Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

SÁNG KIẾN “một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo ghép 3 4 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.11 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

Danh mục chữ viết tắt

1

Thông tin chung về sáng kiến
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của giải pháp
II. Lý do chọn giải pháp
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
IV. Mục đích nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng của giải pháp đã biết
II. Nội dung sáng kiến
1. Bản chất của giải pháp mới
2. Ưu nhược điểm của giải pháp mới
III. Khả năng áp dụng của sáng kiến
IV. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được khi áp
dụng giải pháp

2
3
3
3
4
4
5


5
8
8
22
22
23

PHẦN KẾT LUẬN

25

1. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng
sáng kiến

25

2. Những kiến nghị, đề xuất điều kiện để triển khai, ứng dụng
sáng kiến vào thực tiễn

25

3. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền

26

0


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


KNS
GD&ĐT
UBND
SL

Kỹ năng sống
Giáo dục và Đào tạo
Uỷ ban nhân dân
Số lượng

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN

1


1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu
giáo ghép 3- 4- 5 tuổi Bản Giàn - Trường mầm non Mường Bằng – Mai Sơn
-Sơn La
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Giáo dục mầm non
3. Tác giả :
Họ và tên : Trần Thu Hằng

Nam (nữ): Nữ

Trình độ chuyên môn: ĐHSP mầm non
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên, Trường Mầm non Mường Bằng– huyện
Mai Sơn – tỉnh Sơn La
Điện thoại : 0372.107.000

Email:


Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
4. Đồng tác giả (nếu có): Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến (Nếu có): Không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị : Trường Mầm non Mường Bằng – Huyện Mai Sơn – Tỉnh Sơn La
Địa chỉ : Xã Mường Bằng – Huyện Mai Sơn – Tỉnh Sơn La
Điện thoại :
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: 20/9/2018

2


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của giải pháp
Xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống của con người, nhiều vấn
đề phức tạp liên tục nảy sinh. Bên cạnh những tác động tích cực, còn có những tác
động tiêu cực, gây nguy hại cho con người, đặc biệt là trẻ em. Nếu mỗi người trong
đó có trẻ em không có những kiến thức cần thiết để biết lựa chọn những giá trị
sống tích cực, không có những năng lực để ứng phó, để vượt qua những thách thức
mà hành động theo cảm tính thì rất dễ gặp trở ngại, rủi ro trong cuộc sống.
Việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng
đang trở thành nhiệm vụ quan trọng. Giáo dục kỹ năng sống phải được đo bằng sự
vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống mỗi cá nhân để sống tích cực, sống
hạnh phúc, sống có ý nghĩa. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm giúp trẻ phát
triển hài hòa, toàn diện về nhân cách. Cung cấp cho mỗi trẻ những kiến thức cần
thiết về kỹ năng sống để các em sống sao cho lành mạnh và có ý nghĩa. Giúp các
em hiểu, biến những kiến thức về kỹ năng sống được cung cấp thành hành động cụ
thể trong quá trình hoạt động thực tiễn với bản thân, với người khác, với xã hội,
ứng phó trước nhiều tình huống, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải

quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực.
Là giáo viên mầm non nhiều năm liền phụ trách lớp mẫu giáo ghép 3,4,5
tuổi ở trường mầm non khối xã, tôi nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng
sống đối với sự phát triển của trẻ (nhất đối với trẻ em vùng đồng bào dân tộc), tôi
đã luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3,4,5 tuổi
có hiệu quả. Kỹ năng sống của trẻ 3,4,5 tuổi được hiểu là giáo dục những kỹ năng
mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển tải những gì mình biết
(nhận thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình quan tâm (giá trị)
thành những khả năng thực thụ giúp trẻ biết phải làm gì và làm như thế nào (hành
vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Những kỹ năng đó bao gồm:
Kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường
sống, kỹ năng hợp tác chia sẻ… Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những
kinh nghiệm sống của người lớn. Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng đương đầu với
những khó khăn trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của
mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp.
II. Lý do chọn giải pháp
Hiện nay giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một nội dung được đông đảo phụ
huynh và dư luận xã hội quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức
cần thiết đối với trẻ. Thật ra, việc giáo dục KNS cho học sinh nói chung và trẻ
mầm non nói riêng được ngành GD&ĐT đặt ra từ lâu, nhưng mới chủ yếu dừng lại
ở các tiết học về giáo dục công dân (đối với học sinh phổ thông) và lồng ghép
trong các hoạt động hàng ngày (đối với trẻ mầm non).
Do đó, giáo dục KNS là yêu cầu cấp thiết đối với trẻ. Bởi nếu trẻ thiếu kinh
nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động … Trong thế giới hiện đại, trẻ thường xuyên
chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực. Bên cạnh những yếu
3


tố tích cực thì những tác động của các yếu tố tiêu cực luôn đặt mỗi đứa trẻ vào
hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị cần và đúng, chúng phải đương đầu với

những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Khi thiếu KNS trẻ dễ bị lôi vào
những hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỷ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát
triển lệch lạc về nhân cách. Giáo dục KNS chính là giúp trẻ có khả năng ứng phó
tích cực trước sức ép của cuộc sống và sự lôi kéo thiếu lành mạnh, giúp trẻ tạo
dựng mối quan hệ tốt đẹp với cộng đồng, bạn bè và mọi người xung quanh.
Thực tế năm học 2018-2019 tại lớp mẫu giáo ghép 3,4,5 tuổi bản Giàn trường
mầm non Mường Bằng, tôi được phân công phụ trách có 100% trẻ đều là người dân
tộc nên kỹ năng sống của trẻ còn rất nhiều hạn chế. Trẻ đến lớp chưa biết tự giác chào
hỏi các cô, trong lớp, trường, khi bố mẹ, ông bà đến đón trẻ cũng chưa biết chào cô,
chào bạn, chào bố mẹ…Thậm chí một số trẻ do được bố mẹ quá nuông chiều nên
không có khả năng tự phục vụ, cùng với việc giao tiếp kém nên chúng không biết chia
sẻ với bạn bè hay không biết tự bảo vệ bản thân mình trước các tình huống tiêu cực
xảy ra… Do đó, khi đến trường thời gian các cháu ở với cô giáo nhiều hơn gia đình,
nên trường học chính là cái nôi để giáo dục kỹ năng sống tốt nhất đối với trẻ. Chính vì
vậy, tôi đã trăn trở rất nhiều về việc làm sao phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với
mọi tình huống mọi hoàn cảnh trong cuộc sống đời thường một cách văn minh và
hồn nhiên đúng với độ tuổi của mình. Với hy vọng đó bản thân tôi đề ra nhiệm vụ
quan trọng cho mình là phải tìm ra những biện pháp giáo dục nhẹ nhàng, giúp trẻ có
những kỹ năng sống cần thiết trong cuộc sống, góp phần nâng cao giáo dục toàn diện
cho trẻ theo mục tiêu giáo dục mầm non đã xác định.
Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu cho trẻ cả ba độ tuổi 3,4,5 tuổi ở
Trường mầm non Mường Bằng từ trước đến nay. Do đó năm học 2018-2019 tôi
lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo ghép
3,4,5 tuổi Bản Giàn, trường mầm non Mường Bằng - Mai Sơn - Sơn La.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
1. Phạm vi
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 3-4-5 tuổi tại lớp
mẫu giáo ghép Bản Giàn
2. Đối tượng
21 trẻ lớp mẫu giáo ghép Bản Giàn - Trường mầm non Mường Bằng, năm

học 2018-2019.
IV. Mục đích nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu nhằm tìm hiểu tình hình thực tế việc rèn kỹ năng sống
cho học sinh mẫu giáo trong trường Mầm non. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện
pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 3- 4- 5 tuổi tại
lớp mẫu giáo ghép Bản Giàn - Trường mầm non Mường Bằng – Mai Sơn – Sơn
La, góp phần thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong trường Mầm
non.
4


PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng của giải pháp đã biết
1.1. Tình hình chung
Năm học 2018 – 2019 được sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường tôi
trực tiếp giảng dạy tại lớp mẫu giáo ghép 3- 4- 5 tuổi bản Giàn với tổng số 21
cháu. Trong đó: Học sinh dân tộc: 21 cháu = 100%,
Nam: 14 cháu = 66.7 %; nữ: 7 cháu = 33.3 %;
Trẻ 3 tuổi 5 cháu; nam 3 = 14.3% ; nữ 2 cháu = 9.5%;
Trẻ 4 tuổi 8 cháu; nam 6 = 28.6%; nữ 2 cháu =9.5%,
Trẻ 5 tuổi có 8 cháu; Nam 5 = 23.8%; Nữ 3 = 14.3%
a) Thuận lợi
Trường Mầm non Mường Bằng là trường mới được sáp nhập theo Quyết
định 23567/QĐ-UBND ngày 19/10/2018 của UBND huyện Mai sơn, trên cơ sở sáp
nhập trường Mầm non Mường Bằng 1 và trường Mầm non Mường Bằng 2. Trường
có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, đa số các phòng học được xây dựng kiên cố,
các lớp học có đầy đủ đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho trẻ học. 100% trẻ được ăn
bán trú bằng hình thức dân nuôi.
Lớp mẫu giáo bản Giàn nằm cách điểm trung tâm trường 5 km và nằm tại khu

trung tâm của bản Giàn nên thuận lợi cho các gia đình đưa đón trẻ đến lớp. Có một
lớp học khang trang đẹp sạch sẽ và thoáng mát. Trong năm học tôi luôn đón nhận sự
quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường. Có sự quan tâm, chỉ đạo, hướng
dẫn của Ban giám hiệu về tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông
qua các lĩnh vực giáo dục cho trẻ; cùng với sự giúp đỡ, những kinh nghiệm của đồng
nghiệp. Về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học cần giáo
dục kỹ năng sống. Có không gian hoạt động an toàn cho trẻ, có đủ đồ dùng đồ chơi
cần thiết trong các hoạt động giáo dục. Trẻ rất hào hứng, sôi nổi với các hoạt động
do cô tổ chức, biết lĩnh hội các kiến thức cô giáo truyền đạt. Phụ huynh luôn quan
tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường của lớp.
Bản thân tôi đã nhiều năm được phân công dạy lớp mẫu giáo mẫu giáo ghép
(3,4,5 tuổi) nên dễ dàng nắm bắt tâm lý của trẻ và tìm được biện pháp phù hợp với
trẻ. Lớp tôi phụ trách có 8/8 cháu đã học qua lớp mẫu giáo bé, có 8/8 cháu đã học
qua lớp mẫu giáo nhỡ trong chương trình lớp ghép 3 độ tuổi nên trẻ đã có được
một số kỹ năng nhưng đa số đều dừng ở mức độ thấp, hời hợt. Là một giáo viên
tâm huyết với nghề, có lòng yêu thương trẻ, tận tình với công việc, luôn có ý thức
phấn đấu vươn lên, thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu như tạp chí, thông tin
trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ để áp dụng vào việc
chăm sóc giáo dục trẻ hằng ngày nhất là việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
b) Khó khăn
Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn nóng vội trong việc dạy con, do đó, khi
trẻ về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết số lượng toán thì lo lắng một
5


cách thoái quá. Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có
kỹ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống
như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay
không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để
làm gì? Sự quan tâm của các gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100%

phụ huynh là nông thôn dân tộc Thái. Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở
nhà với các anh chị hoặc ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn
ít, không dành thời gian trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo
dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi của trẻ.
Một số giáo viên nhận thức tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống
cho trẻ còn hạn chế. Trong quá trình giáo dục trẻ giáo viên chưa linh hoạt, sáng tạo
nên hiệu quả đạt được chưa cao. Trong soạn giảng, nhận thức từng giáo viên chưa
có tính năng động, sáng tạo. Lâu nay, chúng ta thường quan niệm: rèn dạy kỹ năng
sống chủ yếu chỉ dành cho người lớn. Nhưng đối với trẻ ở lứa tuổi tập nói, dạy lễ
giáo đạo đức ban đầu cho các cháu ở trường mầm non là rất quan trọng trong việc
hình thành thói quen và nhân cách của trẻ sau này. Bên cạnh đó theo nhận định của
nhiều giáo viên, do lớp có số lượng trẻ quá đông, số giáo viên trong một lớp cũng
chưa đủ theo quy định nên việc uốn nắn hành vi, cử chỉ cho từng trẻ cũng là vấn đề
khó khăn. Điều kiện cơ sở vật chất để dạy trẻ thực hành hành vi lễ giáo, liên hệ
thực tế cũng còn nhiều hạn chế nên việc giáo dục chỉ dừng lại ở cung cấp kiến
thức.
Một số trẻ nhút nhát, thiếu tự tin khi tham gia vào các hoạt động, một số trẻ
lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cô, kỹ năng
sống , khả năng ứng phó của trẻ với các vấn đề trong cuộc sống còn hạn chế. Ngoài
ra, trong lớp còn một số trẻ chưa ngoan, chưa lễ phép với người lớn.
Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa chữa và chú
trọng dạy kỹ năng sống cho trẻ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và trò chuyện
với trẻ trong các hoạt động và mọi lúc mọi nơi để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ.
1.2. Kết quả khảo sát thực trạng
Tôi tiến hành khảo sát có 21/21 trẻ 3,4,5 tuổi của lớp với các kỹ năng:
- Giao tiếp
- Thực hiện các hành vi văn minh
- Tự phục vụ
- Nhận thức
- Hoạt động theo nhóm

- Hình thành sự tự tin, tư lập
Qua khảo sát tôi thấy đa số trẻ thực hiện các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thực
hiện các hành vi văn minh; kỹ năng tự phục vụ; kỹ năng nhận thức tốt hơn trẻ nhà
trẻ song đối với lứa tuổi trẻ mẫu giáo vẫn ở mức độ kém. Nhiều trẻ đến lớp vẫn
còn khóc ngặt nghẽo, thiếu tự tin, sống thu mình không muốn chơi cùng bạn.
6


Những hành vi văn minh như chào, mời, gọi hỏi, xin, thưa …cô giáo phải nhắc
nhiều. Có nhiều trẻ cô giáo vẫn phải bón cho ăn, phải tìm đồ dùng cá nhân cho.
Nhận thức về bản thân và xung quanh còn nhiều hạn chế có những trẻ không nói
được mình muốn gì, thay vào muốn nói, muốn đòi thì chỉ khóc. Nhiều trẻ không
muốn chơi cùng bạn, có những trẻ hay tranh giành đồ chơi, không chia đồ chơi cho
các bạn cùng chơi. Đa số trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân quá kém như thấy con sâu,
con kiến cũng đưa tay ra bắt …
Kết quả cụ thể như sau:
* Bảng 1. Kỹ năng sống của trẻ trước khi áp dụng giải pháp
Đạt

Chưa đạt

TT

Tiêu chí

SL

%

SL


%

1

Kỹ năng về giao tiếp (với bố mẹ, ông bà, bạn …)

9

42,8

12

57,2

2

Kỹ năng thực hiện các hành vi văn minh

6

28,6

15

71,4

3

Kỹ năng tự phục vụ (tự xúc ăn, tự tìm đồ dùng cá

nhân của mình…)

10

47,6

11

52,4

4

Kỹ năng hoạt động theo nhóm (chơi cùng bạn
trong nhóm lớp )

9

42,8

12

57,2

5

Hình thành sự tự tin, tư lập

8

38,0


13

62,0

6

Kỹ năng tự nhận thức

5

23,8

16

76,2

8

38,0

13

62,0

Đánh giá chung

* Nguyên nhân của những hạn chế
– Phía gia đình: một số phụ huynh nuông chiều trẻ quá mức khi kinh tế khá
giả hoặc một số trẻ thiếu sự quan tâm sâu sát của gia đình do kinh tế khó khăn; các

em thiếu hụt về mặt tình cảm gia đình, tình thương của người thân. trên thực tế,
trong xã hội hiện nay các gia đình thường chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ
mà không chú ý đến phát triển các kỹ năng cho trẻ. Luôn bao bọc, nuông chiều, làm
hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác và các kỹ năng trong
cuộc sống rất hạn chế. Khó khăn cho trẻ trong việc có tình huống bất ngờ xảy ra.
– Phía nhà trường: đa số giáo viên chưa nhận thức hết tầm quan trọng của
việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ; không kiềm chế được bản thân để hướng dẫn
cho đến nơi đến chốn khi trẻ tiếp thu chậm hoặc không chịu tập trung khi được
hướng dẫn mà để cho trẻ tự mày mò hoặc làm luôn giúp trẻ.
– Phía xã hội: các ban ngành đoàn thể chưa quan tâm đúng mức, công nghệ
thông tin quá phát triển làm ảnh hướng đến kỹ năng tự phục vụ của trẻ.
7


Chính vì vậy, việc đi sâu lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp
với từng độ tuổi, nhất là đối với trẻ lứa tuổi mẫu giáo 3,4,5 tuổi vô cùng cần thiết
và đó cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2018-2019. Dạy
kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của người lớn.
Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống.
Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn
trong cuộc sống hàng ngày cho phù hợp.
II. Nội dung sáng kiến
1. Bản chất của giải pháp mới
1.1. Các giải pháp
*Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức cho bản thân về giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ mẫu giáo 3,4,5 tuổi
a) Mục đích của giải pháp
Nâng cao nhận thức cho bản thân về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
3,4,5 tuổi sẽ giúp bản thân thấy rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết
phải giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, để trẻ sớm hình thành những kĩ năng: biết phân

biệt đúng sai làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai
trái, xấu xa, tạo điều kiện cho trẻ hành động theo chuẩn mực và thói quen đạo đức
(khiêm tốn, khoan dung, giản dị, trung thực ...), tự chủ, tự tin trong cuộc sống, tự
nhận thức bản thân, biết ứng xử đúng mực, linh hoạt trong những tình huống khó
khăn của cuộc sống, những vấn đề của xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến cuộc sống
an toàn, lành mạnh của trẻ, phòng ngừa những hành vi có hại cho sự phát triển cuả
bản thân trẻ.
b) Mô tả diễn biến quá trình tác động của giải pháp
Đầu năm học, dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, tôi chủ động xây dựng kế
hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho bản thân. Xác định kế hoạch giáo dục KNS
cho trẻ là chuyên đề quan trọng cần được thực hiện trong năm học. Tôi đã tham
khảo tài liệu “Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ Mầm non” do Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ban hành, tôi tiến hành tập trung nghiên cứu
vào các vấn đề: Đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ Mầm non; Giáo dục giá trị sống
cho trẻ Mầm non; Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non; Một số trò chơi giáo
dục giá trị và kỹ năng sống cho trẻ Mầm non. Trong đó tôi chú trọng việc nâng cao
nhận thức, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của người giáo viên trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục KNS cho trẻ và các nội dung, phương pháp giáo dục KNS cho
trẻ Mầm non.
Trong quá trình tự học, tự bồi dưỡng, sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề tôi
đi sâu tìm hiểu và xác định rõ thực trạng, giải pháp về việc nâng cao chất lượng
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Xác định rõ nội dung, phương pháp tổ chức các
hoạt động giáo dục KNS cho trẻ Mầm non: Sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự
lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Dạy trẻ học cách có được những mối
8


liên kết mật thiết với các bạn khác trong lớp, biết chia sẽ, chăm sóc, lắng nghe,
trình bày và diễn đạt được ý của mình trong nhóm bạn. Giúp trẻ luôn cảm thấy tự
tin khi tiếp nhận các thử thách mới; Biết giới thiệu về bản thân và gia đình mình

trước đám đông, biết mình đang học lớp nào, thích cái gì và điạ chỉ nhà mình ở
đâu; Nhận biết các ưu khuyết điểm của bản thân; Biết cách ứng xử với mọi người
xung quanh. Học cánh lắng nghe mọi người và đối đáp; Nhận biết những hoàn
cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công cộng (trong sân trường,
công viên, siêu thị, ngoài phố, khi gặp người lạ,…).
Từ đó tôi nắm được các nội dung dạy KNS mà còn biết cách đưa kỹ năng
sống vào trong các hoạt động dạy học như thế nào cho phù hợp. Dạy như thế nào
để trẻ học và chơi thoải mái, trẻ thích học và bản thân mình thích dạy.
Qua bồi dưỡng đã giúp tôi nâng cao được nhận thức bản thân. Từ đó tôi xác
định rõ mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ bản thân về giáo dục KNS cho trẻ tại lớp;
hiểu được chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến
thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế giáo dục KNS tốt nhất cho trẻ là cho
các bé tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng của mình trong
thực tiễn cuộc sống.
Các nội dung được tôi xác định cần phải giáo dục cho trẻ tập trung vào các kỹ
năng cụ thể như: Kỹ năng về giao tiếp (với bạn bè, bố mẹ, ông bà, người lạ); Kỹ
năng thích nghi (thích nghi các loại thức ăn, với môi trường, với đám đông); Kỹ
năng tự chăm sóc bản thân (tự xúc ăn, tự mặc quần áo, tự chăm lo vệ sinh cá nhân);
Kỹ năng tạo niềm vui (tự chơi, chơi cùng bố mẹ, chơi với người khác: bạn bè, người
thân.., cùng bố mẹ làm đồ chơi); Kỹ năng tự bảo vệ (phân biệt nguy hiểm, tự xoay
sở); Kỹ năng làm việc theo nhóm (Làm việc cùng bạn trong nhóm lớp và tập thể,
tạo niềm vui thông qua kết quả tập thể đạt được, tạo ra tinh thần đồng đội); Kỹ năng
giải quyết vấn đề (kiểm soát hành vi, ngăn ngừa tình huống xấu có thể xảy ra, phát
triển tư duy tích cực, giải quyết nhanh vấn đề); Kỹ năng kỹ năng khám phá thế giới
xung quanh (khám phá không gian, sự vật, chất liệu, thiên nhiên)
c) Hiệu quả thực hiện giải pháp
Sau một thời gian bản thân tìm tòi nghiên cứu các tài liệu trên sách, báo,
mạng thông tin và học hỏi, trao đổi với đồng nghiệp về các nội dung liên quan đến
rèn kỹ năng sống cho trẻ. Nhận thức của bản thân tôi về việc rèn kỹ năng sống cho
trẻ Mầm non của tôi đã được nâng lên một cách rõ rệt.

Nhờ việc biết kết hợp giữa kinh nghiệm, sự hiểu biết về giáo dục kỹ năng
sống của bản thân nên tôi đã lựa chọn những kỹ năng thực sự cần thiết đối với từng
trẻ để giáo dục và tạo cơ hội cho chúng được trải nghiệm hàng ngày rất hiệu quả.
d) Điểm khác biệt và tính mới của giải pháp
Đây là giải pháp nhiều giáo viên chủ quan không tự cập nhật kiến thức cho
bản thân nên quá trình giáo dục trẻ chủ yếu bằng kinh nghiệm hoặc lơ là bỏ qua
hoặc để cho nhanh thì làm luôn cho trẻ. Cho nên điểm khác biệt và tính mới ở giải
pháp này là giáo viên phải biết kết hợp giữa kinh nghiệm, sự hiểu biết thông qua
việc cập nhật những kiến thức bổ ích về giáo dục kỹ năng sống cho bản thân để lựa
9


chọn những kỹ năng thực sự cần thiết đối với từng trẻ hay từng nhóm trẻ để giáo
dục và tạo cơ hội cho chúng được trải nghiệm hàng ngày.
Một điểm khác biệt cơ bản nữa là giáo viên phải có sự nghiêm khắc với
chính bản thân, kiên trì trong học tập, bồi dưỡng để trau dồi kiến thức. Xác định
việc học tập, bồi dưỡng là thường xuyên, liên tục và học tập suốt đời. Từ đó mới có
những sự đổi mới, cải tạo được những giải pháp mà bản thân hay đồng nghiệp
mình đã thực hiện nhưng chưa có hiệu quả cao, tránh sự sáo rỗng, sói mòn trong
nếp nghĩ và hành động của mình đối với việc chăm sóc giáo dục trẻ (nói chung) và
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ (nói riêng).
*Giải pháp 2: Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ từ những việc nhỏ nhất hàng ngày
a) Mục đích của giải pháp
Lâu nay trong việc giáo dục trẻ em, chúng ta vẫn nghe thấy nói đến cụm từ
“kỹ năng sống”. Thực chất của kỹ năng sống cho trẻ chính là giáo dục cho trẻ
những việc hàng ngày để chuẩn bị cho cuộc sống tự lập sau này. Giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ là nhiệm vụ của nhà trường, gia đình và xã hội. Làm sao để trẻ lớn
lên trở thành người tự lập, tự chủ trong mọi tình huống. Đó là cái đích mà biện
pháp này hướng tới. Muốn vậy phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các môi trường

giáo dục từ trong mỗi gia đình đến nhà trường và xã hội. Đó là phải luôn giữ thế
vững chắc của “kiềng ba chân”. Và giáo dục kỹ năng sống không phải là cái gì cao
siêu xa vời. Hãy bắt đầu cho các bé làm quen với cuộc sống từ những việc nhỏ
nhất hàng ngày.
b) Mô tả diễn biến quá trình tác động của giải pháp
Là giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc
phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường. Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ không
phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả một quá trình. Các kỹ năng sống phải
được giáo dục, rèn luyện đồng nhất thì mới bền vững và thành kỹ xảo. Nếu chỉ dạy
kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi thì chưa đủ. Bên cạnh đó, môi trường gia đình
rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được tiếp thu các kỹ năng
thông qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại hiệu quả cao. Mặt khác,
nuôi dạy con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc phụ huynh nhất là trong
thời buổi hiện nay, ai cũng muốn con mình đạt thành tích cao trong học tập cũng
như trưởng thành hơn về mặt nhân cách. Tuy nhiên việc làm thế nào để có thể giúp
trẻ phát huy được khả năng tiềm ẩn? Làm thế nào để trẻ có những kỹ năng sống tốt
nhất thì nhiều phụ huynh còn lúng túng trong vấn đề này. Trên thực tế nhiều phụ
huynh chưa có kiến thức về kỹ năng sống, không biết kỹ năng sống bao gồm
những kỹ năng nào? Cần giáo dục trẻ từ đâu, dạy trẻ những gì? Chính vì vậy mà
tôi phải tuyên truyền đến các bậc phụ huynh để họ hiểu tầm quan trọng của kỹ
năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương pháp dạy trẻ như thế nào để trẻ
tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Việc tuyên truyền đến các bậc phụ huynh
được tiến hành trong giờ đón, trả trẻ, thông qua bảng tuyên truyền, thông qua việc
10


mời phụ huynh tham quan hoặc tham ra trực tiếp vào các hoạt động của lớp hay
thông qua buổi họp phụ huynh.
Cụ thể:
Thông qua giờ đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ,

vệ sinh cá nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng của trẻ để
cùng phụ huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.
Ví dụ :
Ở lớp tôi có cháu Lò Ngọc Trường, thời gian đầu đi học cháu không thể tự
mình kéo quần lên sau mỗi lần đi vệ sinh, không biết đi dép có quai, thậm chí
không biết đội mũ len đúng cách nếu không có sự giúp đỡ của cô. Thông qua trao
đổi với mẹ của cháu, tôi biết cháu là con một trong gia đình có điều kiện. Ở nhà bà
và mẹ vì quá yêu thương mà bao bọc cháu, làm thay hết mọi việc cho cháu nhưng
không biết rằng điều đó vô tình dẫn đến việc cháu không biết cách phục vụ bản
thân, làm cháu thiếu hụt kỹ năng sống. Tôi có trao đổi với mẹ cháu rằng để cháu
tập làm mọi thứ bắt đầu từ chỗ chọn việc dễ nhất để con làm. Ví dụ: Buổi sáng
chuẩn bị đến trường, mẹ có thể mặc quần áo cho con sau đó hỏi con: Con có thể tự
đi dép được không nào? Chọn cho con cái mũ len con thích nhất, đội lên đầu để mẹ
ngắm xem có đẹp không nhé! Sau khi trẻ làm được, mẹ nên khen con một vài câu
để tăng tính tự tin cho trẻ chẳng hạn như: “Con trai mẹ giỏi quá….!” Từ đó cháu
dần tự tin và thích tự làm mọi việc.
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh: Bảng được thiết kế đẹp, kích
thước to rõ, các phụ huynh có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng. Đây là nơi trao
đổi thông tin với phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi có đánh máy nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp.
Ví dụ :
Ở chủ đề trường mầm non tôi ghi nội dung lồng ghép giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ như sau:
- Kỹ năng giao tiếp : Giao tiếp với bạn bè, với cô, với người lớn…
- Kỹ năng tuân thủ các quy định của trường lớp: Không la hét, không nói leo
trong giờ học, không làm ồn, biết chờ đến lượt….
- Kỹ năng hợp tác: Trẻ biết chơi cùng bạn, chia sẻ đồ chơi với bạn, giúp đỡ bạn
khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành việc đơn giản, tìm sự giúp đỡ của bạn khi cần…
Thông qua việc mời phụ huynh tham quan hoặc tham ra trực tiếp vào việc tổ
chức bữa ăn trưa cho trẻ. Có rất nhiều phụ huynh đã không khỏi ngỡ ngàng vì khả

năng tự lập của con mình trên lớp.
Ví dụ :
Chị Lò Thị Oanh, phụ huynh cháu Cà Văn Duy Nghiệp có nói với tôi rằng ở
nhà cháu không tự xúc ăn, cứ đòi mẹ xúc cho thì mới ăn, thậm chí ăn xong còn bắt
mẹ lấy khăn lau miệng. Nhưng ở trên lớp thì khác hẳn, cháu có thể chia cơm cho
các bạn, tự ngồi vào bàn ăn và xúc ăn rất gọn gàng. Khi tôi hỏi cháu Cà Văn Duy
11


Nghiệp: “Tại sao ở nhà con không tự xúc cơm ăn?” Cháu trả lời rằng: “Vì mỗi khi
con đánh rơi cơm, làm đổ canh mẹ thường quát con còn cô giáo thì không”. Qua
buổi tham quan hôm đó chị Lò Thị Oanh đã rút được kinh nghiệm trong việc dạy
kỹ năng sống cho trẻ đó là không nên nóng vội, ít la mắng cháu, nên tôn trọng
cháu, con có quyền làm sai, nếu sai mẹ sẽ động viên con làm lại. Việc phối hợp với
phụ huynh bằng hình thức này đã giúp phụ huynh hiểu biết thêm về cách dạy kỹ
năng sống cho trẻ để từ đó dạy con mình các kỹ năng sống tốt hơn.
Thông qua các buổi họp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh. Trước hết giáo viên
cần tuyên truyền cho các bậc phụ huyng đừng nên là “ô sin” cho con. Bởi có
những bà mẹ khi con ăn xong, lẽ ra phải nhắc con dọn dẹp bát đũa thì đã làm thay
con việc ấy. Lâu dần trẻ thành ỉ lại, lười lao động, nên cô giáo phải tích cực tuyên
truyền cho các bậc cha mẹ thông qua các buổi họp phụ huynh, các giờ đón – trả trẻ
để phụ huynh cần phải ý thức được cho trẻ rằng mọi nhu cầu cá nhân như ăn uống,
mặc quần áo, đi dầy dép ... của trẻ phải do các bé tự làm. Trẻ phải tự biết phục vụ
chăm sóc bản thân. Để sau này khi lớn lên trẻ sẽ không gặp khó khăn trong việc tự
lập kế hoạch cuộc đời của mình. Cha mẹ cũng nên quy định rõ những việc nào trẻ
cần tự làm (thường là những việc liên quan đến sinh hoạt cá nhân), bởi những việc
này không ảnh hưởng gì đến sức khoẻ của trẻ, mà ngược lại rèn cho các bé nhiều
kỹ năng, đức tính tốt. Đặc biệt khi dạy kỹ năng sống cho trẻ ngay từ bé cách tự
chăm sóc bản thân như đánh răng, mặc áo quần, sắp xếp đồ chơi sau khi chơi xong,

dọn dẹp nhà cửa gọn gàng. v.v… Điều đó sẽ giúp chúng kiên nhẫn hơn và có một
lối sống lành mạnh, ngăn nắp.
Thông qua cách tuyên truyền thiết thực như vậy nên các phụ huynh đã tiếp
nhận thông tin một cách đồng bộ, không gò bó, gượng ép. Những biện pháp trên đã
làm thay đổi cơ bản từ phía phụ huynh: Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực phối
hợp với giáo viên để dạy kỹ năng sống cho trẻ ngay từ những việc rất nhỏ hàng
ngày. Đặc biệt là giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số phụ huynh dịu
dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng sống cho trẻ, phân việc cho
trẻ, không cung phụng trẻ thái quá. Không còn hình ảnh bố bế con, mẹ theo sau
xách cặp cho con rồi tranh thủ ép con uống sữa, ăn sáng. Ngược lại đã có nhiều
hình ảnh trẻ tự đeo ba lô đến cửa lớp vòng tay chào cô và tự cất đồ dùng đúng nơi
quy định không cần bố mẹ phải nhắc.
c) Hiệu quả thực hiện giải pháp
Nhận thức của các bậc phụ huynh về việc giáo dục kỹ năng sống cho con em
mình được nâng cao một cách rõ rệt. Phụ huynh đã hiểu được tầm quan trọng và
vai trò của mình trong việc phối kết hợp với giáo viên giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
d) Điểm khác biệt và tính mới của giải pháp
Giải pháp này có điểm khác biệt so với giải pháp cũ mà các giáo viên đã
thực hiện đó là làm thay đổi rõ rệt nhận thức cho các bậc cha mẹ trẻ. Quan điểm
bảo bọc, lo sợ, làm hộ, làm thay trẻ .... hay phục vụ con một cách mù quáng là sai
12


lầm “truyền thống” trong cách nuôi dạy trẻ tại Việt Nam nên cần phải được đổi
mới, cần thay đổi tư duy và hành động trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non.
Giải pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3,4,5 tuổi ở mọi lúc, mọi nơi
a) Mục đích của giải pháp
Giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mẫu giáo 3,4,5 tuổi ở mọi lúc, mọi

nơi trong trường Mầm non chính là giáo dục những hành vi lành mạnh, tích cực và
làm thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực để rèn luyện những nhân cách,
những phẩm chất, đức tính tốt cho mỗi đứa trẻ; giúp chúng có nhiều kinh nghiệm
hơn trong cuộc sống, biết những điều nên làm và những điều không nên làm; giúp
chúng tự tin, chủ động và biết cách xử lý tốt các tình huống có thể sảy ra trong
cuộc sống, khơi ngợi tư duy sáng tạo của mỗi trẻ. Trên cơ sở đó đặt nền móng cho
trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong tương lai.
b) Mô tả diễn biến quá trình tác động của giải pháp
* Giáo dục thông qua việc tạo tình huống cụ thể
Trước đây, với những nội dung dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ không an
toàn và cách phòng tránh thì giáo viên thường giáo dục trẻ với những lời dặn dò
nhắc nhở đơn giản thông qua nội dung các bài thơ, câu chuyện, bài hát có nội dung
giáo dục dạy trẻ. Song trên thực tế, trong chương trình có rất ít bài hát, bài thơ, câu
chuyện có nội dung đó. Vì vậy, trong năm học này, tôi nghiên cứu lựa chọn những
tình huống bất trắc thường xảy ra đưa ra những tình huống cụ thể để dạy trẻ có kỹ
năng ứng biến khi gặp tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và giải quyết.
Ví dụ:
+ Chủ đề “Bản thân”. Trước đây, thông qua câu chuyện “Chú vịt xám”
hoặc nội dung bài hát “Đàn Vịt con” chúng tôi chỉ dùng lời giáo dục trẻ: “Khi đi
công viên hoặc đến những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ, không được chạy
lung tung để khỏi bị lạc” chứ chưa dạy trẻ nếu chẳng may xảy ra sẽ phải xử lý như
thế nào. Với cách giáo dục như vậy chúng tôi thấy kết quả đạt trên trẻ chưa đạt hiệu
quả. Trẻ ghi nhớ một cách thụ động, và thường chóng quên. Và điều cốt yếu trẻ
không hiểu cốt lõi của vấn đề là tại sao không nên làm như vậy và nếu xảy ra thì
phải làm thế nào. Do đó bây giờ ngoài việc giáo dục như vậy vào giờ hoạt động
chiều, Tôi đã đưa ra tình huống “Khi bé bị lạc mẹ trong siêu thị – bé sẽ làm gì ?:
Tôi đã cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết của riêng trẻ.
Lắng nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ và trả lời theo ý kiến của mình, gợi mở
cho trẻ bằng các câu hỏi: Theo con làm như vậy có được không ? Tại sao ? Sau đó,
cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất:

Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung tung mà hãy đứng
yên tại chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ quay lại chỗ đó để tìm bé. Hoặc bé có thể đến chỗ
chú bảo vệ để nhờ gọi điện thoại, hoặc thông báo lên loa để tìm bố mẹ. Tuyệt đối
13


không đi theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ. Vì có thể đó sẽ là
kẻ xấu lợi dụng cơ hội đó bắt cóc hoặc làm hại bé......
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có
thể xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc , xâm hại …Chúng tôi đã đưa ra những tình
huống để dạy trẻ như :
Nếu có người không quen biết cho bé quà bé nên làm như thế nào?”
Ở tình huống này, với lứa tuổi của trẻ trên thực tế trẻ rất thích khi được cho quà
và sẽ không biết tại sao không được nhận.
Khi trẻ thảo luận, tôi đưa ra những giả thiết, những tình huống xấu “Nếu
đó là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho bé”. Tôi phân tích, giải thích cho trẻ và giúp
trẻ có phương án giải quyết đó là :
Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể bị người xấu
tẩm thuốc mê và trúng mưu của kẻ xấu.
Khi gặp trường hợp này bé nên nói “Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không
cho nhận quà của người lạ”.
+ Chủ điểm “Gia đình”, ngoài việc giáo dục trẻ nhận biết và tránh những đồ
dùng nguy hiểm như bàn là, phích nước, bếp đang đun ... Tôi đưa tình huống trẻ
biết tránh những mối nguy hiểm khác như:
“Nếu con đang ở nhà một mình, có người đến gọi mở cửa con sẽ làm gì?”
Tôi cho trẻ nói suy nghĩ, cách giải quyết của mình. Trong khi thảo luận với trẻ tôi
gợi mở: cũng có trường hợp kẻ xấu có thể gây hại cho bé hoặc lấy trộm đồ của gia
đình cũng chính là người thu tiền điện, nước hoặc chính là người quen biết với bố
mẹ bé để giúp trẻ suy đoán tìm cách giải quyết. Sau đó cô giúp trẻ rút ra phương án
tối ưu nhất trong trường hợp này:

Tuyệt đối không mở cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ, người thu
tiền điện, nước. Nếu có người lớn ở trên gác chưa biết thì gọi xuống, còn nếu
không có ai ở nhà thì hẹn họ nhắn lại gì hoặc tối đến gặp bố mẹ.
Trong thời gian gần đây, cháy nổ là hiểm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi
nhà. Chính vì vậy, với trẻ mẫu giáo tuy trẻ còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng cũng
cần dạy cho trẻ một số kỹ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra. Chúng
tôi đã đưa tình huống :
“Nếu bé thấy có khói, hoặc cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm thế nào?”
Qua tình huống này tôi dạy trẻ :
Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu, trước hết bé phải chạy xa chỗ cháy,
hãy hét to để báo với người nhà và những người xung quanh có thể nghe thấy. Nếu
không có người ở nhà thì chạy báo cho hàng xóm.
Từ những tình huống cụ thể mà rất dễ xảy ra đối với trẻ, bằng cách cho trẻ
thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của mình đã có để tìm cách
giải quyết vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra phương án tối ưu nhất, đó cũng
chính là kinh nghiệm mà ta cần dạy trẻ. Thông qua hoạt động đó cũng giúp trẻ có
14


sự tư duy lô gích, biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình, và giúp trẻ có thêm kinh
nghiệm trong cuộc sống.
* Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động góc
- Trong hoạt động góc, trẻ được thực hành trải nghiệm với nhiều vai chơi
khác nhau phản ảnh trong cuộc sống của người lớn. Qua đó trẻ được giao tiếp với
nhau bằng những lời nói nhỏ nhẹ, ân cần, lễ phép, những lời cảm ơn, xin lỗi, trao
nhận bằng hai tay ...luôn được thể hiện .Tôi theo dõi lắng nghe để kịp thời uốn nắn
trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực. Qua đó giúp trẻ hình thành thói quen hành vi
văn minh trong giao tiếp.
- Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ
đạo, thông qua hoạt động này bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và không tốt. Vì vậy

tôi luôn uốn nắn và sử sai ngay cho trẻ trong khi chơi đặc biệt qua các trò chơi ở
góc phân vai.
Ví dụ: Qua góc chơi “bán hàng” thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ hiểu
được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa gửi lễ phép.
Giai đoạn đầu trẻ còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập vai làm người bán
hàng khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ “ Bác ơi bác mua thứ gì nào? Trẻ nói
mua rau – trả tiền nè. Tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi mua hàng con phải hỏi bác ơi
bao nhiêu tiền một mớ rau, bán cho tôi một mớ ạ, nếu trẻ đã biết thưa gửi lễ phép
tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và cuối ngày nhận xét trước lớp. Với hình
thức này các cháu rất thích.
* Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động ngoài trời
Ở trường mầm non, hoạt động ngoài trời là cơ hội để trẻ được trải nghiệm,
trẻ được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên. Qua các giờ hoạt động ngoài trời, tôi tổ
chức cho trẻ quan sát, tham quan vườn rau, vườn cây ăn quả.
Giờ hoạt động ngoài trời, dạo chơi tham quan... tôi đều quan tâm nhắc nhở
trẻ luôn có những ý thức và hành động tốt như biết đoàn kết vui chơi cùng bạn, khi
làm việc gì sai với bạn, với cô thì phải biết xin lỗi, ai cho gì thì nhận bằng hai tay
và cảm ơn, biết giữ vệ sinh môi trường, thân thể sạch sẽ, đầu tóc gọn gàng trước
khi đến lớp.Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát
triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả
về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này
giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Ví dụ: Cô tổ chức cho 2 đội chơi trò chơi “Gieo hạt” ở trò chơi này cháu
thực hiện đúng cách chơi và luật chơi. Mỗi đội luôn tự tin mình sẽ chiến thắng và
tìm mọi cách động viên khích lệ trong nhóm cố gắng có ý chí vươn lên.
- Các con chơi có vui không?
- Các con ơi chúng mình vừa chơi trò chơi gì?
- Chơi gieo hạt để làm gì?
- Để cây lớn lên được thì chúng mình cần chăm sóc như thế nào?
15



- Khi chúng mình ăn những trái ngon quả ngọt chúng mình cần biết ơn ai?
Qua đó giáo dục trẻ thấy được nỗi vất vả của người nông dân phải vất vả lao
động để làm ra lương thực, thực phẩm mà hàng ngày các con ăn. Và cũng qua đó,
tôi lồng ghép giáo dục trẻ trong giờ ăn, phải ăn hết suất ăn, không bỏ cơm vì đó là
mồ hôi, nước mắt, là sự vất vả của người nông dân mới làm ra hạt gạo...
* Giáo dục kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi
Trong các hoạt động hằng ngày của trẻ ở trường, trẻ dễ được tiếp cận những
gì mà cô giáo, người lớn, bạn bè đã làm. Giờ đón trẻ và trả trẻ tôi ân cần và chuẩn
mực trong cách xưng hô với bố mẹ trẻ, tôi tập cho trẻ chào thưa lễ phép với cô và
bố mẹ trẻ.
* Giáo dục kỹ năng sống trong giờ đón trả trẻ
Tôi trò chuyện với trẻ, giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giầy
dép, ba lô đúng nơi quy định ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin
lỗi, biết nói cảm ơn, không nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử
dụng đồ của người khác…
* Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ
Việc tổ chức ngày hội, ngày lễ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục
trẻ mầm non. Ngày 20/11, ngày 8/3, tôi giáo dục trẻ hiểu ý nghĩa ngày nhà giáo
Việt Nam, ngày Quốc tế phụ nữ, giáo dục trẻ biết thể hiện tình cảm với các các bà,
các mẹ, các cô qua những tiết mục văn nghệ chào mừng, những bông hoa bé ngoan
hay trẻ tự tay làm bưu thiếp tặng cô, tặng bà, tặng mẹ…mạnh dạn thể hiện những
bài ca, điệu múa thật hay dành tặng các cô. Đặc biệt tôi luôn chú ý rèn cho trẻ sự tự
tin khi đứng trước đám đông. Như nhảy múa, ca hát. Tôi sẽ kích thích trẻ bộc lộ
những suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, khả năng tưởng tượng và sáng tạo của mình.
c) Hiệu quả thực hiện giải pháp
Trẻ được rèn luyện được trải nghiệm các tình huống khác nhau vì thế trẻ đã
biết vận dụng kiến thức kỹ năng mới vào trong cuộc sống hàng ngày của trẻ. Giúp
trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý tốt các tình huống có thể xảy ra trong cuộc

sống, khơi ngợi tư duy sáng tạo của mỗi trẻ.
d) Điểm khác biệt và tính mới của giải pháp
Biện pháp này đã tạo cơ hội để trẻ tập luyện kĩ năng sống, thúc đẩy trẻ thay
đổi các giá trị thái độ và hành vi trước đó của mình nhằm lựa chọn những giá trị,
thái độ và hành vi mới phù hợp. Giúp trẻ vận dụng kiến thức và kĩ năng mới vào
các tình huống cuộc sống thực tế. Tạo cơ hội cho trẻ được tham quan, tiếp xúc môi
trường xã hội gần gũi xung quanh và trải nghiệm các kĩ năng sống, quan sát tốt,
biết suy đoán, phán đoán chính xác, bền vững, nhưng rất gần gũi, nhẹ nhàng và
thực tiễn trong đời sống hàng ngày được áp dụng qua các hoạt động phong phú đa
dạng như học tập, vui chơi, lao động, sáng tạo.
1.2. Quá trình thử nghiệm
1.2.1. Thực nghiệm lần thứ nhất
16


HOẠT ĐỘNG ĐÓN TRẺ
Dạy trẻ chào hỏi lễ phép với người lớn tuổi và bạn bè.
1. Kết quả mong đợi
a) Kiến thức
- 3 tuổi: Trẻ biết chào bố mẹ, người thân và cô giáo khi đến lớp
- 4 tuổi: Trẻ biết chào hỏi lễ phép ông, bà, cha, mẹ khi đi học về, chào cô khi
đến lớp, chào các bạn khi ra về.
- 5 tuổi: Biết chào hỏi lễ phép khi ở nhà, khi ở trường, biết nói lời cảm ơn,
xin lỗi.
b) Kỹ năng
Rèn khả năng diễn đạt mạch lạc, trả lời tròn câu;. Sử dụng một số từ chào
hỏi, lễ phép với người lớn.
c) Thái độ
- Trẻ biết kính trọng ông, bà, cha, mẹ, cô, biết yêu quý bạn
- Trẻ thể hiện được tình yêu thương qua lời nói, nhận biết được tình yêu

thương qua hành động, cử chỉ.
2. Chuẩn bị
- Cô tâm thế vui vẻ thoải mái.
3. Tiến hành
Cô tươi cười niềm nở đón trẻ.
Cô chào phụ huynh và chào trẻ.
Ví dụ: Em chào chị cô chào Linh.
Nếu trẻ chưa tự giác chào cô giáo thì cô giáo nhắc nhở trẻ.
Ví dụ: Bạn Linh giỏi chào cô giáo như thế nào?
Khi bố mẹ đi về nếu trẻ chưa tự giác chào bố mẹ thì cô giáo gợi ý cho trẻ
chào.
Ví dụ: bạn Linh giỏi đã chào bố mẹ chưa?
Cô nhắc trẻ khi đến lớp con cất ba lô đúng nơi quy định?
Cô cho trẻ vào lớp nếu trẻ chưa tự giác chào các bạn thì cô gợi ý cho trẻ
chào các bạn.
Kết quả: Với lòng kiên nhẫn, cô giáo đã dạy kỹ năng giao tiếp thông
qua đón trẻ. Đây là điều cần thiết bởi, ở tuổi mầm non, cách hành xử của trẻ nhiều
phần dựa trên bản năng – tức là hành động theo những gì bản thân muốn và chưa
hình thành suy nghĩ logic. Các bé diễn tả cảm xúc một cách tự nhiên bên ông bà,
anh chị em ..., nên cô giáo và người lớn luôn dạy trẻ biết chào hỏi vâng dạ khi nói
chuyện với người lớn. Đây là cách ứng xử trong giao tiếp giúp bé có thói quen tốt.
17


Cụ thể:
* Bảng 2. Kết quả kỹ năng sống của trẻ sau thử nghiệm lần 1
Đạt
TT

1

2
3
4
5
6

SL

%

11

52,4

10

So sánh tỷ lệ
trẻ “đạt”
trước khi áp
dụng (%)
47,6
+ 9,6

10

47,6

11

52,4


+ 19,0

14

66,7

7

33,3

+ 19,1

12

57,0

9

43,0

+ 14,2

13
10
12

62,0
47,6
57,0


8
11
9

38,0
52,4
43,0

+ 24,0
+ 23,8
+ 19,0

Tiêu chí

Kỹ năng về giao tiếp (với bố mẹ,
ông bà, bạn …)
Kỹ năng thực hiện các hành vi văn
minh
Kỹ năng tự phục vụ (tự xúc ăn, tự
tìm đồ dùng cá nhân của mình…)
Kỹ năng hoạt động theo nhóm
(chơi cùng bạn trong lớp )
Hình thành sự tự tin, tư lập
Kỹ năng tự nhận thức
Đánh giá chung

Chưa
đạt
SL %


Sau khi thực nghiệm lần 1 tôi nhận thấy các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thực
hiện các hành vi văn minh của trẻ chưa cao nên tôi đã nghiên cứu và tiếp tục thực
nghiệm lần 2.
1.2.2. Thực nghiệm lần thứ hai
HOẠT ĐỘNG NGOÀI TRỜI: Giáo dục kỹ năng sống
Dạy trẻ bỏ giác đúng nơi quy định
1. Kết quả mong đợi
a. Kiến thức
- Trẻ biết bỏ rác vào thùng rác, không vứt rác bừa bãi
- Trẻ phân biệt được hành vi đúng sai
b. Kỹ năng
- Rèn luyện tính tự giác, ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ
c. Thái độ
- Biết nhặt rác bỏ vào đúng nơi quy định để giữ gìn bảo vệ môi trường;
- Có ý thức đoàn kết, biết chơi cùng nhau
2. Chuẩn bị
- Video về hành vi vứt rác bừa bãi,
- Trang phục Chú Cuội
- Khẩu trang, găng tay, túi nilon cho cô và trẻ
18


- Máy tính, máy chiếu
3. Tổ chức hoạt động
* Hoạt động 1: Bé yêu ca hát
- Mở nhạc bài “Chú Cuội chơi trăng”, cô đóng vai anh Cuội đi chơi dẫm phải rác
bị trượt chân ngã. Anh Cuội nói:
+ Úi giời ơi! Cái gì thế này không biết? Ai mà vứt rác giữa đường thế này không
biết? Rác thì phải bỏ vào thùng rác chứ. (Chú Cuội nhặt rác bỏ vào thùng rác ) Hỏi

trẻ: Rác thì phải bỏ vào thùng rác đúng không các con? ( Trẻ trả lời )
+ Các em ơi cho anh hỏi đây là đâu? ( Trẻ trả lời )
+ Anh Cuội chào các em. Trên đường đến đây anh Cuội thấy rất nhiều rác đấy, anh
muốn anh em mình cùng nhau thu gom rác để môi trường sạch đẹp hơn, các em
đồng ý không? ( Trẻ trả lời )
+ Hôm nay đến đây anh còn quay được một đoạn video, các em có muốn biết đoạn
video đó nói về cái gì không? ( Trẻ trả lời )
* Hoạt động 2: Dạy trẻ bỏ rác đúng nơi quy định
- Cho trẻ xem đoạn video về hành vi vứt rác bừa bãi. Trò chuyện cùng trẻ:
+ Trong video các em thấy gì? ( Trẻ trả lời )
+ Bạn nhỏ trong video được ai đưa đến trường?
+ Mẹ bạn nhỏ có hành động gì?
+ Các em nghĩ thế nào về hành động của mẹ bạn nhỏ?
+ Một số bạn nhỏ ăn bánh kẹo, uống sữa đã vứt rác ở đâu?
+ Nếu là các em các em sẽ làm gì?
+ Khi được nhắc nhở thì bạn đã làm gì?
+ Vứt rác bừa bãi là thói quen như thế nào?
+ Sau khi ăn bánh kẹo, uống sữa,… thì chúng ta bỏ rác vào đâu?
- GD trẻ biết thu gom rác và bỏ rác đúng nơi quy định để bảo vệ môi trường xanh
sạch đẹp
+ Bây giờ các em có muốn cùng anh Cuội đi thu gom rác để bảo vệ môi trường
không? ( Trẻ trả lời )
+ Khi đi nhặt rác thì chúng ta cần những đồ dùng gì? ( Trẻ trả lời )
- Anh Cuội hướng dẫn trẻ cách đeo khẩu trang, đi tất và cách nhặt rác bỏ vào túi
bóng
+ Vì sao khi đi nhặt rác chúng ta phải sử dụng những đồ dùng này?
+ Sau khi nhặt rác xong, tay bị bẩn chúng ta phải làm gì?
- GD trẻ biết đeo khẩu trang, găng tay khi nhặt rác và rửa tay bằng xà phòng sau
khi nhặt rác
+ Các em đã sẵn sàng đi thu gom rác chưa?

* Kết thúc: Cho trẻ đi tất, đeo khẩu trang, lấy túi bóng đi thu gom rác

19


Kết quả: Qua hoạt động trên, tôi đã giáo dục trẻ những kỹ năng sống hết
sức cần thiết như: hình thành cho trẻ ý thức biết bỏ rác vào thùng rác, không vứt
rác bừa bãi; biết phân biệt được hành vi nào đúng, hành vi nào sai; ý thức đoàn kết,
biết chơi cùng nhau trong từng nhóm hoạt động, biết sẻ chia đồ chơi mà không
tranh dành lẫn nhau ... Từ đó hình thành cho trẻ thói quen, hành vi văn minh trong
cuộc sống hàng ngày.
Cụ thể:
* Bảng 3. Kết quả kỹ năng sống của trẻ sau thử nghiệm lần 2
Đạt
TT

SL

%

SL

%

So sánh tỷ lệ
trẻ “đạt” sau
khi áp dụng
lần 1 (%)

Tiêu chí


Chưa
đạt

1

Kỹ năng về giao tiếp (với bố mẹ,
ông bà, bạn …)

14

67,0

7

33,0

+14,6

2

Kỹ năng thực hiện các hành vi văn
minh

15

71,4

6


28,6

+ 23,8

3

Kỹ năng tự phục vụ (tự xúc ăn, tự
tìm đồ dùng cá nhân của mình…)

17

81,0

4

19,0

+ 14,3

4

Kỹ năng hoạt động theo nhóm
(chơi cùng bạn trong lớp )

15

71,4

6


28,6

+ 14,4

5

Hình thành sự tự tin, tư lập

16

76,2

5

23,8

+ 14,2

6

Kỹ năng tự nhận thức

14

67,0

7

33,0


+19,4

15

71,4

6

28,6

+ 14,4

Đánh giá chung

Sau khi thực nghiệm lần 2 trẻ đã có kỹ năng về giao tiếp với bạn bè, cô giáo
nên trẻ đã có ý thức thực hiện các hành vi văn minh và kỹ năng hoạt động theo
nhóm trẻ biết bỏ rác vào thùng rác, không vứt rác bừa bãi. Trẻ phân biệt được hành
vi đúng sai. Ở trẻ đã hình thành tính tự lập và sự tự tin nhưng một số trẻ kỹ năng
sống vẫn còn hạn chế. Mà với trẻ mầm non là chơi mà học học mà chơi nên tôi
tiếp tục thực nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi.
1.2.3. Thực nghiệm lần thứ ba: Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt
động vui chơi
Đối với trẻ mầm non (nói chung) và trẻ mẫu giáo 3,4,5 tuổi thì hoạt động vui
chơi chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động của trẻ ở trường mầm non. Thông qua
các hoạt động trong giờ chơi, trẻ được đóng các vai khác nhau trong xã hội, trẻ
đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong cuộc sống. Tất cả những kiến

20



thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có sẽ được trẻ thể hiện qua họat động vui
chơi.
Chính vì vậy, tôi rất chú trọng đến việc tạo các tình huống khi trẻ đóng vai
để trẻ tìm cách giải quyết, cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được những
kiến thức mà trẻ đã có.
Ví dụ : Ở góc “Gia đình”, khi tôi đóng giả một người lạ đến gõ cửa khi trẻ
ở nhà một mình, thì trẻ biết nhắc nhau “Đừng mở cửa, phải đợi bố mẹ về đã”.
Hoặc tôi cho trẻ ở nhóm gia đình cùng đi siêu thị và đưa ra tình huống: “Con bị
lạc bố mẹ ở siêu thị” thì trẻ biết ra nhờ cô bán hàng gọi điện thoại cho bố mẹ, cháu
đóng vai người bán hàng cũng nhắc trẻ: Cháu chờ ở đây với cô đợi bố mẹ đón.
Hoặc Tôi đóng một vai làm người đi đường và rủ bé: Đi cùng cô để cô dắt về
với mẹ. Các trẻ trong nhóm đã nhắc nhau: “Đừng đi, nếu không sẽ bị bắt cóc đấy”.
Hoặc với trò chơi “Đi ô tô” tôi cũng chú ý xem cách thể hiện của trẻ để có
những gợi mở kịp thời như : Các bác đã thắt dây an toàn chưa, đừng thò đầu, thò
tay ra ngoài khi xe đang chạy nhé.
Với nhóm “Nấu ăn”, tôi cũng lưu ý đến những thao tác mà trẻ mà trẻ thể
hiện vai của mình.
Ví dụ: bắc nồi lên bêp ga đặt đã đúng giữa bếp chưa nếu không sẽ dễ đổ và xảy
ra tai nạn, nấu xong phải nhớ tắt bếp, bắc nồi phải dùng cái lót tay để không bị bỏng.
Như vậy, với cách dạy trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau, lúc thông qua nội
dung các bài thơ, bài hát, câu chuyện để lồng vào giáo dục trẻ kỹ năng sống giúp
trẻ ghi nhớ một cách thoải mái, nhớ lâu và không gò bó áp đặt trẻ.
Đặc biệt với hình thức đặt ra các tình huống cho trẻ được trải nghiệm, tọa đàm,
nói lên cách sử lý của từng trẻ, sau đó cô giáo sẽ giúp trẻ tổng hợp lại và tìm ra
phương pháp hay biện pháp hoặc hình thức tối ưu nhất cho trẻ tích lũy kinh nghiệm
sống trong cuộc sống hàng ngày. Chính hình thức này giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, phát
triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ. Chính bằng cách thảo luận, mỗi cá nhân đưa ra
cách giải quyết cho phù hợp giúp trẻ biết vận dụng vốn hiểu biết, kiến thức của mình
để giải quyết vấn đề có thực trong thực tế. Đó cũng chính là một trong những kỹ năng
sống rất cần thiết cho trẻ trong cuộc sống hiện tại cũng như sau này.

Kết quả cụ thể
* Bảng 3. Kỹ năng sống của trẻ mẫu giáo sau thử nghiệm lần 3
Đạt
TT

1
2

SL

%

19

90,5

2

9,5

So sánh tỷ lệ
trẻ “đạt” sau
khi áp dụng
lần 2 (%)
+ 23,5

20

95


1

5,0

+ 23,6

Tiêu chí

Kỹ năng về giao tiếp (với bố mẹ,
ông bà, bạn …)
Kỹ năng thực hiện các hành vi văn
minh
21

Chưa
đạt
SL %


3

Kỹ năng tự phục vụ (tự xúc ăn, tự
20 95
1
5,0
+ 14,0
tìm đồ dùng cá nhân của mình…)
4 Kỹ năng hoạt động theo nhóm
20 95
1

5,0
+ 23,6
(chơi cùng bạn trong lớp )
5 Hình thành sự tự tin, tư lập
21 100 0
0
+ 23,8
6 Kỹ năng tự nhận thức
19 90,5 2
9,5
+ 23,5
Đánh giá chung
20 95
1
5,0
+ 23,6
Kết quả đạt được ở lần thực nghiệm này là trẻ đã có kỹ năng mạnh dạn tự tin
trong giao tiếp với bạn bè, cô giáo, trẻ đã có ý thức thực hiện các hành vi văn minh
Trẻ phân biệt được hành vi đúng sai. Ở trẻ đã hình thành tính tự lập và sự tự tin
trong cuộc sống hàng ngày.
2.Ưu, nhược điểm của giải pháp mới
2.1 Ưu điểm:
Thế hệ trẻ thường xuyên chịu các tác động từ môi trường sống xung quanh.
Đây cũng là thời đoạn bồi bổ nhân cách, thói quen, ước mơ của mỗi con người, thế
hệ trẻ luôn phải chiến đấu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Nếu
thiếu kỹ năng sống, giới trẻ dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn, bạo lực, các hành vi tiêu
cực, lối sống không lành mạnh, ích kỷ, dễ bị dụ dỗ, hoặc phát triển sai lệch về nhân
cách. Do đó khi áp dụng các giải pháp trên cho trẻ tôi nhận thấy đã mang lại cho
trẻ rất nhiều hữu ích, giúp các em có khả năng đối phó tích cực trước các tình
huống trong cuộc sống, xây dựng các mối quan hệ vững bền trong gia đình và

ngoài xã hội, có lối sống lành mạnh, hài hòa, tích cực, chủ động.Tạo cơ hội để trẻ
tập luyện kĩ năng sống, thúc đẩy trẻ thay đổi các giá trị thái độ và hành vi trước đó
của mình nhằm lựa chọn những giá trị, thái độ và hành vi mới phù hợp. Giúp trẻ
vận dụng kiến thức và kĩ năng mới vào các tình huống cuộc sống thực tế.
Làm thay đổi rõ rệt nhận thức cho các bậc cha mẹ trẻ không yêu chiều cung
phụng trẻ thái quá mà cần phải đổi mới, cần thay đổi tư duy và hành động trong
việc giáo dục kỹ năng sống cho em mình từ những việc nhỏ nhất.
Qua biện pháp nâng cao nhận thức cho bản thân về giáo dục kỹ năng sống
buộc giáo viên phải xác định việc học tập, bồi dưỡng là thường xuyên, liên tục qua
đó giáo viên phải biết kết hợp giữa kinh nghiệm, sự hiểu biết thông qua việc cập
nhật những kiến thức bổ ích về giáo dục kỹ năng sống cho bản thân để lựa chọn
những kỹ năng thực sự cần thiết đối với từng trẻ hay từng nhóm trẻ để giáo dục và
tạo cơ hội cho chúng được trải nghiệm hàng ngày.
2.2. Nhược điểm:
Vẫn còn một số trẻ chưa thực sự hoàn thiện các kỹ năng trên do đặc thù vùng
miền các trẻ chưa biết hết tiếng phổ thông, do cha mẹ đi làm xa trẻ ở với ông bà…
III. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Với sự tạo điều kiện, hướng dẫn, chỉ đạo của Ban giám hiệu, tổ chuyên môn,
sự tham gia giúp đỡ, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, cộng thêm sự nỗ lực cố
22


gắng của bản thân tôi đã nghiên cứu, học hỏi và sáng tạo ra những hình thức, tình
huống, cơ hội để trẻ được tham gia trải nghiệm và thực hành.
Sáng kiến này đã được áp dụng thử tại lớp mẫu giáo ghép 3 – 4 – 5 tuổi bản
Giàn trường Mầm non Mường Bằng- Mai Sơn – Sơn La năm học 2018-2019 và có
khả năng áp dụng đại trà tại các lớp trong toàn trường mầm non Mường Bằng
trong năm học tiếp theo.
IV. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được khi áp dụng
giải pháp.

1. Hiệu quả kinh tế
Tiết kiệm chi phí tài chính tổ chức lớp bồi dưỡng cho tổ chuyên môn, nhà
trường và huyện; đồng thời tiết kiệm được thời gian tương ứng cho mỗi cá nhân, tổ
chuyên môn và nhà trường.
Cụ thể: Ước khoảng như sau:
- Tổ chuyên môn: 3 buổi x 15 người x 100.000 đồng = 4.500.000 đồng;
- Nhà trường: 2 buổi x 39 người x 100.000 đồng = 7.800.000 đồng;
- Huyện: 1 buổi x 900 người x 100.000 đồng = 90.000.000 đồng.
Tiết kiệm được thời gian và kinh phí tổ chức tuyên truyền cho các bậc cha
mẹ trẻ và cộng đồng.
Cụ thể:
- Cha mẹ trẻ: 593 ph.Huynh x 1 buổi x 100.000 đồng = 59.300.000 đồng
- Cộng đồng: 26 bản x 1 buổi x 500.000 đồng = 13.000.000 đồng
2. Hiệu quả xã hội
* Đối với trẻ
Trẻ được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tình tò
mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin. Trẻ có thói quen lao
động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận
động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của
trẻ. Kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các
hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục Aerobic. Trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ
năng về cảm xúc, giao tiếp, chung sống .
Trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được
bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển, trẻ
luôn có kết quả tốt trong học tập bảng đánh giá trẻ ở lớp sau mỗi giai đoạn, và qua
kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng trẻ đạt khá và tốt,
Mạnh dạn tự tin,kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, phát âm rõ lời, tự lập, tự phục
vụ, lễ phép, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích khám phá học hỏi kỹ năng tự kiểm soát
bản thân,có kỹ năng lao động tự phục vụ.trong các giờ ăn, biết trực nhật sắp xếp
bàn ăn, tự trải chiếu, đệm khi ngủ ...

Cụ thể:
23


Kết quả khi
chưa thực
nghiệm

Kết quả sau
khi thực
nghiệm

SL
trẻ
đạt

Tỷ lệ

Tỷ lệ

%

SL
trẻ
đạt

Kỹ năng về giao tiếp (với bố mẹ,
ông bà, bạn …)

9


42,8

19

90,5

+ 47,7

Kỹ năng thực hiện các hành vi văn
minh

6

28,6

20

95

+ 66,4

Kỹ năng tự phục vụ (tự xúc ăn, tự
tìm đồ dùng cá nhân của mình…)

10

47,6

20


95

+ 47,4

Kỹ năng hoạt động theo nhóm (chơi
cùng bạn trong lớp )

9

42,8

20

95

+ 52,2

Hình thành sự tự tin, tự lập

8

38,0

21

100

+ 62,0


Kỹ năng tự nhận thức

5

23,8

19

90,5

+ 66,7

8

38,0

20

95

+ 57,0

Tiêu chí

Đánh giá chung

% tăng
sau khi
thực
nghiệm


%

* Đối với giáo viên
Giáo viên tự hiểu và nắm vững phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non. Kỹ năng sống được lồng ghép thông qua các hoạt động có trong nhà
trường và ở mọi lúc mọi nơi, các hoạt động chuyên môn, lễ hội…Công tác phối kết
hợp giữa nhà trường, gia đình, giữa giáo viên chủ nhiệm với trẻ với phụ huynh
thông qua các giờ đón trả trẻ, các hoạt động giao lưu văn nghệ giữa giáo viên và
phụ huynh, các hoạt động lễ hội…
* Đối với phụ huynh
Các bậc phụ huynh có những chuyển biến rõ rệt về phong cách, về lời ăn
tiếng nói và quan tâm đến con em mình ngày càng nhiều hơn.Các bậc cha mẹ đã có
thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng
sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức. Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái
tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho
trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá.
* Giá trị làm lợi khác
Nhân dân địa phương và phụ huynh học sinh phấn khởi, tin tưởng vào kết
quả GD&ĐT của nhà trường, của Ngành giáo dục.

24


×