PHÒNG GD - ĐT QUẬN CẦU GIẤY
TRƯỜNG MẦM NON HOA HỒNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số biện pháp phát triển kĩ năng sống cho trẻ 4- 5 tuổi
Lĩnh vực/ Môn: Giáo dục mẫu giáo
Tên tác giả : Nguyễn Thị Hà
Giáo viên mẫu giáo
Tài liệu kèm theo:
NĂM HỌC 2011 – 2012
Mt s bin phỏp giỳp tr 4 - 5 tui phỏt trin k nng sng
I. T VN
1. Lý do chn ti
Ngy nay trc s phỏt trin mnh m ca nn kinh t thỡ rt nhiu cỏc
bc ph huynh cú ớt thi gian quan tõm v trũ chuyn cựng con cỏi chớnh vỡ
vy tr thng hay thu mỡnh v rt ớt khi giao tip vi th gii bờn ngoi. iu
ny nh hng mnh m n s phỏt trin nhn thc, tỡnh cm ca tr. Nhn
thc c iu ú nhiu bc ph huynh ó tỡm n gii phỏp an ton cho con
mỡnh bng cỏch tỡm n nhng lp dy k nng sng cho con vi mong mun
tr s phỏt trin ton din. Giáo dục kỹ năng sống là một nội dung rất cần thiết
để giỳp tr khỏm phỏ th gii tõm hn mỡnh mt cỏch cú nh hng, khin tr
quý trng bn thõn, nuụi dng nhng giỏ tr sng nn tng v hỡnh thnh nhng
k nng sng tớch cc trong tr, giỳp tr cõn bng cuc sng trờn bn lnh vc
nn tng: th trng, tõm hn, trớ tu v tinh thn, t ú xõy dng cho tr nhng
k nng sng hũa nhp vi mụi trng xung quanh. mi mt la tui thỡ tr
cn cú nhng s tỏc ng khỏc nhau n k nng sng ca tr. Chm súc, nuụi
dng v giỏo dc tr t la tui mm non chớnh l c s giỳp tr phỏt trin ton
din v th cht, tỡnh cm, trớ tu, thm m, l nn tng cho quỏ trỡnh hc
tp sut i ca tr.
L mt giỏo viờn tụi quan tõm n nhng bin phỏp dy k nng sng cho
tr c bit la tui tụi ang ging dy mu giỏo nh 4-5 tui bi trong nhng
nghiờn cu khoa hc gn õy v s phỏt trin ca nóo tr ó ch ra rng: Tr
la tui ny hon ton cú kh nng giao tip, kh nng t kim soỏt thớch nghi
v th hin cm giỏc ca mỡnh. Tr cng hon ton cú kh nng hũa nhp, t
gii quyt vn mt cỏch t lp. ú chớnh l tin gieo mm ht ging nhm
hỡnh thnh k nng sng cho tr. Song do cha c trỳ trng nờn tr lp tụi
hon ton cha cú nhng k nng sng c bn y.
Vy k nng sng l gỡ ?
K nng sng chớnh l phng tin khụng th thiu giỳp tr tng nng
lc hi nhp, tớch cc, ch ng, sỏng to, t tin vng vng trc mi khú khn
th thỏch.
K nng sng chớnh l chic thỡa khúa vng cho s sng cũn, s phỏt trin
v s thnh cụng ca mi con ngi.
Khi nhc n dy k nng sng, ngi ta cho rng ú l mt caớ gỡ ú rt
cao siờu, nhng thc t dy k nng sng l dy nhng thúi quen sinh hot rt
thng ngy trong giao tip v ng x gia tr vi nhng con ngi v s vt
xung quanh. ú cng l nhng cm nhn, cm xỳc ca con ngi trc s thay
i ca mụi trng xung quanh.
Vy lm th no cú th cú mt phng phỏp truyn t n tr nhng
k nng sng tt nht? V dy di hỡnh thc no?
Là một giáo viên mầm non, qua tìm tòi nghiên cứu, nhận thức sâu sắc ý
nghĩa vai trò quan trọng của các kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Trái
tim người mẹ hiền thứ hai đã thôi thúc tôi lựa chọn thực hiện đề tài “Một số
biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi phát triển kỹ năng sống”.
Ngày nay, nội dung giáo dục kỹ năng sống đã được chú trọng. Tuy nhiên
việc giáo dục kỹ năng sống chưa trở thành một môn học với 1 giáo trình chuẩn
được áp dụng trong nhà trường.
Qua việc áp dụng sáng kiến này tôi muốn đóng góp một phần nhỏ bé đưa
ra một số biện pháp giúp trẻ 4 - 5 tuổi hình thành kỹ năng sống.
Trong năm học 2011 - 2012 , tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện
pháp giúp trẻ 4 - 5 tuổi hình thành kỹ năng sống”.
Thời gian thực hiện từ tháng 9/2011 đến tháng 5/2012.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi và khó khăn
1.1. Thuận lợi
- Bản thân tôi là một giáo viên nhiệt tình với trẻ tâm huyết với nghề nghiệp
- Sĩ số lớp ổn định, trẻ tiếp thu nhanh phát triển tốt cả thể chất và trí tuệ.
- Giáo viên ở lớp phối kết hợp và thống nhất phương pháp, biện pháp dạy trẻ.
- Trường MN Hoa Hồng có khuôn viên rộng rãi thoáng mát. Nhà trường có
truyền thống và nhiều thành tích trong chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ MN.
- BGH nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng cao
chuyên môn và mua sắm cũng như bổ sung cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi để
đảm bảo thực hiện tốt chất lượng giảng dạy.
- Có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy tiếp xúc với trẻ, nắm được tâm
sinh lý của trẻ và những xu hướng phát triển của trẻ.
1.2. Khó khăn
- Đây là nội dung giáo dục còn khá mới mẻ trong chương trình giáo dục
trong chương trình giáo dục cho trẻ mầm non. Vì vậy còn ít tài liệu để tham
khảo tìm hiểu.
- Nhiều phụ huynh chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn luyện kỹ
năng cho trẻ.
- Số lượng trẻ trong lớp quá đông. Nhiều trẻ mới đi lớp chưa có nề nếp.
- Việc tổ chức các hoạt động tập thể, trò chơi nhằm hình thành rèn luyện
kỹ năng sống cho trẻ còn khó khăn.
- Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống phát triển hiện đại như: Internet, tivi,
các trò chơi điện tử…
- Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm,
không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh.
2. Thực trạng kĩ năng sống của trẻ
Qua điều tra thực tế về vốn kỹ năng sống của trẻ tôi nhận thấy kết quả khảo sát
trước khi thực hiện như sau:
Nội dung khảo sát
Đạt Chưa đạt
Số
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
1. Kỹ năng giao tiếp 20 39 32 61
2. Kỹ năng thích nghi 16 31 46 69
3. Kỹ năng tự phục vụ và tự bảo vệ 15 29 47 71
4. Kỹ năng nhận thức. 23 44 29 56
5.Kỹ năng vận động. 17 32 45 68
6. Kỹ năng tự giải quyết vấn đề 11 21 41 79
7. Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng nhóm. 10 20 42 80
8. Kỹ năng tự kiểm soát cảm xúc và tạo niềm vui
14 27 38 73
Từ những số liệu trên cho thấy kỹ năng sống và việc thực hiện các kỹ
năng sống của trẻ là rất thấp. Vì vậy tôi đã mạnh dạn tìm cách trang bị, các kiến
thức về kỹ năng sống và bền bỉ tận tâm rèn luyện những kỹ năng sống cơ bản
nhất cho trẻ lớp tôi thông qua đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 4 - 5 tuổi hình
thành kỹ năng sống”.
3. Các biện pháp thực hiện
3.1. Phương pháp phát triển kỹ năng giao tiếp
Cách giao tiếp không chỉ quan trọng trong những năm trẻ đi học mà còn
rất quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ. Vậy cần làm gì để trẻ có thể
hoàn thiện kĩ năng giao tiếp của mình? Kỹ năng giao tiếp được xem là một năng
lực cần thiết cho trẻ mở rộng quan hệ từ trong gia đình cho đến ngoài nhà trường
và xã hội. Đây là một kỹ năng phức tạp bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, vì thế
ngoài những yếu tố của năng lực nội tại có sẵn nơi trẻ, thì các giáo viên cũng
cần quan tâm áp dụng những biện pháp để giúp trẻ phát triển về kỹ năng giao
tiếp thông qua việc tác động bằng cách kích thích nhiều giác quan, mà chủ yếu
là nghe – nhìn và đụng chạm qua mắt, tai và xúc giác.
Hãy giúp trẻ biết cách giao tiếp với bạn bè, ông bà, cha mẹ và người lạ
thông qua cách luyện tập và giúp trẻ thực hành dần dần, tạo môi trường cho trẻ
tiếp xúc và có cơ hội để giao tiếp, có thể thông qua cách cho trẻ đi nhiều nơi,
tiếp xúc với nhiều người, hoặc cho các trẻ chơi các trò chơi vận động ngoài trời
theo nhóm nhỏ, các trò chơi đóng vai …
Kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng nền tảng để giúp trẻ nhận
biết các giá trị sống và hình thành các kỹ năng sống - Vì thế cần được quan tâm
và giúp trẻ phát triển một cách tự nhiên - từng bước một trong suốt chiều dài
phát triển nhân cách của trẻ.
Ngôn ngữ được xem là công cụ chính trong việc giao tiếp, từ khi sinh ra
cho đến khi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên thì trẻ giao tiếp bằng tiếng khóc, và
cử chỉ, ánh mắt Khi trẻ bắt đầu nói và ngôn ngữ sẽ được phát triển rất nhanh từ
khi trẻ trên 12 tháng, cho đến khi trẻ được 5 tuổi thì ngôn ngữ đã hoàn thiện, trẻ
có đủ vốn từ ( khoảng 2000 từ ) để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Việc
giúp trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ thông qua việc trò chuyện với trẻ, cho trẻ
chơi những trò chơi phát triển ngôn ngữ, đọc sách hay kể chuyện cho trẻ nghe là
những hoạt động cần thiết để giúp trẻ đạt được sự giao tiếp tốt nhất.Tuy nhiên,
không phải cứ nói nhiều, nói hoài với trẻ là tốt, mà nhiều khi một bà mẹ nói
chuyện quá nhiều với con, nói những câu dài và trả lời luôn cho con khiến trẻ
chỉ biết gật gù, lại là một trong những nguyên nhân gây ra sự thụ động hay chậm
nói cho trẻ.
3.1.1. Kỹ năng giao tiếp với bạn bè
- Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là
nơi đa văn hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Mô hình này tạo cơ hội cho
giáo viên có thể dạy trẻ học cách chấp nhận và có cơ hội để khám phá những sở
thích, những mối quan tâm chung của nhau.
Để giúp trẻ phát triển kỹ năng chơi với các trẻ khác, tôi tổ chức và tập cho
trẻ những cách chơi mang tính lần lượt, thay phiên nhau : Cô vẽ một vòng, trẻ vẽ
một vòng - cô xếp một khối gỗ,trẻ xếp một khối khác lên hay chơi những trò
chơi buôn bán, cô là người mua hàng, trẻ là người bán hàng Khi trẻ đã quen
những trò chơi cùng nhau như thế, thì khi chơi trẻ sẽ dễ dàng tham gia vào hoạt
động cùng với các bạn hơn.
Cô tạo môi trường cho trẻ giao tiếp với nhau và tạo tình huống để trẻ tự
giải quyết. Cô có thể khuyến khích trẻ, đặt câu hỏi có vấn đề để trẻ cùng nhau
suy nghĩ và tìm cách giải quyết.
Ngoài ra, cô còn sưu tầm một số câu chuyện, bài thơ mang tính giáo
dục.Giúp trẻ thấy các nhân vật trong câu chuyện, bài thơ giao tiếp với nhau như
thế nào?
Tính cách mỗi trẻ mỗi khác, có những trẻ hoạt bát hiếu động nhưng cũng
có những trẻ chậm chạp, thụ động hoặc quá nóng nảy Vì thế, giáo viên cần
phải biết rõ tính cách của từng trẻ để có thể cho các trẻ chơi với những người
bạn thích hợp với cá tính nhằm tránh xẩy ra những va chạm về tính cách.
Đôi khi giao tiếp không hẳn là lịch sự,
tôn trọng và thân thiện mà nó đơn
giản chỉ là một nghi thức giao tiếp.
Costance Hoffman, một huấn luyện
viên nghi thức tại Los Angeles đã đưa
ra những bí quyết dưới đây giúp trẻ có
thể phát triển kĩ năng giao tiếp tốt với
bạn bè:
- “Giao tiếp” bằng mắt và nở một nụ
cười thật tự nhiên.
- Luôn luôn giữ lời hứa
- Khiến cho buổi nói chuyện trở nên
thật thoải mái.
- Tham gia những hoạt động vui chơi
ở trường
- Tỏ ra thật chân thành
3.1.2. Kỹ năng giao tiếp với bố mẹ, ông bà
Ở gia đình, trẻ luôn được ông bà, bố mẹ làm thay những nhu cầu mà bản
thân trẻ có thể làm được, trẻ hầu như được bảo vệ và chăm sóc theo nguyên tắc
là phụ thuộc và nuông chiều Vì thế dẫn đến tình trạng trẻ không diễn đạt những
nhu cầu của mình bằng lời nói mà bằng những cử chỉ thì người lớn đã đáp ứng
nhu cầu ngay lập tức.
Tất cả những điều đó sẽ là tốt đẹp nếu nó ở một chừng mực nào đó, nếu
vẫn có những lĩnh vực và không gian cho phép trẻ có cơ hội để bộc lộ những sở
thích cá nhân, những hành vi tự chủ. Nhưng nó sẽ là một bi kịch vì sẽ dẫn đến
những xung đột trong việc giao tiếp, tạo cho trẻ những nhận thức và hành vi
không phù hợp khi trẻ bắt đầu tiếp xúc, hình thành các khả năng giao tiếp với xã
hội bên ngoài, nếu như trẻ phải tiếp nhận những sự bắt buộc. Ngược lại là một
sự nuông chiều, trẻ được chấp nhận mọi yêu cầu vô điều kiện với suy nghĩ đơn
giản là trẻ nhỏ chưa biết gì, chiều nó một chút cũng không sao, nhưng điều đó sẽ
tạo nên những hành vi và nhận thức sai lệch của trẻ mà lâu dần sẽ biến thành
thói quen rất khó thay đổi !
Đối với người lớn, trẻ cần được tập cho những lời nói lễ phép và tự nhiên,
không quá màu mè và hình thức nhưng cũng không được phép cộc lốc và xuồng
sã - Điều này trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng
xử của bố mẹ với người khác. Chúng ta sẽ không thể cấm trẻ nói năng thô lỗ nếu
chính bố mẹ thích "xả rác bằng miệng" và cũng không thể buộc trẻ lễ phép khi
bố mẹ không có những hành vi lịch sự tối thiểu.
- Ngoài ra qua những giờ học, cô lồng ghép nội dung giáo dục, cách giao
tiếp với người lớn tuổi giúp trẻ hiểu và diễn đạt nhu cầu mong muốn của mình.
- Cho trẻ tham gia đóng vai để trải nghiệm kỹ năng giao tiếp
- Tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và chọn cách giao tiếp với
người lớn cho phù hợp.
3.1.3. Kỹ năng giao tiếp với người lạ
Một trong những điều mà trẻ cần phải học và nhận biết một cách đầy đủ,
đó là tính tôn trọng . Điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau :
- Biết nói lời xin lỗi, biết nói cám ơn.
- Không cướp lời, nói leo khi người khác nói.
- Không tự tiện lấy và sử dụng đồ dùng của người khác.
Và cả ba khía cạnh này sẽ được trẻ học rất tốt qua sự làm gương của bố
mẹ, cô giáo và những người xung quanh. Khi chúng ta biết cám ơn và xin lỗi
những người mà chúng ta tiếp xúc trên đường phố, hay trong sự va quẹt khi
tham gia giao thông, cũng như ở ngay trong lớp cô “cảm ơn” trẻ khi trẻ giúp cô.
Kỹ năng giao tiếp là một trong
những kỹ năng thực hành . Những
lời dạy dỗ sáo rỗng không đem lại
kết quả tốt mà còn phản tác dụng,
khi trẻ em được chứng kiến những
cảnh: nói vậy mà không phải vậy -
vì chắc chắn trẻ sẽ nhìn vào hành
động của người lớn chứ không nghe
theo những gì mà người lớn dạy
bảo, trừ khi có những hành động
minh chứng cho sự dạy dỗ đó.
Chúng ta hãy giáo dục con bằng cả
tấm lòng với sự trung thực
.
Trẻ thích thú làm quen với em bé trong công viên
3.2. Phương pháp phát triển kỹ năng thích nghi
Thích nghi là một kỹ năng sống quan trọng vì nếu kỹ năng giao tiếp là
bước đầu để tiếp xúc với môi trường bên ngoài với những người xung quanh, thì
thích nghi chính là bước tiếp theo để có thể hòa nhập hoặc phản ứng lại với môi
trường bên ngoài.
Đứa trẻ nếu có kỹ năng giao tiếp tốt có thể đạt được những thành công với
những người xung quanh trong việc tham gia vào các hoạt động cùng với họ, là
bố mẹ ông bà hay các bạn của trẻ. Thế nhưng nếu trẻ không có khả năng thích
nghi thì cũng khó mà đạt được những kết quả tốt cho cuộc sống của mình.
3.2.1. Kỹ năng thích nghi các loại thức ăn
Đôi khi trẻ có những sở thích hơi đặc biệt về ăn uống, chỉ thích ăn vài loại
thực phẩm nhất định, uống vài loại sữa hay thức uống nhất định – Điều đó
thường là do chính chúng ta vô tình tập cho trẻ khi còn bé, vì thế một mặt chúng
ta vẫn chấp nhận và tôn trọng những sở thích này nhưng vẫn nên tập cho trẻ có
khả năng ăn uống đa dạng, vì nếu không có những sở thích về ăn uống của trẻ
sẽ gây ra những khó khăn, rắc rối đặc biệt là trong các chuyến đi chơi xa.
Chúng ta cũng nên biết rằng một chút thiếu vệ sinh, thiếu sạch sẽ …cũng
không gây ra tác hại nào, mà lại tạo cho trẻ có một sức đề kháng tốt hơn, tránh
được tình trạng chỉ cần uống chút nước lã, ăn chút rau sống là đau bụng, đi cầu.
- Tập cho trẻ tham dự bữa cơm gia đình để trẻ cảm nhận được niềm vui
khi ăn. Tổ chức các bữa ăn tập thể ở lớp,động viên trẻ ăn theo hình thức thi đua
để trẻ cảm thấy hứng thú khi ăn.
- Khi tổ chức bữa ăn cho trẻ ở trường cần tạo không gian thoáng mát, hợp
vệ sinh, đảm bảo an toàn cho trẻ để trẻ ăn ngon miệng.
- Có thể làm một cái lịch “ăn uống” trong tuần với trẻ trên 3 tuổi. Bữa
nào trẻ ăn được thì sẽ gắn một bông hoa và một khuôn mặt tươi cười, bữa nào
trẻ khó ăn, không tập trung ăn thì sẽ có một khuôn mặt mếu. Đến cuối tuần làm
tổng kết và khen ngợi trẻ về các khuôn mặt cười và tặng cho trẻ một món quà
nho nhỏ. Nhưng nếu nhiều khuôn mặt buồn thì cũng không nên trách mắng, mà
nên khuyến khích “: Cô biết là còn sẽ làm tốt hơn…”
Chúng ta cũng nên tìm hiểu kỹ hơn về tình trạng sức khỏe của trẻ để giúp
trẻ ăn uống tốt hơn.
- Trước bữa ăn để tạo cảm giác ăn ngon miệng và thích thú khi ăn, cô nên
giới thiệu tên các món ăn và tác dụng của những loại thực phẩm mà trẻ ăn thật
hấp dẫn và thu hút.
Các bé cùng nhau thưởng thức ẩm thực quê hương
3.2.2. Kỹ năng thích nghi với môi trường
Với môi trường sống cũng thế, một môi trường bẩn thỉu và ô nhiễm là
không thể chấp nhận được, nhưng một không gian quá sạch sẽ cũng không phải
là một điều kiện tốt cho sự phát triển của trẻ.
Điều đầu tiên mà chúng ta nên tập cho trẻ là kỹ năng thích nghi với sự
thay đổi thời tiết. Ở Miền Bắc với bốn mùa thời tiết thay đổi.Vì thế, việc cho trẻ
nhận biết được các kiểu thời tiết để tự lựa chọn các trang phục phù hợp với thời
tiết là điều rất cần thiết.Có thể cho trẻ dãi dầu mưa nắng trong một mức độ nào
đó, cũng như từng bước nâng cao sức chịu đựng của các bé, cũng là một biện
pháp giúp trẻ thích nghi cao và tránh được tình trạng đau ốm lặt vặt, thậm chí có
thể đưa đến những tổn thương không đáng có.
Trẻ có thể nghịch cát, đất trong một chừng mực vừa phải vì điều đó giúp
cho các bé vừa thỏa mãn được tính năng động, vừa nâng cao khả năng đề kháng.
Dĩ nhiên là nên có sự giám sát của người lớn, nhưng chúng ta chỉ can thiệp khi
có những dấu hiệu của sự nguy hiểm, còn đối với một vài cú vấp ngã của trẻ thì
cứ để cho trẻ tự đứng lên, điều đó không chỉ giúp trẻ mạnh dạn và tự tin hơn mà
còn cho chúng ta tránh được những sự mè nheo của trẻ.
Ở Nhật Bản, trẻ em luôn phải mặc quần soóc vào mùa đông, lạnh không
hề hấn gì với các bạn nhỏ nơi xứ sở Hoa Anh Đào. Quan điểm của giáo viên
cũng như các bậc phụ huynh là rèn luyện tính chịu đựng trước khó khăn và phải
tự lập chủ động trong mọi biến cố có thể xảy ra. Tính tự lực và tự giác luôn được
những ông bố, bà mẹ Nhật Bản đưa vào phương pháp giáo dục con cái của
mình. Qua những bài rèn luyện thể chất, ở Nhật rất ít trẻ em mắc bệnh về đường
hô hấp như sổ mũi, viêm họng do thay đổi thời tiết…
3.2.3. Kỹ năng thích nghi với đám đông
Chúng ta biết rằng con người có hai loại tính khí chính là tính hướng nội
và tính hướng ngoại, và trong mỗi loại tính cách đó lại có 4 nhóm cá tính khác
nhau. Các nhóm này thường có sự phối hợp để tạo nên những mẫu người có cá
tính khác nhau.
Vì vậy, việc tập cho trẻ làm quen với đám đông phải dựa trên tính cách
của các trẻ, giáo viên nên hiểu trẻ thuộc loại tính khí nào! Với trẻ hướng ngoại
thì chúng ta không cần lo ngại, vì trẻ thường có xu thế thích đám đông, thích sự
ồn ào vui vẻ, náo nhiệt, thích các hoạt động tập thể. Còn với trẻ hướng nội thì trẻ
sẽ ngại tiếp xúc với đám đông, có vẻ như dụt dè nhút nhát. Nhưng các bé cũng
có những ưu điểm để có thể thành công, đôi khi còn tốt hơn cả trẻ hướng ngoại
nếu được sự định hướng đúng cách của người lớn.
Chúng ta có thể giúp trẻ quen dần với đám đông qua việc cho trẻ tham
gia các giờ học dã ngoại, tham gia các hoạt động ở trường.
Ngoài ra, trong việc hòa nhập với xã hội, chúng ta cũng cần tập cho trẻ
những thói quen ứng xử với một phong cách văn minh, lịch sự qua những hoạt
động hằng ngày ở trường:
- Thói quen biết xếp hàng : Đây là
một thói quen mà hầu hết người lớn
chúng ta không để ý khi tham gia vào
các hoạt động chung. Nhưng hãy cố
gắng làm gương và tập cho trẻ có thói
quen xếp hàng ngay từ nhỏ để dẩn
dần thay đổi được một cách ứng xử
kém văn hóa nơi công cộng là sự
chen lấn nhau.
Ở lớp cô rèn cho trẻ thói quen xếp
hàng (không chen ngang, xô đẩy
bạn ) khi tham gia vào một hoạt động
nào đó.
Cùng nhau xếp hàng đi chơi công viên
- Thói quen bỏ rác vào thùng rác:
Ngay tại lớp học cũng nên có nhiều
thùng rác, để trẻ thấy việc bỏ rác là 1
thói quen trong lớp. Khi đi chơi ngoài
sân trường, cũng cần bỏ rác và hướng
dẫn cho trẻ bỏ rác vào các thùng rác
công cộng để hình thành thói quen
này.
Nhắc nhở trẻ luôn luôn biết vứt rác
vào đúng nơi quy định.
- Thói quen biết nói xin lỗi và cám ơn : Ngay từ bé, chúng ta cũng cho trẻ
thấy cách ứng xử như vậy của người lớn, và khi giao tiếp với trẻ, chính giáo viên
cũng cần biết nói xin lỗi và cám ơn trẻ – Như thế, trẻ sẽ cảm nhận được một
cách tự nhiên các cách ứng xử này.
Kỹ năng thích nghi là một trong những kỹ năng giúp một đứa trẻ bình thường,
không có những năng lực đặc biệt gì nhưng vẫn có thể đạt được những thành
công nhất định trong cuộc sống và không gục ngã trước những thách thức khi
bước vào đời.
3.3. Phương pháp phát triển kỹ năng khám phá thế giới xung quanh
Trẻ con rất hiếu động, thích khám phá thế giới xung quanh, nhiều khi
chúng ta sẽ rất mệt mỏi và phát cáu với sự tò mò đó.Thế nhưng sự khám phá đó
chính là những bước đầu tiên để trẻ học về đồ vật và cách giải quyết vấn đề. Các
bé bị mê hoặc bởi cách mà mọi thứ diễn ra, cách các đồ vật hoạt động, và bên
trong các đồ vật trông thế nào, chúng được tạo ra thế nào. Những kỹ năng như:
Kéo lên, đứng dậy, trườn bò, đi bộ, leo trèo, và chạy sẽ giúp bé khám phá và
thử nghiệm môi trường xung quanh bé
.
Giữ cho một đứa trẻ biết đi luôn được an toàn cần phải có sự quan tâm
liên tục, và có lúc dường như bạn không thể ngơi nghỉ một phút nào. Thật ngạc
nhiên, có bao nhiêu nơi nguy hiểm và đồ vật mà trẻ có thể khám phá. Nhưng
công việc thêm vào là cần phải khuyến khích trẻ khi trẻ khám phá và học về giá
trị của mọi thứ. Thỉnh thoảng có thể bạn muốn dừng nhu cầu đòi hỏi khám phá
của trẻ. Nhưng hãy nhớ rằng: Khám phá thế giới xung quanh là cần thiết cho sự
lớn lên của trẻ. Hãy tập trung năng lượng của bạn vào việc cung cấp cho trẻ
những nơi an toàn để học tập về thế giới xung quanh mình.
Nếu có thể, trước tiên, hãy để trẻ sờ vào những đồ vật trong thực tế. Sau
đó, hãy nói với trẻ về những đặc trưng, tính chất, tác dụng cơ bản của sự vật
như: “Cái chổi dùng để quét nhà, cái bút dùng để viết…” để trẻ dần dần hình
thành khái niệm về những thứ ở xung quanh mình.
Khi trẻ ở độ tuổi này thường giành ít thời gian khám phá hơn, và càng
ngày chơi càng nhiều hơn. Và chơi là "công việc" của trẻ, giúp trẻ luyện tập và
làm chủ được trí óc, thể chất và các kỹ năng xã hội.
Để giúp cho trẻ phát triển, tôi lên kế hoạch các cách làm để khám phá những
điều mới lạ và thú vị tại trường, tại nhà các khu vực lân cận. Tất nhiên công việc
này nên trao đổi với các bậc phụ huynh, đề nhị phụ huynh cùng hợp tác.
Nghĩ đến những ý tưởng mới, liên quan tới màu sắc, hình khối, kết cấu bề
mặt, và kích cỡ.
Làm một cuộc đi dạo đến những nơi mới đối với trẻ: cửa hàng, công viên,
hoặc một sở thú. Nói chuyện với trẻ về những gì trẻ thấy ở những nơi này.
Để trẻ rửa những cái đĩa nhựa với bạn, hoặc đưa cho trẻ đồ chơi để chơi khi
trẻ trong bồn tắm (và chắc chắn bạn sẽ phải thu dọn một chiến trường lộn xộn).
Cung cấp cho trẻ những nơi an toàn để bò, trốn tìm, leo trèo và khám phá
(ví dụ, bạn nên trải 1 tấm ga giường lên bàn, để tạo một cái hang giả vờ)
Nói về những cái mà trẻ và bạn nhìn thấy và nghe thấy trong khi đi dạo, đi
xe bus, hoặc lái xe. Thông qua những giờ học ngoại khóa, hay những chuyến đi
dã ngoại do trường tổ chức để trẻ giúp bạn chuẩn bị những thức ăn đơn giản, để
trẻ khám phá xem hình thức, hình khối, nguyên liệu và màu sắc (một lần nữa,
bạn chắc chắn sẽ phải chuẩn bị cho một sự lộn xộn khác). Khi nói với trẻ về thế
giới xung quanh, giáo viên không nên nói nhiều mà hãy để trẻ tự khám phá bằng
sự quan sát, suy luận của trẻ. Điều này sẽ gây hứng thú và kích thích sự sáng tạo
của trẻ. Giáo viên nên quan tâm đến những gì trẻ thích chứ không nên cố gắng
thu hút sự chú ý của trẻ vào những việc làm mà bạn đã lựa chọn.
Giáo viên có thể để cho trẻ khám phá thiên nhiên bằng các hình thức đi dã
ngoại, tự gieo trồng các loại cây, chăm sóc các loại cây, con vật.
- Kỹ năng khám phá không gian
- Kỹ năng khám phá sự vật
- Kỹ năng khám phá chất liệu
- Kỹ năng khám phá thiên nhiên
Bé tìm hiểu, khám phá cây xanh
Khám phá các phương tiên chiến đấu của các chú bộ đội
3.4. Phương pháp phát triển kỹ năng tự chăm sóc bản thân
Việc trẻ biết tự chăm sóc mình là những viên gạch đầu tiên xây dựng tính
tự tin, tự lập và ứng phó với những đòi hỏi khác. Ví dụ như: Khi trẻ biết cách
xếp quần áo thì sau này khi đi học trẻ dễ dàng áp dụng kỹ năng đó vào việc xếp
sách vở, đồ dùng đi học. Khi đi làm trẻ sẽ biết sắp xếp công việc tốt hơn.
Nếu trẻ không biết mang đôi vớ, giặt bộ quần áo cho chính mình thì trẻ
cũng sẽ không biết làm điều đó cho người khác. Dạy cho trẻ khả năng tự chăm
sóc mình, ngoài việc tốt cho bản thân trẻ, trẻ tự chăm sóc mình cũng là cách
giúp đỡ những người trong gia đình… Trẻ không biết tự chăm sóc mình thì sẽ
không cảm nhận được sự vất vả khi làm việc gì, không thông cảm và thấu hiểu
thì trẻ sẽ không có sự chia sẻ, gắn bó với những tình cảm mà người thân đã
giành cho mình.
3.4.1. Kỹ năng tự xúc ăn
- Trẻ ở độ tuổi này hoàn toàn có
thể tự xúc ăn, chính vì vậy giáo
viên chỉ cần khuyến khích và động
viên trẻ trong giờ ăn
3.4.2. Kỹ năng tự mặc quần áo
Cô hướng dẫn trẻ cách tự mặc
quần áo, gấp quần áo, cất quần áo
vào đúng nơi quy định. Giúp trẻ
hình thành thói quen tự lập trong
việc chăm sóc bản thân.
3.4.3. Kỹ năng tự chăm lo vệ sinh cá nhân
Cô hướng dẫn trẻ cách vệ
sinh cá nhân như: rửa tay, rửa
mặt, đánh răng, tắm. Dạy trẻ
cách an toàn khi thực hiện
các việc vệ sinh cá nhân. Tạo
cho trẻ có ý thức tự giác
chăm lo vệ sinh cá nhân
thông qua các câu truy
ện,
hoạt động học tập trên lớp.
3.5. Phương pháp phát triển kỹ năng tự bảo vệ
3.51. Kỹ năng phân biệt nguy hiểm
Dạy trẻ học cách nhận biết đồng thời hành động những hành động đúng
và kịp thời bảo vệ bản thân qua các tình huống.
Các mối nguy hiểm trong nhà như: gas, bàn ủi, điện, nước nóng, dao kéo
Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: Quấy rối, bắt cóc, bắt nạt, trộm cắp, cướp, lạc đường.
Các mối nguy hiểm bất ngờ: Cháy nổ, kẹt thang máy, chó cắn, ong đốt, ngộ độc
Các mối nguy hiểm ngoài môi trường: động đất, lũ lụt, bị sa vào vũng lầy, sông nước.
3.5.2. Kỹ năng tự xoay sở
Không phải những vấn đề trong cuộc sống đều được giải quyết một cách
dễ dàng và bạn sẽ phải truyền đạt điều ấy cho trẻ khi chúng đối mặt với thử
thách lớn và không phải lúc nào cũng có người lớn bên cạnh để giúp trẻ giải
quyết vấn đề. Khi trẻ gặp phải một vấn đề nào đấy, giáo viên đừng thay trẻ giải
quyết mọi vấn đề, trừ trường hợp bắt buộc phải làm như thế. Thay vào đó hãy
giúp trẻ tìm kiếm giải pháp thích hợp, điều này chứng tỏ bạn tin tưởng trẻ có khả
năng tự giải quyết vấn đề. Những bước nhỏ hằng ngày mà bạn thực hiện để
khuyến khích kỹ năng giải quyết vấn đề của trẻ giúp trẻ có những sáng kiến tốt
hơn trong cuộc sống khi chúng lớn lên từng ngày. “Hãy là chỗ dựa cho trẻ chứ
không phải là người giải quyết vấn đề cho trẻ.”
3.6. Phương pháp phát triển kỹ năng làm việc đội nhóm
3.6. 1. Kỹ năng làm việc cùng bạn trong nhóm lớp và tập thể
Trẻ thường yêu thích trò chơi do
chúng lựa chọn và tự đề ra cách chơi,
tự phân nhóm. Vì vậy để việc giáo
dục mang tính hiệu quả cao, người
giáo viên cần tiến hành bài dạy thông
qua giáo án, trò chơi học tập, sắm vai,
diễn kịch…Với niềm say mê tự khám
phá từ các bài học, trẻ rút ra kiến thức
để vận dụng trong cuộc sống, mỗi trẻ
sẽ giới thiệu nhiều kết quả bất ngờ.
Giáo viên đưa ra những bài tập,
những thử thách, trò chơi mang tính
chất tập thể đòi hỏi trẻ phải tự tìm
nhóm, tự hợp sức để hoàn thành yêu
cầu của cô. Từ đấy, hình thành ý thức
tập thể và làm việc theo nhóm.
Vui chơi cùng nhóm bạn trong HĐNK
3.6. 2. Kỹ năng tạo niềm vui thông qua kết quả tập thể đạt được
Khi trẻ tham gia vào một hoạt động nhóm đòi hỏi trẻ phải có sự làm việc
nghiêm túc, phải phân công rõ ràng để đạt được kết quả. Giáo viên cần có sự
động viên để trẻ thấy được sự nỗ lực của cả nhóm trong quá trình trẻ làm việc
theo nhóm. Giáo viên cần nhận xét sao cho trẻ cảm nhận được mỗi thành viên
trong nhóm đều rất quan trọng và đều đã làm việc rất tốt. Dù kết quả đó có đạt
yêu cầu hay không đạt yêu cầu thì trẻ vẫn cảm thấy giá trị của sự đoàn kết giữa
các thành viên trong nhóm, tự biết động viên và an ủi, tạo niềm vui cho nhau
thông qua kết quả tập thể đạt được.
3.6. 3. Kỹ năng tạo ra tinh thần đồng đội
Trẻ ở độ tuổi này đã biết làm việc
theo nhóm và thích tham gia vào
những hoạt động tập thể. Tuy
nhiên, đôi khi trẻ vẫn làm việc theo
nhóm với cách hiểu đơn giản là gộp
các bạn lại chứ ít nhiều chưa có sự
gắn kết. Vì vậy, giáo viên cần tổ
chức thường xuyên và đa dạng các
hoạt động làm việc theo nhóm
3.7. Phương pháp phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề
3.7. 1. Kỹ năng kiểm soát hành vi
Trẻ ở lứa tuổi này đã bắt đầu biết kiểm soát hành vi của mình tuy nhiên
trẻ vẫn có nhiều hành động chưa thể tự kiểm soát được.
Các hành vi xấu của trẻ
hoàn toàn có thể kiểm soát. Đôi khi giáo viên có thể kiểm soát hành vi xấu ở trẻ
bằng sự kiên nhẫn và kịp thời chặn đứng những tình huống trẻ sắp bùng nổ tính
xấu
.
sẽ gặp trường hợp trẻ trở nên hung hăng, hay mất bình tĩnh vì đây là một
phần bình thường trong quá trình phát triển. Nguyên nhân một phần là do trẻ
chưa đủ kỹ năng nói để thể hiện cảm xúc của mình.
Bất cứ lúc nào và ở đâu, giữa đám đông, trong bữa ăn gia đình, thậm chí
là ở nhà, sự bướng bỉnh và cáu kỉnh của trẻ cũng có thể khiến người lớn giận
cực độ. Nhưng bạn cũng có thể giải quyết vấn đề dễ dàng nếu bạn dạy trẻ biết
cách kiểm soát hành vi của bản thân, dạy trẻ nên lựa chọn cách xử sự phù hợp
với hoàn cảnh. Nếu trẻ được dạy cách tự kiềm chế, trẻ có thể hiểu rằng thái độ
giận dữ và nóng nảy của trẻ sẽ khiến người lớn không vui.
- Giáo viên có thể kiểm soát hành vi xấu ở trẻ bằng sự kiên nhẫn và kịp
thời chặn đứng những tình huống trẻ sắp bùng nổ tính xấu
.
- Giáo viên có thể dùng biện pháp tách trẻ khỏi nhóm bạn trong thời gian
ngắn một hoặc hai phút để làm dịu cơn giận, nhưng tốt hơn là nên giới hạn trong
một khoảng thời gian đặc biệt. Hãy sớm kết thúc thời gian rời trẻ khi trẻ không
còn cáu giận nữa. Điều này có thể là một cách hiệu quả để khuyến khích trẻ cải
thiện việc tự kiểm soát của mình. Nó cũng là một thái độ bày tỏ sự tán dương trẻ
không nên mất kiểm soát trong những tình huống khó khăn hoặc dễ gây bực bội.
- Giữ bình tĩnh khi đối phó với hành vi hung hăng của trẻ. Các trẻ học hỏi
từ những gì trẻ quan sát được. Giáo viên nên là hình mẫu khi dạy trẻ và trong
cuộc sống. Tuyệt đối không đánh hoặc thô bạo với trẻ ngay cả khi giáo viên
đang thất vọng hay mệt mỏi. Chỉ cần giáo viên có hành vi thô bạo, trẻ cũng sẽ
bắt chước theo ngay.
- Nói chuyện với trẻ thật nghiêm túc và rõ ràng với ngôn ngữ mà trẻ hiểu
được để chấm dứt hành vi xấu. Nghiêm khắc nói với trẻ câu đơn giản như: "Con
không được làm như vậy. Cô không thích điều đấy". Điều này cho phép trẻ biết
rằng hành vi của trẻ là không thể chấp nhận được. Hoặc chuyển sự chú ý của trẻ
sang hoạt động khác để đánh lạc hướng.
- Kỷ luật trẻ khi cần thiết (với thời gian ngắn) để trẻ biết hành vi hung
hăng không được phép. Trong độ tuổi từ 3 đến 6, trẻ có thể phải đứng ở góc phạt
trong vòng vài phút hoặc cách ly trẻ khỏi bạn chơi nếu trẻ cắn người bạn này.
Cách ly trẻ khỏi cả đồ chơi và giải thích trẻ đang bị phạt vì trẻ vừa đánh, cắn bạn
và la hét.
- Hạn chế cho trẻ tiếp xúc với truyền hình hoặc trò chơi có tính bạo lực vì
chúng có thể thúc đẩy hành vi hung hăng của trẻ. Giáo viên cũng nên trao đổi
với phụ huynh thận trọng với chương trình tivi dành cho người lớn vì nó có thể
không phù hợp với trẻ nhỏ tuổi hơn.
- Nhận biết sự giận dữ và khó chịu của trẻ thông qua trò chuyện. Cô giáo
cần giúp trẻ bộc lộ trạng thái cảm xúc tiêu cực. Qua đó, giúp trẻ hiểu rằng, tức
giận là được chấp nhận nhưng cắn hay đá bạn là không được phép. Hãy hỏi trẻ:
"Trông con giận dữ thế. Cho cô biết tại sao?" - một cuộc hội thoại có thể ngăn
chặn hành vi hung hăng ở trẻ.
-
Tạo một biểu đồ phần thưởng giúp trẻ kiếm được miếng dán bé ngoan
hoặc đồ chơi nhỏ cho hành vi tốt. Các trẻ trong độ tuổi này cần được người lớn
cổ vũ và khen ngợi để sửa hành vi hung hăng. Trẻ có thể sẽ tốt hơn nếu được
hứa hẹn về những phần thưởng khi trẻ ngừng đánh hay cào cấu ai.
- Nếu hành vi hung hăng ở trẻ kéo dài và nỗ lực của bạn để ngăn chặn
hành vi xấu của trẻ không tỏ ra hiệu quả cô có thể trao đổi với phụ huynh . Theo
một số nghiên cứu, tính hung dữ quá mức ở một trẻ có thể là kết quả của sự
chậm phát triển, chấn thương tình cảm hoặc những vấn đề khác trong gia đình
không dễ khắc phục.
3.7. 2. Kỹ năng ngăn ngừa tình huống xấu có thể xảy ra
Thế giới xung quanh trẻ luôn tiềm ẩn những tình huống xấu, điều nguy
hiểm và không phải lúc nào bận cũng có thể ở bên cạnh để bảo vệ cho trẻ chính
vì vậy dạy cho trẻ kỹ năng ngăn ngừa tình huống xấu có thể xảy ra là một điều
hết sức cần thiết. Giáo viên cần đưa ra những tình huống cho trẻ được trải
nghiệm và đưa ra những ý kiến của mình từ đó xây dựng thói quen trong hành vi
ứng xử đúng khi gặp những tình huống xấu. Cũng thông qua đó trẻ có thể đoán
biết được những tình huống xấu có thể sảy ra và biết cách tránh. Không chỉ dạy
trong các giờ học mà cô giáo còn có thể vận dụng trong tất cả các tình huống
sinh hoạt hằng ngày giúp trẻ tránh những tình huống trong thực tế cuộc sống.
3.7. 3. Kỹ năng tư duy tích cực, giải quyết nhanh vấn đề
Trong cuộc sống những đứa trẻ chắc chắn sẽ đối mặt với rất nhiều vấn đề
và đủ loại khó khăn trong cuộc sống, và đó là một phần trong quá trình trưởng
thành. Thông qua việc giải quyết những khó khăn, trẻ học được những kỹ năng
giải quyết nhanh vấn đề, những kỹ năng rất cần thiết để thành công trong cuộc
sống. Trẻ con có khả năng tiềm ẩn lớn lao trong việc tìm kiếm những giải pháp
tốt cho vấn đề của chúng. Thật khôn ngoan khi dành thời gian giúp đỡ trẻ phát
triển những kỹ năng giải quyết nhanh vấn đề. Để làm được điều đó thì giáo viên
cần bao quát trẻ để ý những thói quen hành vi của trẻ. Khi trẻ gặp những vấn để
trong cuộc sống chúng ta không vội vàng giúp trẻ giải quyết mà để trẻ tự tìm
những phương án giải quyết cho mình, nếu trẻ làm tốt thì sẽ động viên khuyến
khích, khen trẻ, nếu trẻ không tự giải quyết được thì giáo viên sẽ đưa ra những
gợi ý để trẻ tự giải quyết, từ đấy dần hình thành thói quen tự lập và phản ứng
nhanh với các tình huống trong cuộc sống.
3.8 Xây dựng mối quan hệ gần gũi mật thiết trong lớp học.
Trong mỗi lớp học đều tồn tại mối quan hệ giữa: Cô giáo - học sinh - phụ
huynh. Xây dựng mối quan hệ gần gũi mật thiết giữa lớp học chính là việc xây
dựng mối liên hệ hai chiều hài hòa giữa:
Cô giáo
Phụ huynh Học sinh
Trong lớp tôi, tôi luôn lỗ lực để tạo dựng tình cảm hai chiều mở rộng, gần
gũi, yêu thương gắn bó giữa cô và trẻ. Cô là người bạn cùng trẻ chia sẻ cảm xúc vui
buồn, cùng trẻ vui chơi, học tập, lắng nghe và thấu hiểu những suy nghĩ tình cảm
của trẻ. Cô khuyến luôn khích trẻ tạo cơ hội và niềm tin để trẻ sẵn sàng bày tỏ, trò
chuyện bộc lộ khả năng, năng lực cảm xúc của minh. Ở bên trẻ không có một áp
lực nào, trẻ mạnh dạn hồn nhiên và sống đúng với những suy nghĩ của mình. Đó là
điều kiện không thể thiếu để trẻ phát triển kỹ năng chủ động tích cực sáng tạo, là
môi trường để trẻ được bộc lộ và để sống cuộc sống của chính mình.
- Mối liên kết tình cảm, tình bạn thân thiết trong sáng giữa trẻ với trẻ trong
lớp cũng luôn được tôi dày công vun đắp và nâng niu. Trong mọi hoạt động tôi
luôn tạo cơ hội để trẻ gần gũi quan tâm đến nhau và kết hợp với nhau để cùng
học,cùng chơi, cùng hoạt động. Biểu dương khuyến khích những nhóm bạn biết
cùng nhau tiến bộ và biết thể hiện sự quan tâm, yêu thương, gắn bó lẫn nhau.
“Học thầy không tày học bạn”
- Đối với phụ huynh để việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có hiệu quả
nhất thì giáo viên cần phải thật sự thắt chặt mối dây liên hệ giữa hai bên.
- Ngay từ đầu năm học thông qua các buổi họp phụ huynh tôi đã trân tình
cởi mở trao đổi nội dung kế hoạch giáo dục hình thành kỹ năng sống cho trẻ để phụ
huynh hiểu và thống nhất biện pháp phối hợp cùng tôi thực hiện. Tôi đã nhấn mạnh
để phụ huynh hiểu rằng đây là một quá trình lâu dài và đòi hỏi việc giáo dục rèn
luyện phải được thực hiện ở cả nhà trường và gia đình thì mới có hiệu quả cao.
Chính vì vậy tôi cũng mạnh dạn đề nghị phụ huynh thường xuyên trao đổi với cô,
đọc bảng tin phụ huynh và gần gũi với trẻ để tìm hiểu các nội dung giáo dục kỹ
năng sống trên lớp. Đồng thời phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ ở nhà và phản
ánh kết quả qua lại kể cả hai phía đều biết được tình cảm của trẻ.
VD: Khi dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ ở lớp như: Tự đi và tháo dày dép, gập
quần áo, giáo viên cũng trao đổi để phụ huynh rèn trẻ làm tự các công việc lao
động phục vụ bản thân ở nhà mình như: tự đánh răng, rửa mặt, lấy quần áo mặc,
đi giầy dép,đi tất, tự xúc ăn…
Khi dạy trẻ cách ứng xử văn hóa cô cũng nhẹ nhàng trao đổi để phụ
huynh rèn trẻ các hành vi văn hóa ở nhà như: gõ cửa trước khi vào, mời trước
khi ăn, cảm ơn, xin lỗi đúng lúc…
- Tuyên truyền để phụ huynh hiểu rằng mỗi người trong gia đình đều có
trách nhiệm trong việc giáo dục hình thành kỹ năng sống cho trẻ và đều phải làm
tấm gương để trẻ noi theo.
- Những kỹ năng sống tốt đẹp chỉ được hình thành trên nền tảng là tình
yêu thương, sự quan tâm, và tin tưởng lẫn nhau của cả phụ huynh, học sinh và
cô giáo. Chính vì vậy với sự quyết tâm tôi đã xây dựng cho lớp mình mối quan
hệ gắn kết mật thiết giữa cô - trẻ và phụ huynh học sinh.
3.9. Kết hợp với các giáo viên trong lớp
- Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách tốt nhất, các giáo viên trong
lớp cần có sự phối kết hợp chặt chẽ để cùng nhau giáo dục trẻ. Kỹ năng sống của
giáo viên cũng là một trong những điều rất quan trọng trong việc giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ, là tấm gương cho trẻ noi theo.
4. Kết quả đạt được
a. Đối với cô:
- Bản thân được trau dồi những kỹ năng sống.
- Có thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm trong công tác giáo dục hình
thành kỹ năng sống cho trẻ.
- Được phụ huynh tin yêu, quý mến, yên tâm gửi gắm con em cho mình.
b. Đối với trẻ:
- Trẻ biết lao động phù hợp với sức của mình, tự tin, bạo dạn trước nơi
đông người, vững vàng , chủ động, có bản lĩnh trong mọi tình huống.
- Trẻ được trang bị đầy đủ những kỹ năng sống cơ bản.
- Giúp trẻ có điều kiện để phát triển một cách toàn diện.
Qua điều tra thực tế về vốn kỹ năng sống của trẻ tôi nhận thấy kết quả
khảo sát sau khi thực hiện như sau:
Nội dung khảo sát
Đạt Chưa đạt
Số
Tỷ
lệ%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
1. Kỹ năng giao tiếp 49 95 3 5
2. Kỹ năng thích nghi 48 92 4 8
3. Kỹ năng tự phục vụ và tự bảo vệ 50 96 2 4
4. Kỹ năng nhận thức. 48 92 4 8
5.Kỹ năng vận động. 47 90 5 10
6. Kỹ năng tự giải quyết vấn đề 45 87 7 13
7. Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng nhóm. 49 95 3 5
8. Kỹ năng tự kiểm soát cảm xúc và tạo niềm vui 45 87 7 13
Biểu đồ thể hiện kết quả khảo sát sau khi thực hiện
100%
80%
60%
40%
20%
0%
Tỷ lệ chưa đạt
T
ỷ lệ đạt
95% 92% 96% 92% 95%
90% 87% 87%
13% 13%
5% 8% 4% 8% 10% 5%
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng điều khiển ý thức và hành vi của
con người. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non sẽ mang lại cho các cháu rất
nhiều lợi ích về mặt sức khỏe, giáo dục và cả văn hóa xã hội, giúp các con sớm
có một cơ thể cường tráng, lành mạnh về trí tuệ cũng như thể lực, sớm có ý thức
và khả năng thích nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng
đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cho cộng đồng.
Giáo dục những năm tháng đầu đời có ý nghĩa cho cả cuộc đời. Giáo dục
mầm non là những viên gạch đầu tiên có ý nghĩa hết sức quan trọng cho những
năm tiếp theo và cả cuộc đời của trẻ.
Dưới đây là một số bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình thực hiện đề tài bản thân tôi đã rút ra được những kinh
nghiệm như sau:
- Bản thân cần phải tích cực tìm tòi học hỏi, nhận thức sâu sắc những nội
dung giáo dục và lựa chọn nội dung phù hợp đưa vào dạy trẻ lớp mình.
- Mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn để thực hiện
thành công ý tưởng của mình.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của nhà trường, phụ huynh cùng toàn thể
CB-GVNV trong công tác giáo dục và hình thành kỹ năng sống cho trẻ.
- Tổ chức nhiều hoạt động tạo mọi cơ hội để trẻ được hình thành các kỹ
năng sống.
- Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín và tiềm năng đối với phụ
huynh và đối với trẻ.
- Dạy trẻ bằng tình yêu thương và lòng nhiệt tình.
3. Kiến nghị đề xuất
Qua tìm tòi nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi nhận thấy nội dung giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ ở bậc học mầm non là rất phù hợp và cần thiết. Vì vậy đề
nghị các cấp lãnh đạo tiếp tục triển khai thực hiện rộng rãi nội dung giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ ở các trường mầm non.
Mở lớp tập huấn chuyên môn về nội dung giáo dục kỹ năng sống cho giáo
viên đến từng cơ sở.
Tuyên truyền nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm Non trên đài
báo, ti vi nhằm nâng cao nhận thức của phụ huynh.
Tăng cường điều kiện cơ sở vật chất cũng như kinh phí để tổ chức các
hoạt động tập thể có quy mô, chất lượng cao.
Cuối cùng tôi rất mong được sự quan tâm, bổ sung, góp ý của các cấp
lãnh đạo cho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Cầu Giấy, ngày 22 tháng 03 năm 2012
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Nguyễn Thị Hà