáng kiến của cộng đồng quốc tế, đã được áp dụng  ở 
nhiều nước, mang lại những kết quả đáng khích lệ trong lĩnh vực xây dựng kết cấu 
hạ tầng, nhất là  ở  những nước đang phát triển. Trong phương thức này, nhà đầu tư 
tự  nguyện bỏ vốn xây dựng công trình, tự khai thác kinh doanh công trình trong một  

thời gian nhất định để  thu hồi vốn và lợi nhuận, sau đó chuyển giao công trình cho  
Nhà nước.
 
Trên tinh thần đó, Luật Đầu tư  nước ngoài (sửa đổi 1992) đã bổ  sung Điều  
19b như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam xây dựng công  
trình hạ tầng có thể ký hợp đồng Xây dựng ­ Kinh doanh ­ Chuyển giao với cơ quan 
Nhà nước có thẩm quyền Việt Nam. Các tổ  chức, cá nhân nước ngoài được hưởng 
các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng".
 
Đến Luật Đầu tư  nước ngoài năm 1996 đã bổ  sung một số  quy định nhằm 
hoàn thiện hình thức đầu tư, phưong thức đầu tư  như  quy định đa dạng hóa các  
phương thức đầu tư  theo phương thức BOT, BTO, BT; cho phép bệnh viện, trường 
học, Viện nghiên cứu hợp tác đầu tư với nước ngoài, Luật hoá Khu công nghiệp, cho  
phép doanh nghiệp liên doanh được hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam để thành lập 
liên doanh mới (Luật Đầu tư  nước ngoài sửa đổi năm 1992 chỉ  cho phép liên doanh 
tiếp với Bên nước ngoài); cho phép Bên nước ngoài góp vốn bằng tiền Việt Nam có  
nguồn gốc đầu tư tại Việt Nam.
 
Ngoài ra khi đầu tư  vào Việt Nam, nhà đầu tư  nước ngoài có thể  thành lập 
văn phòng đại diện. Quá trình thành lập và hoạt động của các chi nhánh được quy  
định tại Luật Thương mại năm 1997. Văn phòng không được phép tiến hành kinh  
doanh, chỉ được phép xúc tiến thương mại.
 
Nhà đầu tư  nước ngoài cũng có thể  thành lập các chi nhánh tại Việt Nam 
trong các lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, thành lập các chi nhánh các công ty Luật,  
thành lập các công ty bảo hiểm, kiểm toán ...
Để  phù hợp với thông lệ  quốc tế  và cạnh tranh với các nước trong khu vực  
về  thu hút đầu tư  nước ngoài, Việt Nam đã bổ  sung qui định doanh nghiệp có vốn  
đầu tư nước ngoài hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Điều này phù hợp với  
phương hướng chung là tiến tới nhất thể hóa khung pháp luật đầu tư  trong nước và  

nước ngoài.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, việc cho phép nhà đầu tư  nước  
ngoài thành lập doanh nghiệp cổ  phần là giải pháp cần thiết để  tạo thêm kênh huy  
động vốn mới, tạo ra khả năng cho phép doanh nghiệp trong nước mua lại cổ phần  
của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, qui định này cũng sẽ tạo điều kiện cho  
22


các doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài được đăng ký tại thị  trường chứng  
khoán.
Như  vậy, kể từ bản Điều lệ  Đầu tư  nước ngoài đầu tiên năm 1977 cho đến 
nay, chế  định Hình thức và Phương thức đầu tư  không ngừng được hoàn thiện theo  
hướng mở rộng, phù hợp với Pháp luật của các nước và thông lệ quốc tế, tạo ra môi  
trường pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng phát triển, 
giúp cho Việt Nam cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới về thu hút đầu 
tư nước ngoài trong điều kiện Hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra hết sức sôi nổi như 
hiện nay.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Bộ  Kế  hoạch và Đầu tư. Các văn bản pháp luật về Đầu tư  nước ngoài tại  

Việt Nam, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1994).
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tập bài giảng về đầu tư nước ngoài năm 1996.

3.

Bộ  Kế  hoạch và Đầu tư.  Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư  


nước ngoài tại Việt Nam, Văn phòng Bộ kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội (1998).
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tờ trình về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của  
Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Những vấn đề cơ bản về quản lý đầu tư trực tiếp  
nước ngoài tại Việt Nam, Tài liệu giảng dạy, học tập. Hà Nội (2000)

TÓM TẮT
Việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của Pháp luật đầu tư nước ngoài  
nói chung cho ta thấy bức tranh tổng thể, mang tính khái quát về  Pháp luật đầu tư  nước  
ngoài. Trong đó đi sâu nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của chế định chủ  thể  
tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng làm đầy đủ  hoàn thiện bức tranh  
tổng thể đó. Chế  định này ngày càng được qui định theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều  
kiện tối đa cho mọi thành phần kinh tế  tham gia hợp tác đầu tư  nước ngoài, nhất là trong  
điều kiện Việt Nam đang tích cực, chủ  động hội nhập từng bước vào nền kinh tế  khu vực  
cũng như thế giới.

THE ESTABLISHMENT AND DEVELOPMENT
OF INSTITUTION: INVESTMENT FORMS AND MEASURES
OF FOREIGN INVESTMENT LAW IN VIETNAM.
Nguyen Thi Ha
College of  Sciences, Hue University

23


SUMMARY
Researches   on   the   Institution   on   Investment   Forms   and   Measures   of   Foreign  
Investment   Law   in   Vietnam   play   a   part   in   pecfectalizing   the   whole   picture   of   Foreign  
Investment Law in Vietnam. From the first Regulations on Foreign Investment in 1977 to Law  
of Foreign Investment in 2000, forms and measures of investment have been regulated in a  

more   detailed,   scientific   and   larger   way,   contributing   to   perfectalize   the   investment  
environment   in   Vietnam   and   to   attract   foreign   investment,   especially   in   the   condition   that  
Vietnam is activily and subjectively integrating into the world and region economy.

24



×