ĐẦU TƯ TỒN KHO VÀ NHỮNG ĐIỂM HẠN CHẾ TRONG CÔNG
NGHIỆP SẢN XUẤT CỦA Ý: TIẾP CẬN BẢNG DỮ LIỆU GMM
TÓM LƯỢC:
Ba bảng không can đối lớn của các công y sản xuất Ý đã được quan sát qua
khoảng thời gian 19912009 được dùng để đánh giá, bằng cách tiếp cận
phương pháp GMM linh hoạt, liệu sự tồn tại những va trạm tài chính lf
phuuf hợp để giải thích những sai lêch những tồn kho từ con đường dài hạn
của họ. Một phản hồi tiêu cực về đầu tư tồn kho đến dự có mặt của những
gánh nặng tài chính có lẽ cung cấp bằng chứng của vai trò quan trọng của
khung làm việc bên tài chính trong điều kiện khía cạnh thực của nền kinh tế.
Nhất là những năm suy thoái,khi những vấn đề lỏng nảy sinh. Ảnh hưởng
tiêu cực đươc timfthaays trong khoảng thơi gian phân tich, với những khía
cạnh theo chiều hướng của công ty kế toán nhiều rủi ro hơn những đặc
điểm để giả thích hiện tượng, nhưng kết luận về những điều giả suy thoái
vào các mẫu dẫn đến những ế quả gây tranh cãi vầ khó hiểu. Một sự ảnh
hưởng sy thoái đáng kể dduocj tìm thấy những năm 90, kế toán tồn kho thì
nhạy cả đến những rắc rối tài chính trong suôt thờ gian đỉnh điểm của suy
thoái, 1993 và 1996. Kết quả không được xác nhận bởi những ngiên cứu gần
đây, đặc biệt là những cái đề cập đến cú sốc suy thoái năm 20082009,
những ảnh hưởng của nó được khám phá ra lần đầu tiên bởi một bài nghiên
cứu lên quan đến lĩnh vực nhuwngc hạn chế tài chính và dầu tu tồn kho.
Những giả thuyết khác cho kết quả được đề xuất đã được kiểm duyệt trên
dữ iệu. Các công ty được thấy rằng họ dựa vào sự suy giảm tồn kho đến
một mưc độ thấp so với quá khứ, kích họat tài chính bên trong. Cụ thể hơn,
giảm đầu tư trong tài sản tài chính vẫn còn hện diện, vấn đề thực ra là một
trong nhũng người vận chuyển chính đã chấp nhận để giảm căng thẳng
thanh khoản:một mối quan hệ quan trọng và tiêu cực liên quan tới dầu tư
hàng tồn kho được tìm ra, sau việc kiểm soát những hạn chế thanh khoản
ngắn hạn ở mức độ cụ thể. Trái lại, chỉ một mối quan hệ tiêu cực nhỏ đã
đượcc thiết lập với mức vốn cố định trong suốt hia năm suy thoái.
MỞ ĐẦU
Những thay đổi dịch chuyển tồn kho đã chứng minh nó có liên quan đến
những biến động sản lượng trong suốt thời gian qua. Được chấp nhận rộng
rãi rằng chúng là những chỉ số khả quan cho hoạt động kinh doanh, theo như
dự đoán, ở những giai đoạn nhất định, có những điều chỉnh giảm sản lượng
ơ cấp độ vĩ mô.
Những tài liệu nghiên cứu ngày càng nhiều cũng đã và đnâg chứng rằng,
hàng tồn kho của công ty có khuynh hướng tỷ lệ thuận với doanh số trong
dài hạn nhưng mói tương quan thì không đúng trong ngắn hạn, khi một dãy
xếp giao dịch giữa đầu tư hàng tồn kho và doanh số xảy ra. Các công ty phải
đối mặt với những hạn chế tai chính, đây là một trong những yếu tố quyết
định sự suy giảm hàng tồn kho. Những phản hồi tiêu cực về đầu tư hàng tồn
kho đến sự hiện diện của ranh giới tài chính có lẽ cung cấp bằng chứng về
vai trò của khung tài chính trong điều kiện nền kinh tế thực tại, đặ bệ trong
suốt những năm suy thoái, khi vấn đề thanh khoản nảy sinh.
Bài viết hiện tịa đê cập đến vấn đề thông qua việc khai thác ba bảng không
cân xứng của những công ty sản xuất Ý được quan sát qua các nưm 1991
2009. Khoảng thờ gian được lựa chọn bao gồm hai thời kì suy thoái của nền
kinh tế nước Ý: cuộc suy thoái đầu những năm 90 và cú sốc 20082009.
Theo như tôi biết, đây là bài viết đầu tiên thuộc lĩnh vực nghiên cứu phân
tích những ảnh hưởng của cuộc suy thoái sau thông qua thành tố sản xuất
của Ý. Một sự tiếp cận linh hoạt đã đưa ra những kỳ lạ của hiện tượng mà
dựa trên những rủi ro nội tại của các công ty, vai trò của những ảnh hưởng
thành phần hay những phản ứng khác nhau đến chính sách tiền tệ trong suốt
những năm qua, đặc biệt theo cách tích lũy thanh khoản.
Phàn còn lại của bài nghiên cứu được tổ chức theo như sau. Phần kế tiếp
giới thiệu và thảo luận vê nền tảng lý thuyết trên hành vi hàng tồn kho.
Phần 3 miêu tả chi tiết đặc điểm thực nghiệm của mô hình, cả về đặc
điểm kỹ thuật và những biến liên quan. Phần 4 là dành cho mô tả dữ liệu
trong khi các kết quả kinh tế lượng thực nghiệm vf các bài kiểm nghiệm
được thảo luận trong phần 5. Các kết luận chính được tóm tắt ở phần 6.
2. Lý thuyết hành vi kiểm kê
Với sự nỗ lực khám phá ra những yếu tố xác định những thay đổi trong ngắn
hạn của hàng tồn kho đối với doanh số, vài mô hình đã được dugf chính thức
và kiểm nghiệm trên cả dữ liệu vi mô và vĩ mô. Mô hình điều chỉnh mục
tiêu (Lovell, 1961; Blanchard, 1983),